Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

thị trường và các định chế tài chính ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.09 KB, 23 trang )

ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
………………………………

Thị trường và các
định chế tài chính
ĐỀ TÀI

NGÂN
HÀNG
THƯƠN
G MẠI

GVHD : NGUYỄN THỊ NHÃ UYÊN
LỚP

: 42K02.3

SVTH

: LÊ NGỌC SÁNG
TRẦN PHAN NHẬT QUANG
TRẦN THỊ KIM THOA
TRẦN THỊ DIỆU LINH
ĐÀO THỊ THANH THẢO

Đà Nẵng, ngày 8 tháng
MỤC4Lnăm
ỤC 2018


Bài báo cáo



PHẦN 1

Ngân hàng thương mại

CHỨC NĂNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Ngân hàng thương mại có các chức năng chủ yếu sau:
1.1 Chức năng trung gian tín dụng
Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng thương mại đóng vai trò là "cầu
nối" giữa người dư thừa vốn và người có nhu cầu về vốn.

Thông qua việc huy động các khoản vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, ngân hàng
thương mại hình thành nên quỹ cho vay để cung cấp tín dụng cho nền kinh tế. Với chức năng này,
ngân hàng thương mại vừa đóng vai trò là người đi vay vừa đóng vai trò là người cho vay.
Với chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng thương mại đã góp phần tạo lợi ích cho tất
cả các bên tham gia: người gửi tiền, ngân hàng và người đi vay, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của
nền kinh tế.
• Đối với người gửi tiền, họ thu được lợi từ khoản vốn tạm thời nhàn rỗi của mình dưới hình
thức lãi tiền gửi mà ngân hàng trả cho họ. Hơn nữa, ngân hàng còn đảm bảo cho họ sự an toàn về
khoản tiền gửi và cung cấp các dịch vụ thanh toán tiện lợi.
• Đối với người đi vay, họ sẽ thoả mãn được nhu cầu vốn để kinh doanh, chi tiêu, thanh toán
mà không phải chi phí nhiều về sức lực, thời gian cho việc tìm kiếm nơi cung ứng vốn tiện lợi, chắc
chắn và hợp pháp.
• Đối với ngân hàng thương mại, họ sẽ tìm kiếm được lợi nhuận cho bản thân mình từ chênh
lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi hoặc hoa hồng môi giới. Lợi nhuận này chính là cơ sở
để tồn tại và phát triển của ngân hàng thương mại.
• Đối với nền kinh tế, chức năng này có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế vì nó đáp ứng nhu cầu vốn để đảm bảo quá trình tái sản xuất được thực hiện liên tục
và để mở rộng quy mô sản xuất. Với chức năng này, ngân hàng thương mại đã biến vốn nhàn rỗi

không hoạt động thành vốn hoạt động, kích thích quá trình luân chuyển vốn, thúc đẩy sản xuất kinh
doanh phát triển.
Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của ngân hàng
thương mại vì nó phản ánh bản chất của ngân hàng thương mại là đi vay để cho vay, nó quyết định
sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Đồng thời nó cũng là cơ sở để thực hiện các chức năng khác.
1.2 Chức năng trung gian thanh toán
Ngân hàng thương mại làm trung gian thanh toán khi nó thực hiện thanh toán theo yêu cầu của
khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ hoặc
nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của

SVTH: Nhóm 1

Trang 2


Bài báo cáo

Ngân hàng thương mại

họ. Ở đây ngân hàng thương mại đóng vai trò là người "thủ quỹ" cho các doanh nghiệp và cá nhân
bởi ngân hàng là người giữ tài khoản của họ.
Ngân hàng thương mại thực hiện chức năng trung gian thanh toán trên cơ sở thực hiện chức năng
trung gian tín dụng vì tiền đề để khách hàng thực hiện thanh toán qua ngân hàng chính là một phần
tiền gửi trước đó. Việc các ngân hàng thương mại thực hiện chức năng trung gian thanh toán có ý
nghĩa rất to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế. Với chức năng này, các ngân hàng thương mại cung cấp
cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán thuận lợi. Nhờ đó, các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm
được rất nhiều chi phí, thời gian đi tới gặp chủ nợ, người phải thanh toán và lại đảm bảo được việc
thanh toán an toàn. Qua đó, chức năng này thúc đẩy lưu thông hàng hoá, đẩy nhanh tốc độ thanh
toán, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế. Đồng thời, việc thanh toán không
dùng tiền mặt qua ngân hàng đã giảm được lượng tiền mặt trong lưu thông, dẫn đến tiết kiệm chi phí

lưu thông tiền mặt như chi phí in ấn, đếm nhận, bảo quản tiền...
Đối với ngân hàng thương mại, chức năng này góp phần tăng thêm lợi nhuận cho ngân hàng thông
qua việc thu lệ phí thanh toán. Thêm nữa, nó lại làm tăng nguồn vốn cho vay của ngân hàng thể hiện
trên số dư có trong tài khoản tiền gửi của khách hàng. Chức năng này cũng chính là cơ sở hình
thành chức năng tạo tiền của ngân hàng thương mại.
1.3 Chức năng "tạo tiền"
Khi có sự phân hoá trong hệ thống ngân hàng, hình thành nên ngân hàng phát hành và
các ngân hàng trung gian thì ngân hàng trung gian không còn thực hiện chức năng phát hành giấy
bạc ngân hàng nữa. Nhưng với chức năng trung gian tín dụng và trung gian thanh toán, ngân hàng
thương mại có khả năng tạo ra tiền tín dụng (hay tiền ghi sổ) thể hiện trên tài khoản tiền gửi thanh
toán của khách hàng tại ngân hàng thương mại. Đây chính là một bộ phận của lượng tiền được sử
dụng trong các giao dịch.
Ban đầu từ những khoản tiền dự trữ tăng lên, ngân hàng thương mại sử dụng để cho vay
bằng chuyển khoản, sau đó những khoản tiền này sẽ được quay lại ngân hàng thương mại một phần
khi những người sử dụng tiền gửi vào dưới dạng tiền gửi không kỳ hạn. Quá trình này tiễp diễn
trong hệ thống ngân hàng và tạo nên một lượng tiền gửi (tức tiền tín dụng) gấp nhiều lần số dự trữ
tăng thêm ban đầu. Mức mở rộng tiền gửi phụ thuộc vào hệ số mở rộng tiền gửi. Hệ số này, đến lượt
nó chịu tác động bởi các yếu tố: tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ vượt mức và tỷ lệ giữ tiền mặt so
với tiền gửi thanh toán của công chúng.
Với chức năng "tạo tiền", hệ thống ngân hàng thương mại đã làm tăng phương tiện thanh
toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Rõ ràng khái niệm về tiền hay
tiền giao dịch không chỉ là tiền giấy do ngân hàng trung ương phát hành ra mà còn bao gồm một bộ
phận quan trọng là lượng tiền ghi sổ do các ngân hàng thương mại tạo ra.
Chức năng này cũng chỉ ra mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng và lưu thông tiền tệ.
Một khối lượng tín dụng mà ngân hàng thương mại cho vay ra làm tăng khả năng tạo tiền của ngân
hàng thương mại, từ đó làm tăng lượng tiền cung ứng.
Các chức năng của ngân hàng thương mại có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung, hỗ trợ cho
nhau, trong đó chức năng trung gian tín dụng là chức năng cơ bản nhất, tạo cơ sở cho việc thực hiện
các chức năng sau. Đồng thời khi ngân hàng thực hiện tốt chức năng trung gian thanh toán và chức
năng tạo tiền lại góp phần làm tăng nguồn vốn tín dụng, mở rộng hoạt động tín dụng.


SVTH: Nhóm 1

Trang 3


Bài báo cáo
PHẦN 2

Ngân hàng thương mại

NGUỒN VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

“Vốn của Ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập hoặc huy động
được dùng để đầu tư, cho vay hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác. Nó chi phối toàn bộ hoạt
động của NHTM. Nó quết định sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng”
2.1 Cơ cấu và nguồn hình thành nên nguồn vốn của NHTM
Nguồn vốn của NHTM phần lớn do thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong sản suất kinh
doanh được gửi vào Ngân hàng với các mục đích khác nhau. Ngân hàng đóng vai trò tập trung
nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để chuyển đến các nhà đầu tư có nhu cầu về vốn để phục vụ
cho hoạt động sản xuất kinh doanh qua đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Ngân hàng và các hoạt
động về nguồn vốn quyết định trực tiếp đến sự tồn tại và phất triển của cấc Ngân hàng thương mại.
Nguồn vốn đóng vai trò chi phối và quyết định đối với các hoạt động của các NHTM trong việc
thực hiện các chức năng của mình.
Cơ cấu vốn của Ngân hàng thương mại bao gồm:
2.2 Vốn thuộc sở hữu của Ngân hàng
Vốn thuộc sở hữu của NHTM chiếm một tỷ trọng nhỏ trong các khoản mục tạo nên nguồn vốn
(thường chỉ chiếm 5% trong tổng nguồn vốn) nhưng nó có vai trò cực kỳ quan trọng đối với các
Ngân hàng. Do tính chất thường xuyên ổn định nên Ngân hàng có thể sử dụng nó vào các mục đích
khác nhau như trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật, tạo tài sản cố định phục vụ cho bản thân Ngân hàng,

có thể sử dụng cho vay, đặc biệt là đầu tư góp vốn liên doanh. Mặt khác với chức năng bảo vệ, vốn
thuộc sở hữu của Ngân hàng được coi như là tài sản đảm bảo gây lòng tin với khách hàng, duy trì
khả năng thanh toán cho khách hàng khi Ngân hàng hoạt động thua lỗ. Hơn nữa nó là một căn cứ
quyết định đối với qui mô và khối lượng vốn huy động cũng như hoạt động cho vay và bảo lãnh của
Ngân hàng. Quy mô và sự tăng trưởng vốn thuộc sở hữu của Ngân hàng sẽ quyết định năng lực phát
triển của NHTM. Khi đánh giá về qui mô của một NHTM thì tiêu chí đầu tiên được đề cập là vốn
thuộc sở hữu của Ngân hàng đó.
Vốn thuộc sở hữu của Ngân hàng bao gồm:
Vốn điều lệ:
Là mức vốn được hình thành khi Ngân hàng được thành lập. Vốn điều lệ luôn lớn hơn hoặc bằng vốn
pháp định. Vốn pháp định là mức vốn tối thiểu phải có khi thành lập một Ngân hàng do pháp luật qui định.
Vốn điều lệ được ghi vào điều lệ thành lập Ngân hàng. Tuỳ thuộc vào loạ hình Ngân hàng mà vốn điều lệ
được hình thành từ những nguồn gốc khác nhau:

SVTH: Nhóm 1

Trang 4


Bài báo cáo

Ngân hàng thương mại



Ngân hàng quốc doanh: Vốn điều lệ được hình thành từ Ngân sách nhà nước cấp



Ngân hàng cổ phần: Vốn điều lệ được hình thành từ vốn góp của các cổ đông thông qua việc mua

các cổ phiếu.



Ngân hàng liên doanh: Vốn điều lệ được hình thành từ vốn góp của các bên liên doanh.



Ngân hàng nước ngoài: Vốn diều lệ được hình thành từ 100% vốn nước ngoài.



Ngân hàng tư nhân: Vốn điều lệ được hình thành từ vốn của chủ Ngân hàng.


Các quỹ



Quỹ dự trữ: Nhằm để bổ sung vốn điều lệ.



Quỹ dự phòng rủi ro: Để dự phòng bù đắp rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh của Ngân
hàng nhằm bảo vệ vốn điều lệ..



Quỹ phúc lợi, khen thưởng.




Lợi nhuận chưa chia.

2.2.1 Nguồn huy động
Theo quan niệm của các nhà kinh tế học và các nhà Ngân hàng trong tổng nguồn vốn của
Ngân hàng ngoài nguồn vốn thuộc chủ sở hữu thì tất cả các nguồn vốn còn lại được coi là nguồn
vốn huy động. Như vậy nguồn vốn huy động của các Ngân hàng thương mại chiếm tỷ trọng tới hơn
90% trong tổng nguồn vốn. Vì vậy các hoạt động sử dụng vốn của Ngân hàng tồn tại và phát triển
được là nhờ nguồn vốn huy động này.
Nhận tiền gửi
Là nguồn vốn mà Ngân hàng huy động được từ các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân…
trong xã hội thông qua quá trình nhận tiền gửi, thanh toán hộ, các khoản cho vay tạo tiền gửi và các
nghịệp vụ kinh doanh khác. Bản chất của tài khoản tiền gửi là tài sản thuộc sở hữu của các đối
tượng khách hàng khác nhau, Ngân hàng chỉ có quyền sử dụng nó để cho vay, chiết khấu, thanh
toán… nhưng không có quyền sở hữu, Ngân hàng có trách nhiệm phải hoàn trả đúng hạn cả gốc và
lãi hoặc khi khách hàng có nhu cầu rút tiền để sử dụng. Tiền gửi chiếm một tỷ trọng khá lớn trong
nguồn vốn huy động của các Ngân hàng thương mại.


Các hình thức nhận tiền gửi của các Ngân hàng thương mại
Các hình thức nhận tiền gửi của các Ngân hàng thương mại rất đa dạng, tuỳ thuộc vào các tiêu

thức khác nhau mà được chia thành từng loại khác nhau:
Theo tiêu thức nguồn hình thành

SVTH: Nhóm 1

Trang 5



Bài báo cáo

Ngân hàng thương mại

Các khoản ký gửi của các cá nhân và tổ chức là các khoản tiền mà cá nhân và tổ chức trực tiếp
chuyển vào Ngân hàng: Cá nhân gửi tiền tết kiệm, doanh nghiệp nộp tiền bán hàng…Đây là các
khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế được Ngân hàng tập trung lại. Các cá nhân và tổ chức
thường gửi tiền với kỳ hạn và mục đích khác nhau, các cá nhân thường gửi tiền để hưởng lãi còn các
tổ chức doanh nghiệp thường là để sử dụng các dịch vụ thanh toán của Ngân hàng.
Tín dụng tạo tiền gửi: Ít người biết được rằng đây là một hình thức nhận tiền gửi. Khi Ngân
hàng cho khách hàng vay vốn thì Ngân hàng chuyển số tiền cho vay của khách hàng vào tài khoản
tiền gửi của khách hàng ngay trong Ngân hàng. Khi khách hàng chưa có nhu cầu rút tiền ngay lập
thì Ngân hàng có thể sử dụng số tiền đó mặc dù với thời hạn rất ngắn.


Theo tiêu thức kỳ hạn
Ngày nay người ta thường phân chia các khoản tiền gửi theo tiêu thức này để có thể quản lý

tốt lượng tiền gửi, tiền lãi và là cơ sở để Ngân hàng xây dựng chiến lược dự trữ phù hợp và chủ
động trong việc sử dụng nguồn vốn đó vào quá trình hoạt động kinh doanh.


Tiền gửi không kỳ hạn: Đây là các khoản tiền gửi không có kỳ hạn xác định, người gửi tiền
có thể rút ra bất kỳ lúc nào tuỳ theo nhu cầu của mình do đó lãi suất của loại tiền gửi này thường
thấp hơn so với các loại tiền gửi có kỳ hạn xác định. Tiền gửi không kỳ hạn đáp ứng nhu cầu của
những khách hàng chưa có dự định rõ ràng trong tương lai. Đây là hình thức chủ yếu được các
doanh nghiệp lựa chọn nhằm mục đích giao dịch trong kinh doanh. Do vậy lượng tiền gửi không kỳ
hạn thường chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng. Với đặc tính của
nguồn tiền này là luôn biến động cho nên Ngân hàng chỉ được sử dụng một tỷ lệ phần trăm(%) nhất

định của lượng tiền gửi không kỳ hạn nhận được nhất định tuỳ thuộc vào dự tính của Ngân hàng về
sự ổn định tương đối của lượng tiền huy động được trong thời gian tới. Quản lý tiền gửi không kỳ
hạn là một phần quan trọng của quả lý dự trữ của Ngân hàng.



Tiết kiệm có kỳ hạn: Đây là loại tiền gửi có sự thõa thuận giữa người gửi tiền và Ngân hàng
về số lượng, kỳ hạn và lãi suất của khoản tiền gửi dó. Do có sự xác định rõ ràng về kỳ hạn nên Ngân
hàng có thể sử dụng để cho vay với thời hạn tương ứng hoặc có thể chuyển đổi một phần tiền gửi
ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn. Do đặc tính của khoản tiền gửi này là có độ ổn định cao nên
Ngân hàng chủ động trong việc sử dụng nguồn tiền đó để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của
mình, vì vậy Ngân hàng trả lãi cho người gửi tiền cao hơn lãi suất của loại tiền gửi không kỳ hạn và
tiền giửi thanh toán, Ngân hàng đưa ra các kỳ hạn khác nhau như 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng, Mức
lãi suất tỷ lệ thuận với kỳ hạn, nếu kỳ hạn càng dài thì lãi suất càng cao. Các khách hàng gửi tiền

SVTH: Nhóm 1

Trang 6


Bài báo cáo

Ngân hàng thương mại

theo loại này thì khi đến hạn sẽ được hoàn trả cả gốc và lãi theo qui định, nếu chưa đến hạn mà
khách hàng gửi tiền rút tiền ra trước thì khách hàng chỉ được hưởng lãi suất của tiền gửi không kỳ
hạn.


Theo tiêu thức loại tiền

Tiền gửi nội tệ: Đây là khoản tiền gửi cơ bản mà các Ngân hàng thương mại nhận được,



nguồn vốn nội tệ là nguồn vốn chủ yếu đối với các Ngân hàng, nó phụ thuộc vào mức thu nhập
trong nước và lãi suất huy động trong từng thời kỳ, loại tiền này thường chiếm tỷ trọng cao trong
tổng lượng tiết kiệm.
Tiền gửi ngoại tệ: Bên cạnh nhận tiền gửi nội tệ, Ngân hàng còn nhận tiền gửi dưới dạng



ngoại tệ đặc biệt là các ngoại tệ mạnh như USD, FRF, GBP, DEM… Những ngoại tệ này cũng rất
cần thiết trong hoạt động của Ngân hàng như kinh doanh ngoại tệ trong nước, trong quan hệ tài trợ
xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tế…các Ngân hàng có xu hướng mở rộng kinh doanh đối ngoại
thường có nguồn vốn ngoại tệ lớn. Nhận tiền gửi bằng ngoại tệ là một phương thức đa dạng hoá về
phương thức huy động vốn của các Ngân hàng thương mại.



Theo tiêu thức mục đích sử dụng
Tiền gửi tiết kiệm: Phần lớn là các khoản ký gửi của cá nhân với mục đích là tìm kiếm một

khoản thu nhập với số tiền nhàn rỗi của mình. Thông thường tiền gửi có khối lượng nhỏ, thời hạn
ngắn. Những người gửi tiền tiết kiệm là những đối tượng giảm chi tiêu trong hiện tại với kỳ vọng sẽ
tăng được chi tiêu trong tương lai. Phương thức gửi tiền tiết kiệm chủ yếu là nộp tiền trực tiếp vào
Ngân hàng hoặc gián tiếp chuyển thu nhập dưới hình thức chuyển qua tài khoản.


Tiền gửi tiết kiệm có mục đích: Loại hình này khá phổ biến ở các nước phát triển, thường sử
dụng với những hộ có thu nhập thấp và trung bình. Những người để dành một khoản tiền gửi vào

Ngân hàng (Thông thường là các khoản tiền đều đặn hàng năm) với ý định tích luỹ tiền cho một
mục đích nhất định trong tương lai như xây dựng nhà cửa, mua ôtô… và cũng được hưởng lãi trên
số tiền gửi như các loại tiết kiệm khác. Khi có nhu cầu sử dụng tiền vào mục đích nói trên, nếu số
dư của khoản tiết kiệm đó chưa đủ thì Ngân hàng có thể hỗ trợ thêm một phần dưới hình thức cho
vay với một lãi suất hợp lý đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên. Đây là một hình thức huy động vốn
trung và dài hạn khá hiệu quả, có tính chất ổn định, đồng thời có tác dụng tích cực trong việc hỗ trợ
cho người dân về việc mua sắm nhà cửa, phương tiện.

SVTH: Nhóm 1

Trang 7


Bài báo cáo

Ngân hàng thương mại

Tiền gửi thanh toán: Là các khoản ký gửi của cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp sản xuất kinh



doanh không nhằm mục đích tìm kiếm thêm thu nhập mà để được hưởng các dịch vụ thanh toán của
Ngân hàng, thông thường các khoản tiền gửi thanh toán có số lượng lớn. Mặt khác một số Ngân
hàng thường ưu tiên hơn đối với các doanh nghiệp mở tài khoản tại Ngân hàng và phải có số dư nhất
định trên tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng. Các khoản tiền gửi này Ngân hàng phải chịu chi phí thấp,
phải quản lý chính xác khâu dự trữ nhưng lại được sử dụng một khoản tiền lớn phục vụ cho các hoạt
động của mình.
Các khoản tiền gửi thanh toán một mặt làm phát triển hệ thống thanh toán không dùng tiền




mặt qua hệ thống Ngân hàng, tiết kiệm chi phí trong lưu thông, mặt khác kiểm soát được hoạt động
của các doanh nghiệp. Khi thực hiện chức năng là trung gian thanh toán cho nền kinh tế, Ngân hàng
tạo được một nguồn vốn từ hoạt động thanh toán: vốn trên tài khoản mở thư tín dụng, tài khoản tiền
gửi chờ thanh toán… Các khoản tiền tạm thời đang nằm ở tài khoản của Ngân hàng chờ sử dụng nên
được coi là nhàn rỗi. Ngân hàng thương mại cũng thu hút được một lượng vốn đáng kể trong quá
trình thu hộ hoặc chi hộ khách hàng, làm đại lý cho các tổ chức tín dụng khác, nhận vốn uỷ thác của
các tổ chức trong và ngoài nước…. Do tiền được giải ngân theo tiến độ công việc nên Ngân hàng có
thể sử dụng tạm thời các khoản tiền đó vào kinh doanh.


Vốn vay
Tiền gửi mà Ngân hàng nhận được là nguồn vốn mà Ngân hàng có được một cách thụ động.

Trong hoạt động của mình nếu như thiếu vốn thì Ngân hàng phải chủ động tìm kiếm vốn để thực
hiện các hoạt động của mình. Nguồn vốn mà Ngân hàng chủ động tạo nên đó là nguồn vốn vốn vay.
Vậy các Ngân hàng đi vay khi nào?
• Thứ nhất: Vay để đáp ứng nhu cầu khả năng thanh toán của Ngân hàng.

Vì hoạt động chủ yếu và thường xuyên của Ngân hàng là nhận tiền gửi với trách nhiệm hoàn
trả cho khách hàng khi khách hàng có nhu cầu rút tiền để sử dụng. Do vậy có những trường hợp số
tiền dự trữ và số tiền mà Ngân hàng nhận được trước đó trong ngày ít hơn số tiền mà khách hàng rút
thì Ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc thanh toán tiền cho khách hàng nghĩa là Ngân hàng thiếu
tiền trả cho khách hàng. Vậy Ngân hàng phải đi vay.
• Thứ hai: Vay hộ cho khách hàng

Vì hoạt động cơ bản của Ngân hàng là tài trợ cho nền kinh tế nên khi khách hàng có nhu cầu
vay vốn Ngân hàng và đảm bảo các yêu cầu do Ngân hàng đặt ra thì Ngân hàng sẽ cho vay. Tuy
nhiên với những khách hàng vay với khối lượng lớn, thời hạn dài mà Ngân hàng lại không muốn


SVTH: Nhóm 1

Trang 8


Bài báo cáo

Ngân hàng thương mại

dùng toàn bộ số tiền của mình có để đầu tư cho dự án này (vì rủi ro đem lại có thể rất cao) nhưng
Ngân hàng cũng không muốn mất khách hàng nên họ thoả thuận với nhau qua đó Ngân hàng thay
mặt khách hàng phát hành trái phiếu để thu gom tiền trong nền kinh tế để phục vụ vốn cho dự án.
Người ta chỉ phát hành trái phiếu vừa đủ số tiền mà dự án cần dùng và trong một thời hạn bằng thời
gian tồn tại của dự án.
• Thứ ba: Vay để cho vay

Hầu như toàn bộ số tiền trong lưu thông đã trở thành tiền gửi tại các Ngân hàng nghĩa là các
Ngân hàng chia nhau nắm giữ lượng tiền trong lưu thông. Để tăng lượng tiền gửi của mình các Ngân
hàng thường tăng lãi suất để thu hút các khoản tiền gửi ở các Ngân hàng khác chảy về. Nhưng thực
tế khi một Ngân hàng tăng lãi suất tiền gửi, để tránh sự chảy vốn các Ngân hàng khác cũng đồng
loạt tăng lãi suất lên làm chi phí Ngân hàng tăng lên mà lượng tiền gửi lại thay đổi không đáng kể.
Do vậy khi thiếu vốn để tài trợ cho các dự án mà Ngân hàng cho là có hiệu quả thì Ngân hàng sẽ
thực hiện chính sách đi vay. Do tính chất hoạt động không đồng đều giữa các Ngân hàng về huy
động vốn và sử dụng vốn và vậy những Ngân hàng thiếu vốn có thể đi vay ở những Ngân hàng còn
thừa vốn chưa sử dụng hết hoặc đi vay vốn từ NHTƯ hoặc các định chế tài chính khác. Mặt khác do
Ngân hàng dự đoán được sự gia tăng của nhu cầu tín dụng trong tương lai mà nguồn vốn huy động
chưa thể đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn rrong thời kỳ tới thì Ngân hàng thực hiện đi vay vốn để đáp
ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng.
• Thứ tư: Vay để giảm chi phí nguồn tiền cho giai đoạn sau.


Vào cuối kỳ hạch toán, nếu các chủ Ngân hàng dự tính được thu nhập của kỳ đó lớn nghĩa là
kỳ đó họ phải chịu thuế nhiều. Nếu họ cũng dự tính được kỳ sau họ sẽ có những khoản chi phí lớn
thì họ có thể phát hành kỳ phiếu ngắn hạn trả lãi trước nhằm tăng chi phí cho kỳ này và giảm chi phí
cho kỳ sau.


Các hình thức vay
Như vậy Ngân hàng sẽ đi vay với các lý do trên, với các mục đích vay khác nhau Ngân hàng

sẽ áp dụng các hình thức vay khác nhau.


Kỳ phiếu có mục đích

Khi các Ngân hàng muốn có một khoản tài chính để tài trợ cho các dự án có qui mô lớn, thời
hạn dài hoặc tăng qui mô hoạt động của các Ngân hàng hoặc liên doanh với các tổ chức khác mà
nguồn vốn vốn hiện tại chưa đáp ứng được, Ngân hàng có thể phát hành kỳ phiếu để tạo nguồn vốn
trung và dài hạn để đầu tư cho các hoạt động này. Có thể kỳ phiếu là một chứng chỉ nhận nợ của

SVTH: Nhóm 1

Trang 9


Bài báo cáo

Ngân hàng thương mại

Ngân hàng có mục đích kỳ hạn rõ ràng. Kỳ phiếu của Ngân hàng phát hành để huy động vốn từ dân
cư và các tổ chức kinh tế để tạo lập nguồn vốn trung và dài hạn dể tài trợ cho các hoạt động của

mình. Khi Ngân hàng muốn giảm chi phí cho kỳ sau thì Ngân hàng phát hành kỳ phiếu ngắn hạn trả
trước.


Trái phiếu

Trái phiếu Ngân hàng thực chất là một giấy nhận nợ của Ngân hàng với khách hàng. Phát
hành trái phiếu Ngân hàng nhằm tập trung vốn trung và dài hạn để tài trợ cho các dự án lớn theo yêu
cầu phát triển trên địa bàn hoặc tập trung vốn tài trợ cho các dự án được Chính phủ chỉ định. Ngân
hàng phát hành trái phiếu chủ yếu là để vay hộ khách hàng. Trái phiếu khác kỳ phiếu có mục đích ở
chỗ kỳ phiếu có mục đích thường được sử dụng linh hoạt hơn như kỳ phiếu có thể được phát hành ở
từng chi nhánh trên cơ sở được sự chấp thuận của NHTƯ với khung lãi suất và thời hạn phát hành
riêng biệt. Còn trái phiếu thường được phát hành với qui mô lớn hơn và đồng loạt trong cả hệ thống
Ngân hàng.
Như vậy trái phiếu và kỳ phiếu có mục đích đều được Ngân hàng phát hành với mục đích huy
động vốn trung và dài hạn và là khoản vay của các Ngân hàng trên thị trường. Ngoài ra còn có các
hình thức vay khác.
 Vốn vay từ các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên Ngân hàng và vốn vay từ Ngân hàng

trung ương
Tuỳ theo tình hình hoạt động của Ngân hàng trong từng thời kỳ và lý do của các khoản vay
của mình mà Ngân hàng có những hình thức vay phù hợp. Với các hình thức vay như trên Ngân
hàng có thể mất rất nhiều thời gian. Đối với mục đích sử dụng ngay như để đảm bảo khả năng thanh
khoản cho Ngân hàng thì hai hình thức vay vốn trên không phù hợp. Ngân hàng có thể sử dụng
phương thức khác như vay vốn ở các tổ chức tín dụng khác hoặc vay ở NHTƯ. Thực tế cho thấy
hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn thì không đồng đều giữa các Ngân hàng, ở những thời điểm
có những Ngân hàng thiếu vốn nhưng lại có những Ngân hàng tạm thời đang thừa vốn thì các Ngân
hàng này có thể vay mượn lẫn nhau vì mục đích của cả đôi bên. Hơn nữa các Ngân hàng đều làm
trung gian thanh toán cho nền kinh tế nên các Ngân hàng đều mở tài khoản tiền gửi lẫn nhau và
trong những trường hợp Ngân hàng nào đó thiếu vốn để thanh toán chi khách hàng của mình thì

Ngân hàng kia có thể cho vay để Ngân hàng đó đảm bảo khả năng thanh toán. Trong những trường
hợp cấp bách mà Ngân hàng không thể vay được ở các Ngân hàng khác thì có thể vay ở NHTƯ vì

SVTH: Nhóm 1

Trang 10


Bài báo cáo

Ngân hàng thương mại

NHTƯ là người cho vay cuối cùng đối với các NHTM. Tuỳ theo mục đích sử dụng và hình thức vay
vốn mà NHTƯ chia thành các loại sau:


Vốn vay ngắn hạn bổ sung: Là hình thức mà NHTM xin vay vốn bổ sung nguồn vốn ngắn
hạn của mình. Trong trường hợp này các NHTM chỉ được vay khi còn hạn mức tín dụng theo qui
định của NHTƯ.



Vốn vay để đảm bảo khả năng chi trả: Các NHTM vay vốn của NHTƯ để bù đắp thiếu hụt
tạm thời trong thanh toán hoặc thiếu hụt trong dự trữ (thường là vay với thời hạn ngắn).



Tái cấp vốn: NHTƯ cho các NHTM vay vốn trên cơ sở các chứng từ có giá. Các chứng từ
này phải hợp lệ, hợp pháp và an toàn. Tái cấp vốn gồm có các hình thức: Cho vay bằng chiết khấu
hoặc tái chiết khấu giấy tờ có giá và cho vay có bảo đảm.

Tuy nhiên việc NHTM vay vốn ở NHTƯ phụ thuộc vào chính sách tiền tệ quốc gia trong từng
thời kỳ mà NHTƯ có thể cho vay với khối lượng, thời hạn, lãi suất, hạn mức… khác nhau để thực
hiện chính sách tiền tệ của mình.
Như vậy với đặc điểm tiện lợi của kỳ phiếu, trái phiếu hoặc vốn vay từ các tổ chức tín dụng
khác hoặc vay ở NHTƯ là tuỳ theo mục đích sử dụng của các khoản vay cùng với tính cân đối giữa
nguồn vốn và cho vay tại những thời kỳ nhất định. Với một tỷ lệ lãi suất đủ sức hấp dẫn, Ngân hàng
có thể chủ động huy động được lượng vốn cần thiết trong thời gian ngắn. Vì vậy các hoạt động về
nguồn vốn ngày nay được gọi là nguồn vốn chủ động thu gom của các Ngân hàng và hoạt động
quản lý dự trữ. Hơn nữa việc phát hành kỳ phiếu và trái phiếu ngoài mục đích huy động còn có mục
đích khác như kiềm chế lạm phát, góp phần hình thành và phát triển thị trường vốn, thị trường
chứng khoán- Một kênh huy động vốn trung và dài hạn hữu hiệu của nền kinh tế.

2.2.2 Nguồn vốn khác
Điều chuyển vốn
Ngày nay hệ thống NHTM được tổ chức theo mô hình tổng công ty và các công ty con gồm
Ngân hàng mẹ và các hệ thống các Ngân hàng Chi nhánh trực thuộc. Có một phương thức huy động
vốn rất hiệu quả hiện nay là chu chuyển vốn điều hoà. Do tình hình hoạt động của các chi nhánh tại
các địa bàn khác nhau là khác nhau (do ảnh hưởng của điều kiện phát triển kinh tế của từng vùng, do
phong tục tập quán…) Cho nên những Chi nhánh Ngân hàng mà hoạt động sử dụng vốn vượt quá
khả năng huy động vốn thì đầu kỳ lập kế hoạch lên Ngân hàng mẹ và xin được nhận được một
lượng vốn điều hoà cần thiết cho hoạt động của mình. Còn những Ngân hàng mà khả năng huy động

SVTH: Nhóm 1

Trang 11


Bài báo cáo

Ngân hàng thương mại


vốn vượt qúa khả năng sử dụng vốn thì đầu kỳ cũng lập kế hoạch sẽ điều chuyển một lượng vốn về
Ngân hàng mẹ để được hưởng lãi suất điều hoà. Như vậy Ngân hàng mẹ chịu trách nhiệm điều
chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu của các chi nhánh trong cùng hệ thống. Chi phí nhận nguồn
vốn điều hoà này thấp hơn chi phí nguồn vốn huy động nhưng các Ngân hàng chỉ được nhận nguồn
vốn này sau khi đã lập kế hoạch về lượng vốn huy động được trong kỳ sau.
• Nguồn vốn uỷ thác đầu tư

Một số Ngân hàng còn thực hiện nghiệp vụ Ngân hàng đại lý. Khi đó trong nguồn vốn của
Ngân hàng còn có thêm khoản mục vốn uỷ thác đầu tư. Nguồn vốn này được hình thành chủ yếu là
do các tổ chức tài chính trong nước hoặc nước ngoài uỷ thác cho Ngân hàng một khoản tiền để
Ngân hàng thực hiện cho vay đối với các dự án của mình, cũng có thể là các khoản vay của Chính
phủ được uỷ thác.
Trên đây là các nguồn hình thành nên nguồn vốn của các NHTM, nhìn qua ta thấy trong cơ
cấu tổng nguồn vốn thì vốn huy động là nguồn vốn chiếm tỷ trọng cao nhất (trên 90%), nó quyết
định đến sự tồn tại và phát triển của hoạt động sử dụng vốn của Ngân hàng. Vì vậy từng Ngân hàng
phải có những chiến lược huy động vốn của riêng mình trên cơ sở phù hợp với điều kiện thực tế của
từng Ngân hàng và của môi trường kinh doanh để không ngừng nâng cao thị phần huy động nhằm
phục cụ tốt nhất cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
2.3 Tầm quan trọng của nguồn vốn huy động đối với hệ thống NHTM
Cũng như các ngành nghề kinh doanh khác, để cho hoạt động kinh doanh được diễn ra thường
xuyên và liên tục thì cần phải có tư liệu sản xuất. Ngân hàng thương mại là một Doanh nghiệp kinh
doanh tiền tệ trong đó tiền là nguyên liệu chính trong việc tạo ra sản phẩm Ngân hàng, là một thứ
nguyên liệu độc tôn không thể thay thế. Hoạt động tìm kiếm tư liệu sản xuất của Ngân hàng là hoạt
động huy động vốn. Do đặc trưng của nguồn vốn huy động là luôn có một lượng tồn khoản rất lớn
và Ngân hàng có thể sử dụng lượng tồn khoản này để phục vụ cho qúa trình hoạt động kinh doanh
của mình. Nên tình hình hoạt động của Ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào tình hình huy động vốn của
chính Ngân hàng đó.



Thứ nhất: Nguồn vốn huy động có ảnh hưởng trực tiếp đến qui mô hoạt động của các Ngân hàng.
Nguồn vốn khả dụng của Ngân hàng có ảnh hưởng trực tiếp đến việc mở rộng hay thu hẹp tín
dụng, hoạt dộng bảo lãnh hay trong hoạt động thanh toán của Ngân hàng. Thông thường so với các
Ngân hàng nhỏ thì các Ngân hàng lớn có các khoản mục về đầu tư, cho vay đa dạng hơn, phạm vi và

SVTH: Nhóm 1

Trang 12


Bài báo cáo

Ngân hàng thương mại

khối lượng tín dụng cũng lớn hơn. Trong khi các Ngân hàng nhỏ lại giới hạn phạm vi hoạt dộng chủ
yếu trong một khu vực nhỏ hay trong một quốc gia. Nếu khả năng vốn của Ngân hàng lớn thì Ngân
hàng có thể mở rộng qui mô khối lượng tín dụng, có thể tài trợ cho các dự án lớn (về qui mô tín
dụng, về thời hạn tín dụng…) và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của khách hàng về các dịch vụ của Ngân
hàng.
Thứ hai: Nguồn vốn huy động giúp Ngân hàng chủ động trong kinh doanh.

Trong cơ cấu vốn của Ngân hàng thì ngoài phần vốn tự có thì còn có vốn huy động, vốn vay
và các nguồn vốn khác. Một Ngân hàng không thể chỉ hoạt động với nguồn vốn tự có và vốn đi vay
vì vốn tự có của Ngân hàng chỉ chiếm một tỷ trộng nhỏ trong tổng cơ cấu vốn của Ngân hàng còn
vốn vốn đi vay thì Ngân hàng phải phụ thuộc vào dối tượng cho vay về thời hạn, số lượng và các chi
phí khác. Do đó có thể Ngân hàng sẽ bỏ lỡ những cơ hội kinh doanh. Ngược lại nếu Ngân hàng có
lượng vốn lớn sẽ hoàn toàn chủ động trong hoạt động của mình. Nguồn vốn lớn làm tăng khả năng
hoạt động của Ngân hàng như chủ động đa dạng hoá các hình thức và phương thức hoạt động nhằm
phân tán rủi ro và tăng lợi nhuận, phục vụ cho mục tiêu cuối cùng của Ngân hàng là an toàn và sinh
lời.



Thứ ba: Vốn huy động giúp Ngân hàng nâng cao vị thế của mình trong lòng thị trường.
Để đảm bảo cho việc thu hút khách hàng đến quan hệ giao dịch với mình thì Ngân hàng phải
tạo được niềm tin với khách hàng. Điều này được thể hiện ở khả năng sẵn sàng thanh toán cho
khách hàng. Khả năng thanh toán của Ngân hàng cao chỉ khi Ngân hàng có nguồn vốn khả dụng lớn.
Mặt khác uy tín của Ngân hàng còn thể hiện ở khả năng cho vay và đầu tư của Ngân hàng. Ngân
hàng chỉ có thể cho vay những dự án lớn, thời hạn dài nếu như Ngân hàng có nguồn vốn lớn và ổn
định- Điều này phụ thuộc vào khả năng huy động vốn của Ngân hàng.



Thứ tư: Vốn huy động quyết định năng lực cạnh tranh của Ngân hàng.
Để có thể chiến thắng trong cạnh tranh thì ngoài việc phải có chiến lược cạnh tranh hợp lý thì
yếu tố vế khả năng tài chính luôn giữ vai trò quyết định cuối cùng. Nếu Ngân hàng có nguồn vốn
khả dụng lớn thì có thể chủ động mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế cả về qui mô,
khối lượng tín dụng, chủ động về thời gian và thời hạn cho vay thậm chí trong việc điều chỉnh lãi
suất cho vay để thu hút khách hàng. Ngoài ra Ngân hàng còn có thể phát triển thêm nhiều loại hình
dịch vụ mới, tham gia vào nhiều các hoạt động khác như liên doanh liên kết. đầu tư trên thị trường
vốn, trên thị trường tiền tệ… Bằng chính những hoạt động này sẽ góp phần phân tán rủi ro, thu hút

SVTH: Nhóm 1

Trang 13


Bài báo cáo

Ngân hàng thương mại


được nhiều khách hàng, mở rộng thị phần, nâng cao khả năng cạnh tranh của Ngân hàng… Từ đó sẽ
nâng cao hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng.
Nhận thức được vai trò của nguồn vốn trong hoạt động của NHTM, nên từng Ngân hàng phải
hoạch định được chiến lược huy động vốn cho đơn vị mình nhằm chủ động tạo lập được nguồn vốn
ổn định và không ngừng tăng trưởng để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình- Đó là yếu tố
đầu tiên quyết định đến hiệu quả hoạt động của Ngân hàng.
2.4 Nguyên tắc và mục tiêu trong công tác huy động vốn của NHTM

2.4.1 Nguyên tác huy động vốn


Nguyên tắc thứ nhất: Việc huy động vốn phải trên cơ sở nhu cầu cho vay. Ngân hàng phải tính toán
nhu cầu cho vay để xác định số vốn cần huy động. Phải đảm bảo cân đối giữa huy động vốn và sử



dụng vốn về qui mô, về thời hạn để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Ngân hàng.
Nguyên tắc thứ hai: Ngân hàng nhận tiền gửi của khách hàng (bao gồm các Doanh nghiệp nhà nước,
Doanh nghiệp tư nhân, các cơ quan nhà nước, đoàn thể xã hội và các tầng lớp dân cư) phải có trách
nhiệm hoàn trả đầy đủ, đúng hạn cả vốn lẫi lãi theo thoã thuận trước giữa Ngân hàng và khách hàng.
Để đảm bảo khả năng chi trả theo nguyên tắc trên, pháp lệnh Ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng
và Công ty tài chính quy định các NHTM phải mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng nhà nước và duy
trì trên tài khoản đó số tiền dự trữ bắt buộc (do Ngân hàng nhà nước qui định), Ngân hàng không
được huy động quá 20 lần tổng số vốn tự có và quỹ dự trữ của mình.



Nguyên tắc thứ ba: Ngân hàng không được phát hành trái phiếu mà việc phát hành trái phiếu đó tạo
cho các chủ sở hữu giành được quyền quản lý trực tiếp và gián tiếp đối với Ngân hàng.


2.4.2 Mục tiêu trong công tác huy động vốn
Mục tiêu trong công tác huy động vốn là cơ sở cho việc đề ra kế hoạch và chiến lược về nguồn
vốn của Ngân hàng. Như trên chúng ta đã nghiên cứu, nguồn vốn của Ngân hàng khá đa dạng, bao
gồm nhiều thành phần. Một số thành phần không ổn định nhưng có khả năng giao dịch cao và lãi
suất thấp. Ngược lại một số thành phần hạn chế khả năng phát hành Sec, có tính ổn định cao nhưng
lãi suất cao. Do đó chi phí vốn, cơ cấu vốn, tính chất ổn định, thời hạn của nguồn vốn là nhân tố
quan trọng đánh giá chất lượng nguồn vốn và là mục tiêu mà các Ngân hàng đều hướng tới. Đây là
những yếu tố quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu vừa an toàn vừa có lợi nhuận cao của Ngân
hàng.
• Một là: Tìm kiếm nguồn vốn rẻ.

SVTH: Nhóm 1

Trang 14


Bài báo cáo

Ngân hàng thương mại

Chi phí trả lãi được coi là chi phí lớn nhất trong các chi phí của Ngân hàng. Trong đó lớn nhất
là chi phí trả lãi đầu vào cho tiền gửi có kỳ hạn và trả lãi trái phiếu và kỳ phiếu... Định kỳ Ngân
hàng lập biểu về số dư và lãi suất tương ứng để xác định vốn huy động bình quân và tính toán chi
phí trả lãi. Thông thường có ba cách trả lãi : Trả lãi trước, trả lãi khi đến hạn và trả lãi nhiều lần theo
định kỳ. Mỗi cách trả lãi khác nhau sẽ ảnh hưởng đến chi phí khác nhau. Quản lý chi phí trả lãi là
hoạt động thường xuyên và quan trọng của các Ngân hàng. Mỗi sự thay đổi về lãi suất hay cơ cấu
nguồn vốn đều có thể làm thay đổi chi phí trả lãi, từ đó ảnh hưởng đến thu nhập của Ngân hàng.
Việc tính chi phí của từng nguồn vốn cụ thể cho phép các nhà quản lý xác định nguồn vốn nào rẻ
hơn, có nên thay đổi lãi suất hay không, thu nhập từ tài sản tăng thêm có đủ bù đắp chi phí của
nguồn vốn tăng thêm hay không. Về nguyên tắc, những nguồn vốn có thời hạn càng ngắn và tính ổn

định thấp thì chi phí nguồn vốn cũng phải thấp tương ứng. Tuy nhiên nguồn rẻ thì lại đồng nghĩa với
giảm tính cạnh tranh của Ngân hàng. Tính chi phí một cách chính xác cho phép Ngân hàng chủ động
lựa chọn những nguồn vốn khác nhau và đảm bảo doanh thu đủ bù đắp chi phí và đem lại tỷ lệ thu
nhập mong đợi.
• Hai là: Tạo ra nguồn vốn ổn định và cơ cấu phù hợp.

Cơ cấu vốn cần đa dạng thể hiện ở việc duy trì một tỷ lệ giữa vốn huy động ngắn hạn và dài
hạn, giữa vốn nội tệ và ngoại tệ. Một Ngân hàng có chất lượng huy động vốn cao sẽ có nguồn vốn
dồi dào và cơ cấu vốn cân đối, tránh cho Ngân hàng rơi vào tình trạng căng thẳng về tài chính trong
điều kiện môi trường kinh doanh thường xuyên thay đổi.
Hơn nữa Ngân hàng phải dự đoán xu hướng biến đổi cơ cấu nguồn vốn huy động. Yếu tố này
cũng rất quan trọng trong việc xây dựng kế hoạch sử dụng vốn của Ngân hàng. Mỗi loại nguồn vốn
có điểm mạnh, điểm yếu riêng biệt trong việc huy động và khai thác. Do đó sự biến động về cơ cấu
vốn sẽ kéo theo sự biến đổi trong cơ cấu cho vay, đầu tư, bảo lãnh… và kéo theo sự thay đổi lợi
nhuận, rủi ro trong hoạt động Ngân hàng. Sự biến đổi cơ cấu vốn huy động phụ thuộc một phần vào
kế hoạch điều chỉnh của Ngân hàng và những nhân tố bên ngoài Ngân hàng đòi hỏi Ngân hàng phải
thường xuyên nghiên cứu và tiếp cận thị trường.
• Ba là: Xây dựng qui mô và sự tăng trưởng nguồn vốn ổn định.

Quy mô vốn huy động có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động của Ngân hàng. Ngân hàng
muốn mở rộng hoạt động cần có quy mô vốn tương đối lớn, trong đó vốn huy động là một bộ phận
quan trọng. Không thể nói đến chất lượng huy động vốn tốt nếu việc huy động không đáp ứng được
nhu cầu về khối lượng vốn kinh doanh. Khối lượng vốn phải đạt tới qui mô nhất định theo kế hoạch

SVTH: Nhóm 1

Trang 15


Bài báo cáo


Ngân hàng thương mại

huy động của Ngân hàng. Để thực hiện tốt vấn đề này cần kết hợp hài hoà các yếu tố khác như lãi
suất, chính sách Marketing khách hàng, các hình thức huy động vốn, uy tín của khách hàng…
Tuy nhiên không phải cứ có nguồn vốn lớn đã là tốt, nó cần phải phù hợp với qui mô hoạt
động của Ngân hàng, mức vốn tự có, khả năng cho vay và đầu tư của Ngân hàng… Hơn nữa việc
mở rộng hoạt động chỉ thực sự an toàn khi nguồn vốn huy động luôn có tốc độ tăng trưởng ổn định.
Nếu qui mô vốn hiện tại lớn nhưng Ngân hàng không kiểm soát, không dự đoán được xu hướng của
các dòng tiền gửi vào và rút ra trong giai đoạn tiếp theo thì sẽ rất khó khăn trong việc cho vay va
đầu tư và mất đi sự chủ động của mình.
• Bốn là: Điều hành tốt nguồn vốn phục vụ kinh doanh.

Trong hoạt động Ngân hàng thường xuyên xảy ra tình trạng không cân đối về vốn giữa các chi
nhánh trong cùng hệ thống, giữa các Ngân hàng. Nếu có công tác quản lý huy động vốn hợp lý thì
Ngân hàng sẽ linh hoạt hơn trong việc giải quyết tình trạng thừa thiếu tạm thời này. Một số biện
pháp thường sử dụng như điều chuyển vốn giữa các chi nhánh (trong trường hợp mất cân đối nội
bộ), vay các Ngân hàng khác, vay NHTƯ…Chất lượng huy động ở đây thể hiện ở việc đưa ra quyết
định lựa chọn đúng đắn, có lợi nhất đối với Ngân hàng, đảm bảo sự chủ động trong kinh doanh.

PHẦN 3
-

-

SỬ DỤNG VỐN NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

3.1 Tiền mặt
Ngân hàng thương mại phải dự trữ tiền mặt để đáp ứng qui định về dự trữ bắt buộc của FED. Dự trữ
bắt buộc, hay tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một quy định của ngân hàng trung ương về tỷ lệ giữa tiền mặt

và tiền gửi mà các ngân hàng thương mại bắt buộc phải tuân thủ để đảm bảo tính thanh khoản. Các
ngân hàng có thể giữ tiền mặt cao hơn hoặc bằng tỷ lệ dữ trữ bắt buộc nhưng không được phép giữ
tiền mặt ít hơn tỷ lệ này. Nếu thiếu hụt tiền mặt các ngân hàng thương mại phải vay thêm tiền mặt,
thường là từ ngân hàng trung ương để đảm bảo tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Đây là một trong những công
cụ của ngân hàng trung ương nhằm thực hiện chính sách tiền tệ bằng cách làm thay đổi số nhân tiền
tệ.
Ngân hàng có thể sử dụng nhiều nguồn để đáp ứng nhu cầu vốn tạm thời, do đó họ không quá chú
trọng việc dự trữ nhiều hơn mức qui định
Ngân hàng giữ tiền mặt ở trong kho và ở nhà nước trung ương. Tiền mặt trong kho quỹ chủ yếu
được dùng dể đáp ứng nhu cầu rút tền của khách hàng, còn tiền mặt gởi tại Ngân hàng Trung ương
chủ yếu phục vụ mục đích dự trữ bắt buộc.
3.2 Hoạt động cho vay:
là hoạt động kinh doanh chủ yếu của ngân hàng thương mại để tạo ra lợi nhuận. Đây là hạt
động mang lại khoản thu nhập khá lớn của ngân hàng

SVTH: Nhóm 1

Trang 16


Bài báo cáo

Ngân hàng thương mại

3.3 Theo thời hạn cho vay( các loại cho vay doanh nghiệp)
Cho vay ngắn hạn: thời gian co vay đến một năm và được sử dụng đẻ bổ sung và bù đắp
thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu tiêu dùng ngắn hạn của cá nhân
Cho vay trung hạn: thời gian cho vay từ 1 đến 5 năm. Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử
dụng để đàu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoăc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng kinh
doanh, xây dựng các dự án mới có qui mô nhỏ và thời gian thu hồi nhanh. Bên cạnh đó, nó còn được

dùng để đù tư tài sản lưu động thương xuyên cuả doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp mới thành lập.
Cho vay dài hạn: thơi gian cho vay trên 5 năm. Loại tín dụng này dùng để đáp ứng nhu cầu
đầu tư dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có qui mô lớn, xây dựng các xí
nghiệp lớn.
3.4 Cho vay hợp vốn:
một sô công ty lớn muốn vay một khoản tiền lớn hơn mức mà một ngân hàng sẵn sàng cho
vay, khi đó ngân hàng sẽ gom góp vấn của mình để cho vay dưới hình thức cho vay hợp vốn
Một số ngân hàng sẽ đngs vai trò là ngân hàng chủ trì: sắp xếp các công việc liên quan đến
hợp đồng, cứng từ, giải ngân và thanh toán các khoản vay. Các ngân hàng còn lại cung cáp vốn cho
ngân hàng chủ trì để chuyển cho người vay.

3.5 Cho vay tiêu dùng:
Cho vay tiêu dùng được hiểu là hình thức tài trợ cho mục đích chi tiêu của cá nhân, hộ gia
đình. Các khoản cho vay tiêu dùng là nguồn tài chính quan trọng giúp người tiêu dùng có thể trang
trải các nhu cầu trong cuộc sống như nhà ở, phương tiện đi lại, tiện nghi sinh hoạt, học tập, du lịch,
y tế… trước khi họ có đủ khả năng về tài chính để hưởng thụ.
Cho vay trả góp: cung cấp vón cho cá nhân để phục vụ nhu cầu mua sắm trong gia đình.
Cung cấp dịch vụ thẻ tín dụng cho các khách hàng thỏa mãn các điều kiện của ngân hàng
Việc đánh giá uy tín của người đi vay dễ dàng hơn so với cho vay doanh nghiệp. Dòng tiền
của khách hàng thường đơn giản hơn và dể dự đoán dòng tiền của doanh nghiêp hơn. Số tiền ho vay
trung bình đối với cá nhân thường nhỏ, đảm bảo việc phân tích ít chi tiết hơn
3.6 Cho vay bất động sản:
Cho vay các khoản vay mua bất đọng sản để ở, kì hạn cho vay thường 15 đến 30 năm, mặc dù
các khoản cho vay ngắn hạn thanh toán một lần vào cuối kì cũng rất phổ biến. Khoản vay đươc
thường đảm bảo bằng tài sản của hình thành từ vốn vay
Các Ngân hàng thương mại cũng cung cấp các khoản cho vay bất động sản thương mại như
cho vay để xây dựng cac khu mua sắm, nhà cho thuê

SVTH: Nhóm 1


Trang 17


Bài báo cáo

Ngân hàng thương mại

3.7 Đầu tư vào chứng khoán:
Trái phiếu kho bạc và trái phiếu của tổ chức chính phủ liên bang
Ngân hàng mua trái phiếu kho bạc và trái phiếu đượ phát hành bởi các chính phủ liên bang.
Các tổ chức này như là Qũy thế chấp chấp nhà ở quốc gia liên bang và tập đoàn thế chấp cho vay ua
nhà liên bang
Trái phiếu doanh nghiệp và chính quyền địa phương
Mặc dù trái phiếu doanh nghiệp có rủi ro tín dụng cao nhưng thường có lợi tức cao hơn so với
trái phiếu kho bạc và trái phiếutổ chức chính phủ. Thu nhập lãi từ trí phiếu doanh nghiệp và trái
phiếu địa phương được miễn thuế liên bang
3.8 Hợp đồng mua lại:
Ngân hàng có thể đóng vai trò là người cho vay bằng cách mua với cam kết bán lại, việc này
cung cấp nguồn vốn ngắn hạn cho doanh nghiệp và cho khoản vay của ngân hàng được đảm bảo
3.9 Bán vốn liên bang:
một số ngân hàng thường cho các ngân hàng khác vay trên thị trường vốn liên bang. Ki hạn
khoản vay thường rất ngắn, có thể là 1 ngày hoặc một vài ngày, các ngân hàng nhỏ là người cho vay
phổ biến trên thị trường vốn liên bang
3.10 Tài sản cố định:
ngân hàng phải đầu tư một số tài sản cố định nhất định như trụ sở, văn phòng, trang thiết bị,
phương tiện vận chuyển, phần mềm công nghệ… để có thể thực hiện các hoạt động kinh doanh
3.11 Cho vay eurodollar:
các chi nhánh của các ngân hàng Mỹ ở bên ngoài Mỹ và một số ngân hàng có vốn nước ngoài
cung cấp các khoản vay bằng dollar cho các doanh nghiệp và chính phủ


PHẦN 4

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

4.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

4.1.1 ĐỊNH NGHĨA :
Ngân hàng thương mại là loại ngân hàng trực tiếp giao dịch với các công ty, xí nghiệp, tổ
chức kinh tế, các cơ quan đoàn thể và các cá nhân … bằng việc nhận tiền gửi, tiền tiết kiệm rồi
sử dụng số vốn đó để cho vay, chiết khấu, cung cấp các phương tiện thanh toán và cung ứng các
dịch vụ ngân hàng

SVTH: Nhóm 1

Trang 18


Bài báo cáo

Ngân hàng thương mại

Theo Luật các tổ chức tín dụng 07/1997/QH10 và Luật số 20/2004/QH11 về sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng : “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được
thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan”
Có thể nói rằng ngân hàng thương mại là định chế tài chính trung gian quan trọng vào
loại bậc nhất trong nền kinh tế thị trường. Các nguồn tiền nhàn rỗi nằm rải rác trong xã hội sẽ
được ngân hàng huy động lại, để cấp tín dụng cho các tổ chức kinh tế, cá nhân
Luật số 06/1997/QH10 về Ngân hàng Nhà nước và Luật số 10/2003/QH11 về việc sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nêu rõ : “Hoạt động ngân
hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận t

iền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán”




Từ đó có thể nói về bản chất của Ngân hàng thương mại như sau :
• Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp và là một đơn vị kinh tế. Nó
có cơ cấu, tổ chức bộ máy như một doanh nghiệp bình đẳng trong quan hệ kinh tế
với các doanh nghiệp khác, tự chủ về kinh tế và có nghĩa vụ đóng thuế cho Nhà nước
• Ngân hàng thương mại hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng và dịch vụ ngân hàng.
Những lĩnh vực này góp phần cung ứng một khối lượng vốn tín dụng rất lớn cho
nền kinh tế - xã hội
Hoạt động của ngân hàng thương mại mang tính chất kinh doanh
Nhận tiền gửi

Các tổ
chức, cá
nhân
trong xã
hội

cho vay, cung cấp
NHTM

Tiết kiệm

dịch vụ NH

Các tổ
chức, cá

nhân
trong xã
hội

Hệ thống Ngân hàng Thương mại Việt Nam bao gồm :






Ngân hàng Thương mại quốc doanh
Ngân hàng Thương mại cổ phần
Ngân hàng liên doanh
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài

4.1.2 CÁC HOẠT ĐỘNG CHỦ YẾU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI VIỆT NAM:
a) Hoạt động huy động vốn :

Vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu của các ngân hàng thương mại, thực chất là tài sản
bằng tiền của các sở hữu chủ mà ngân hàng tạm quản lý, với nghĩa vụ hoàn trả kịp thời và đầy
đủ theo yêu cầu của khách hàng. Không có nghiệp vụ huy động vốn, ngân hàng thương mại sẽ
không có đủ vốn tài trợ cho hoạt động của mình. Đây chính là hoạt động góp phần giải quyết

SVTH: Nhóm 1

Trang 19



Bài báo cáo

Ngân hàng thương mại

đầu vào cho ngân hàng
Về phía khách hàng, nghiệp vụ huy động vốn cung cấp cho họ một kênh tiết kiệm và đầu
tư sinh lợi, cung cấp một nơi an toàn để cất trữ và tích lũy vốn nhàn rỗi
Ngân hàng thực hiện huy động vốn thông qua những nguồn chủ yếu
sau :
 Tiền gửi có kì hạn, không kì hạn và các loại t iền gửi khác của các tổ chức, cá nhân trong xã
hội
 Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn của tổ c hức, cá
nhân trong nước và ngoài nước
 Tiền vay từ các tổ chức tín dụng khác đang hoạt động ở Việt Nam cũng như ở nước ngoài

 Tiền vay từ Ngân hàng Nhà nước
 Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước


Hoạt động tín dụng :

Nghiệp vụ huy động và cấp tín dụng là các nghiệp vụ sử dụng vốn quan trọng nhất, quyết
định nhất đến sự tồn tại và phát triển của các ngân hàng. Hoạt động tín dụng tạo ra bộ phận tài sản
có sinh lời lớn nhất trong các ngân hàng thương mại, tức là tạo ra nguồn thu nhập để trang trải chi
phí hoạt động, đồng thời tạo ra được lợi nhuận để vừa làm nghĩa vụ đóng góp cho Ngân sách, vừa
tích lũy để mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh
Điều 4 Nghị định 47/2000/NĐ-CP qui định : “Ngân hàng thương mại được cấp tín dụng cho
tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo
lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước”. Trong các
hoạt động này, hoạt động cho vay là hoạt động quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các

hoạt động ngân hàng
Có thể nói, đây là hoạt động tạo ra lợi nhuận cao nhưng đồng thời cũng mang rất nhiều rủi
ro. Bộ phận tài sản có lớn nhất của ngân hàng thương mại là dư nợ cho vay lại nằm trong tay khách
hàng. Do đó, độ rủi ro tín dụng phát sinh ngay sau khi cho vay cho đến khi khách hàng trả nợ. Điều
này đòi hỏi các ngân hàng phải luôn thận trọng trong hoạt động cấp tín dụng

 Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quĩ :
Ngân hàng thực hiện thanh toán qua lại giữa các doanh nghiệp thông qua tài khoản mở
tại ngân hàng, giữa ngân hàng với ngân hàng thông qua tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà
nước.


Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quĩ của ngân hàng thương mại bao gồm những
hoạt động sau :

SVTH: Nhóm 1

Trang 20


Bài báo cáo




Ngân hàng thương mại

Cung cấp các phương tiện thanh toán
• Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong và ngoài nước (thanh toán bằng séc, ủy
nhiệm chi, thẻ tín dụng, tín dụng thư …)

Thực hiện thanh toán nội bộ, thanh toán liên ngân hàng







Thực hiện thu hộ, chi hộ cho khách hàng (chuyển tiền, thu hộ séc, dịch vụ cung cấp
thẻ tín dụng, thẻ thanh toán)
Thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng
Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác theo qui định
Việc thực hiện thanh toán quốc tế phải được Ngân hàng Nhà nước cho
phép

 Các hoạt động khác :
Ngân hàng thương mại còn có thể thực hiện thêm một số hoạt động khác ngoài những
hoạt động trên như :
• Dùng vốn điều lệ và quĩ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần của các tổ chức khác. Mức góp vốn,
mua cổ phần của ngân hàng thương mại trong một doanh nghiệp, tổng mức góp vốn, mua cổ
phần của ngân hàng thương mại trong tất cả các doanh nghiệp không được vượt quá mức tối đa
theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
• Thực hiện mua bán các công cụ của thị trường tiền tệ
• Ngân hàng thương mại được phép trực tiếp kinh doanh hay thành lập công ty trực thuộc để kinh
doanh vàng, ngoại hối nếu được Ngân hàng Nhà nước cho phép
• Ngân hàng có thể được ủy thác, nhận ủy thác làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan hoạt động
ngân hàng
• Ngân hàng thương mại được cung ứng dịch vụ bảo hiểm; được thành lập công ty trực thuộc
hoặc liên doanh để kinh doanh bảo hiểm theo quy định của pháp luật.
• Cung ứng các các dịch vụ tư vấn tài chính, tiền tệ

• Thực hiện dịch vụ bảo quản giấy tờ, vật quí
Điều 20 Nghị định 49/2000/NĐ-CP qui định : Ngân hàng thương mại không được trực tiếp kinh
doanh bất động sản

SVTH: Nhóm 1

Trang 21


Bài báo cáo

Ngân hàng thương mại

4.2 THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA

4.2.1 NHỮNG THÀNH QUẢ ĐẠT ĐƯỢC :
Quy mô ngày càng mở rộng: Trong thời gian vừa qua, nhất là trong giai đoạn từ
2006 đến 2008, đã có ngày càng nhiều các công ty có vốn lớn tham gia vào việc kinh doanh
ngân hàng. Có thể kể đến một số “đại gia” tiêu biểu như : Dầu khí, Điện lực, Cao su… Việc
này dù ít dù nhiều cũng có mặt tích cực của nó trong hoàn cảnh nền kinh tế nước ta đang có
nhu cầu tập trung vốn cao độ cho nhiều dự án ở những quy mô khác nhau.
Việc thành lập thêm ngân hàng làm tăng tính cạnh tranh giúp cho nền kinh tế năng
động hơn. Các dịch vụ ngân hàng cung cấp sẽ thuận tiện và đa dạng hơn cho khách hàng.
Một minh chứng cụ thể là sự tham gia của nhiều ngân hàng thương mại cổ phần vào thị
trường tài chính tiền tệ đã làm cho nhiều ngân hàng thương mại quốc doanh trở nên năng
động hơn, hoạt động cạnh tranh lành mạnh hơn, mang lại sự thuận tiện và hiệu quả cao cho
khách hàng. Điều này khác hẳn tình hình quan liêu, bao cấp cách đây 5, 6 năm. Hiệu quả
nhãn t iền là không còn cảnh xếp hàng chờ đợi hoặc phải chạy chọt mới vay được vốn.
Đồng thời với số lượng ngân hàng ngày càng đông đảo, tiến trình thanh toán và giao

dịch không dùng tiền mặt được đẩy nhanh hơn, góp phần thúc đẩy tính minh bạch trong lĩnh
vực tài chính, qua đó đóng góp tích cực, hiệu quả vào công cuộc chống tham nhũng ở nước
ta.
Không chịu để những kẻ đến sau lấn lướt thị trường, các ngân hàng thương mại cổ
phần cũng đua nhau tăng vốn. Năm 2007, Sacombank đã gây sốc bằng kế hoạch tăng vốn từ
2.089 tỷ đồng lên 4.450 tỷ đồng, thay vì dự
định ban đầu là 3.540 tỷ đồng. Và đến ngày 29/08/2008, con số này đã là
5.116 tỷ đồng. Anh hai ACB cũng không chịu kém, huy động từ các nguồn khác nhau để có
thêm 1.500 tỷ đồng nhằm nâng vốn điều lệ lên 2.630 tỷ đồng năm 2007, 2.630 tỷ đồng lên
5.805 tỷ đồng năm 2008 từ 3 nguồn là
1.471 tỷ đồng từ quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ và 1.704 tỷ đồng từ thặng dư vốn...
Nhiều ngân hàng thuộc lớp đàn em cũng đang cố chen chân gia nhập câu lạc bộ
2.000 tỷ, 1.000 tỷ đồng. Ngân hàng Quốc Tế (VIB Bank) liên tục tăng vốn điều lệ từ 400 tỷ
đồng năm 2005 đến hiện nay là 3000 tỷ . Ngân hàng Đông Nam Á (SeaBank) cũng tuyên bố
tăng vốn từ 3000 tỷ đồng lên 4068 tỷ đồng kể từ ngày 31/12/2008. Nên nhớ lại con số này
chỉ là 1000 tỷ năm 2007 để nhận thấy mức độ gia tăng nhanh chóng thế nào
Trong lúc này, hàng loạt ngân hàng cổ phần nông thôn (bị giới hạn hoạt động) cũng
vội vã đệ đơn xin chuyển đổi mô hình thành ngân hàng đô thị nhằm mở rộng phạm vi, địa
bàn hoạt động và tăng thị phần.

SVTH: Nhóm 1

Trang 22


Bài báo cáo

Ngân hàng thương mại

Top 10 ngân hàng lớn nhất Việt Nam

Ngân hàng
1. Ngân hàng Nông nghiệp & Phát Triển Nông Thôn Việt Nam
2. Ngân Hàng Công Thương Việt Nam
3. Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam
4. Ngân Hàng Đầu Tư & Phát Triển Việt Nam
5. Ngân Hàng Thương Mại CP Quốc Tế Việt Nam
6. Ngân Hàng TMCP Á Châu
7. Ngân Hàng TM CP Sài Gòn Thương Tín
8. Ngân Hàng Thương Mại CP Kỹ Thương Việt Nam
9. Ngân Hàng TM CP Phương Nam
10. Ngân Hàng TM CP Xuất Nhập Khẩu Việt Nam
Nguồn : danh sách VNR 500 – 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam
Theo thống kê, đến trung tuần tháng 12, chỉ còn 9 ngân hàng cần phải đạt "chuẩn"
vốn 1.000 tỉ đồng là Bắc Á, Đại Á, Đại Tín, Đệ Nhất, Gia Định, Kiên Long, Mỹ Xuyên,
Việt Nam Thương tín và Thái Bình Dương.
Hệ thống ngân hàng đã huy động và cung cấp một lượng vốn khá lớn cho nền kinh
tế, ước tính hàng năm chiếm khoảng 16-18% GDP, gần 50% vốn đầu tư toàn xã hội. Tăng
trưởng tín dụng liên tục tăng trong các năm

SVTH: Nhóm 1

Trang 23



×