TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC
------------------------------
ĐINH THỊ HOA
DẠY HỌC CHỦ ĐỀ THỰC VẬT THEO
THUYẾT ĐA TRÍ TUỆ CHO TRẺ 5 - 6 TUỔI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục Mầm non
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
ThS. NGUYỄN THỊ HƢƠNG
HÀ NỘI, 2014
LỜI CẢM ƠN
Em chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong trường Đại học Sư phạm
Hà Nội 2, đặc biệt là các thầy cô giáo trong ngành Giáo dục Mầm non khoa
Giáo dục Tiểu học, đã hết lòng tận tình giảng dạy cho em trong suốt quá trình
học tập tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới ThS. Nguyễn Thị Hương, là người đã
nhiệt tình hướng dẫn em trong suốt quá trình hoàn thành đề tài khóa luận tốt
nghiệp của mình.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới những người thân trong gia đình và bạn
bè, những người luôn khuyến khích và là nguồn động viên rất lớn đối với em
trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Mặc dù có nhiều cố gắng, song kiến thức của em còn nhiều hạn chế,
không tránh được nhiều thiếu sót. Vì vậy, em rất mong được các thầy, cô
giáo, cùng toàn thể các bạn chỉ bảo, đóng góp ý kiến để khóa luận của em
được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 05 năm 2014
Sinh viên
Đinh Thị Hoa
LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan khóa luận được hoàn thành do sự cố gắng và sự nỗ
lực của bản thân cùng với sự hướng dẫn tận tình của ThS. Nguyễn Thị
Hương.
Khóa luận của em không trùng với bất kì đề tài nào khác. Nếu sai, em
hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 05 năm 2014
Sinh viên
Đinh Thị Hoa
MỤC LỤC
PHẦN 1. MỞ ĐẦU .......................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................ 1
2. Mục đích nghiên cứu ................................................................................. 2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................ 3
4. Đối tượng, khách thể nghiên cứu .............................................................. 3
5. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................... 2
6. Phương pháp nghiên cứu........................................................................... 3
PHẦN 2. NỘI DUNG ...................................................................................... 4
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC DẠY HỌC
CHỦ ĐỀ THỰC VẬT THEO THUYẾT ĐA TRÍ TUỆ CHO TRẺ 5 - 6
TUỔI ................................................................................................................. 4
1.1. Cơ sở lí luận của việc dạy học chủ đề Thực vật theo thuyết đa trí
tuệ cho trẻ 5 - 6 tuổi..................................................................................... 4
1.1.1. Một số vấn đề về Thuyết đa trí tuệ .................................................. 4
1.1.2. Đặc điểm của trẻ 5 - 6 tuổi ........................................................... 13
1.2. Cơ sở thực tiễn của việc dạy học chủ đề Thực vật theo thuyết đa trí
tuệ cho trẻ 5 - 6 tuổi................................................................................... 18
1.2.1. Đặc điểm của chủ đề Thực vật cho trẻ 5 - 6 tuổi trong chương
trình Giáo dục Mầm non hiện hành ........................................................ 18
1.2.2. Mục tiêu của chủ đề Thực vật cho trẻ 5 - 6 tuổi trong chương trình
Giáo dục Mầm non hiện hành ................................................................. 19
1.2.3. Nội dung chủ đề Thực vật cho trẻ 5 - 6 tuổi theo quan điểm của Lê
Thu Hương .............................................................................................. 21
1.2.4. Đặc trưng về phương pháp của chủ đề Thực vật cho trẻ 5 - 6 tuổi
trong chương trình Giáo dục Mầm non hiện hành ................................. 23
1.2.5. Những định hướng xây dựng nội dung chủ đề Thực vật cho trẻ 5 6 tuổi theo thuyết đa trí tuệ ..................................................................... 24
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ..... ........................................................................ 29
CHƢƠNG 2. ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP DẠY HỌC CHỦ ĐỀ THỰC VẬT
THEO THUYẾT ĐA TRÍ TUỆ CHO TRẺ 5 - 6 TUỔI ............................ 30
2.1. Nguyên tắc xây dựng nội dung chủ đề Thực vật cho trẻ 5 - 6 tuổi
theo thuyết đa trí tuệ ................................................................................. 30
2.1.1. Đảm bảo tính mục đích ................................................................. 30
2.1.2. Đảm bảo tính thực tiễn.................................................................. 32
2.1.3. Phù hợp với đặc điểm của trẻ 5 - 6 tuổi........................................ 33
2.2. Đề xuất biện pháp dạy học chủ đề Thực vật theo thuyết đa trí tuệ
cho trẻ 5 - 6 tuổi ......................................................................................... 34
2.2.1. Đánh giá các loại hình trí thông minh .......................................... 34
2.2.2. Thiết kế mục tiêu giáo dục theo các loại hình trí thông minh ...... 34
2.2.3. Sử dụng các phương pháp dạy học theo tiếp cận đa trí tuệ ......... 40
2.2.4. Thiết kế bảng ma trận đa trí tuệ.................................................... 44
2.3. Minh họa ............................................................................................. 51
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .............................................................................. 55
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ..................................................................... 56
1. Kết luận .................................................................................................. 56
2. Kiến nghị ............................................................................................... 57
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 59
PHỤ LỤC
PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trẻ em trong xã hội ngày nay phát triển rất khác nhau, không đứa trẻ
nào giống với đứa trẻ nào cả, có đứa trẻ không giỏi về các môn khoa học
nhưng lại hát rất hay, vẽ rất đẹp, có đứa trẻ học giỏi về ngôn ngữ, toán học
nhưng lại không thực sự giỏi về thể chất. Các nhà giáo dục đã nghiên cứu và
khẳng định rằng, mỗi một đứa trẻ sẽ có những loại hình trí thông minh đa
dạng khác nhau. Đa trí tuệ ở trẻ mầm non là một cách tiếp cận mới và phù
hợp với xu hướng đổi mới phương pháp dạy học, có một vai trò quan trọng
nhằm phát triển được các năng lực trí tuệ của trẻ. Thuyết đa trí tuệ (trí thông
minh đa dạng) đã mang lại một cái nhìn mới mẻ và cần thiết kêu gọi phụ
huynh và giáo viên coi trọng sự đa dạng về trí tuệ ở mỗi trẻ, mỗi loại trí tuệ
đều quan trọng và mỗi trẻ đều có ít nhiều khả năng theo nhiều khuynh hướng
khác nhau. Khi vận dụng đa trí tuệ trong giờ học, giáo viên cần vận dụng các
phương pháp dạy học tích hợp một cách linh hoạt đa dạng và phù hợp với các
loại trí thông minh khác nhau của trẻ.
Sự phát triển của trẻ về trí tuệ và sự gia tăng về khối lượng tri thức, sự
phong phú đa dạng của các nhu cầu hứng thú nhận thức hiện nay đã đặt ra
những yêu cầu mới. Đặc biệt nhu cầu nhận thức và phản ánh của trẻ 5 - 6 tuổi
về chủ đề Thực vật rất lớn. Cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh ở
trường mầm non thông qua chủ đề Thực vật vừa là điều kiện, phương tiện,
vừa là mục tiêu nhưng đồng thời cũng là đối tượng để trẻ nghiên cứu. Trẻ
luôn muốn biết mọi thứ và thường đặt ra những câu hỏi để tìm hiểu về chủ đề
thế giới Thực vật.
Tổ chức hoạt động dạy chủ đề Thực vật trong trường mầm non cho trẻ
5 - 6 tuổi theo thuyết đa trí tuệ, đã trở thành một nội dung quan trọng trong
1
chương trình giáo dục của nhiều nước trên thế giới. Thông qua thuyết đa trí
tuệ, trẻ có khả năng nhận biết những kiến thức về thế giới thực vật bằng nhiều
kênh khác nhau tùy thuộc vào khả năng trí tuệ của mình. Do vậy, việc tổ chức
dạy chủ đề Thực vật cho trẻ thông qua nhiều con đường và hình thức khác
nhau, sẽ giúp cho trẻ thuận lợi hơn trong quá trình học tập, tạo cơ hội cho trẻ
tiếp cận và lĩnh hội tri thức theo cách riêng của mình làm phong phú và sinh
động giờ học. Cách vận dụng thuyết đa trí tuệ trong thiết kế nội dung dạy học
chủ đề Thực vật cho trẻ 5 - 6 tuổi, là một cách tiếp cận mới và phù hợp với xu
hướng đổi mới dạy học thông qua thuyết đa trí tuệ. Nếu dạy học mỗi chủ đề
theo các loại hình trí thông minh, thì đầu ra sẽ tạo nên một đứa trẻ được phát
triển một cách toàn diện trên các mặt năng lực trí tuệ. Nhưng thực chất, việc
vận dụng thuyết đa trí tuệ trong tổ chức các hoạt động dạy học cho trẻ chưa
được thực hiện một cách sâu sắc, chưa khảo sát, chưa đánh giá được đầu vào,
điểm xuất phát của các loại hình trí thông minh ở mỗi đứa trẻ. Việc giáo dục
thì đánh đồng mới chỉ dựa trên những cảm tính, cảm nhận riêng của giáo viên,
mà chưa đi vào tìm hiểu sâu nhu cầu đặc điểm của trẻ. Trong quá trình giảng
dạy giáo viên chưa thực sự hiểu và quan tâm tới trẻ, đồng thời việc áp dụng
linh hoạt các phương pháp dạy học, thiết bị còn hạn chế.
Chính những lý do trên, chúng tôi đã chọn đề tài nghiên cứu của mình
là: “Dạy học chủ đề Thực vật theo thuyết đa trí tuệ cho trẻ 5 - 6 tuổi”.
2. Mục đích nghiên cứu
- Trên cơ sở tìm hiểu về thuyết đa trí tuệ của trẻ, đề xuất biện pháp dạy học
chủ đề Thực vật cho trẻ 5 - 6 tuổi theo thuyết đa trí tuệ, nhằm nâng cao hiệu
quả hướng dẫn trẻ khám phá chủ đề Thực vật.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc dạy học chủ đề
Thực vật theo thuyết đa trí tuệ cho trẻ 5 - 6 tuổi.
2
- Đề xuất biện pháp dạy học chủ đề Thực vật theo thuyết đa trí tuệ cho
trẻ 5 - 6 tuổi.
4. Đối tƣợng, khách thể nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Việc dạy học chủ đề Thực vật theo thuyết đa trí
tuệ cho trẻ 5 - 6 tuổi.
Khách thể nghiên cứu: Quá trình giáo dục trẻ 5 - 6 tuổi.
5. Phạm vi nghiên cứu
Trong chương trình Giáo dục Mầm non hiện hành.
6. Các phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Mục đích: Thu thập những thông tin liên quan đến vấn đề nghiên cứu
nhằm làm rõ các vấn đề lý luận của đề tài cần nghiên cứu.
- Cách tiến hành: đọc, phân tích, tổng hợp các tài liệu cần thiết phục vụ
cho việc nghiên cứu nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho việc triển khai, nghiên
cứu thực tiễn.
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp phỏng vấn
3
PHẦN 2. NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC
DẠY HỌC CHỦ ĐỀ THỰC VẬT THEO THUYẾT ĐA TRÍ
TUỆ CHO TRẺ 5 - 6 TUỔI
1.1. Cơ sở lí luận của việc dạy học chủ đề Thực vật theo thuyết đa trí tuệ
cho trẻ 5 - 6 tuổi
1.1.1. Một số vấn đề về Thuyết đa trí tuệ
1.1.1.1. Khái niệm
Thuyết đa trí tuệ (Multiple Intelli - gences theory) với tính nhân văn thể
hiện ở quan điểm “Tất cả mọi học sinh đều thông minh, mỗi cá nhân các em
đều có một kiểu thông minh khác nhau”. [11]
Khi bàn về Thuyết đa trí tuệ, năm 1983 tiến sĩ Howard Gardner - một
nhà tâm lý học nổi tiếng của Đại học Harvard đã xuất bản một cuốn sách có
nhan đề “Frames of Mind”, trong đó ông đã công bố các nghiên cứu và lí
thuyết của mình về sự đa dạng của trí thông minh, ông đưa ra bảy loại hình trí
thông minh bao gồm: thông minh lôgic - toán, thông minh về ngôn ngữ - lời
nói, thông minh không gian, thông minh thể chất, thông minh âm nhạc - giai
điệu, thông minh giao tiếp, thông minh đạo đức.
Sau này, các tái bản của “Frames of Mind” bổ sung thêm định nghĩa về
thông minh thứ tám: thông minh thiên nhiên.Và hiện tại đang xem xét kết nạp
thêm dạng thông minh thứ chín đó là thông minh sinh tồn. Ông cũng đã từng
cân nhắc tới phạm trù thông minh tinh thần, nhưng về sau ông đã quyết định
không đưa vào.
4
Lý thuyết này đã gây nên sự chú ý đặc biệt, kéo theo sự tranh luận sôi
nổi trong cộng đồng các nhà tâm lý học và giáo dục. Nhiều nhà tâm lý học đã
phản đối cách đặt vấn đề của Howard Gardner, vì họ cho rằng ông xây dựng
lý thuyết này dựa trên trực giác của mình nhiều hơn là các dữ liệu hay kinh
nghiệm. Họ cho rằng, cách phân loại dạng thông minh của ông chỉ là cách gọi
tên khác đối với các dạng năng khiếu cá nhân. Bất chấp những tranh cãi đó, lý
thuyết này đã được các nhà giáo dục đón nhận và cho đến bây giờ cách phân
loại thuyết đa trí tuệ thành tám loại hình trí thông minh, được sử dụng và áp
dụng trong các chương trình dạy học trong trường mầm non.
Khi đưa ra khái niệm về trí thông minh, đã có nhiều những quan niệm
rất khác nhau.Wechsler đã nhiều lần định nghĩa trí thông minh như là “Năng
lực tổng thể hoặc năng lực chung của cá nhân để hành động có mục đích, để
suy nghĩ hợp lí và để ứng phó có hiệu quả với môi trường của mình”. [12]
Ngoài ra, còn có cách định nghĩa trí thông minh là: “Khả năng ứng phó
thành công với hoàn cảnh, điều kiện mới và năng lực học hỏi được từ kinh
nghiệm đã trải qua của các cá nhân khác”. [15]
Theo Howard Gardner trí thông minh được ông quan niệm: “Là khả
năng giải quyết các vấn đề hoặc tạo ra những sản phẩm mới có giá trị trong
một hay nhiều nền văn hóa khác nhau”. [18]
Theo điều tra tâm lý và quan điểm của các nhà tâm lý học Trung quốc
“Trí thông minh bao gồm khả năng quan sát, khả năng của trí nhớ, sức suy
nghĩ, óc tưởng tượng, kỹ năng thực hành và sáng tạo. Trí thông minh chính là
sự phối hợp các năng lực đó để làm thành một kết cấu hữu hiệu”.
Như vậy, các nhà nghiên cứu đã có rất nhiều những quan niệm khác
nhau về trí thông minh. Bản thân tôi cho rằng theo quan niệm của Howard
Gardner đã thể hiện một cách rõ nét nhất về trí thông minh, trí thông minh
5
được ông quan niệm: “Là khả năng giải quyết các vấn đề hoặc tạo ra những
sản phẩm mới có giái trị trong một hay nhiều nền văn hóa khác nhau”. [18]
1.1.1.2. Bản chất của thuyết đa trí tuệ
Thuyết đa trí tuệ ra đời từ sự tổng kết, đánh giá từ nhiều nguồn tư liệu
khác nhau, là kết quả của những khảo sát thực nghiệm của Howard Gardner
trên rất nhiều công trình nghiên cứu trong thời gian tương đối dài. Theo tác
giả những năng lực trí tuệ này không nhất thiết bộc lộ hết ở một con người,
mỗi con người có khả năng biểu đạt tri thức của mình theo tám cách khác
nhau và học theo cách như thế nào là tốt nhất, và đem lại hiệu quả cao nhất?
Trong trường mầm non cũng thế, mỗi đứa trẻ sẽ có những năng lực trí tuệ
khác nhau không đứa trẻ nào giống đứa trẻ nào cả. Đối với bản thân một đứa
trẻ thì nó sẽ không nhất thiết bộc lộ hết các loại trí thông minh của mình ra,
mà nó sẽ có những khả năng biểu đạt theo các cách khác nhau thông qua hoạt
động học tâp vui chơi một cách tích cực. Trong trường mầm non, khi học âm
nhạc một đứa trẻ hát không hay không có nghĩa là đứa trẻ đó không có trí
thông minh âm nhạc, có thể không hát hay nhưng trẻ lại có khả năng cảm
nhận và hưng phấn với âm nhạc rất tốt.
Ngoài ra, thuyết đa trí tuệ còn cho rằng mỗi cá nhân hầu như đều đạt
đến một mức độ nào đó ở từng “phạm trù thông minh” khác nhau. Đặc biệt
mức độ này không phải là “hằng số” trong suốt cuộc đời của mỗi người, mà
có thể thay đổi (tăng hay giảm) tùy vào sự trau dồi của mỗi cá nhân. Khi vận
dụng thuyết đa trí tuệ vào trường mầm non, giáo viên không nên đòi hỏi, đưa
ra những điều kiện nhằm thúc đẩy đứa trẻ phát triển theo khuôn mẫu có đầy
đủ tám loại trí thông minh. Vì mỗi đứa trẻ trong lớp học sẽ có những mức độ
khác nhau và nếu như trong quá trình học tập giáo viên không cho trẻ trau
dồi, thực hành thường xuyên thì trí thông minh đó của trẻ có thể giảm đi.
6
Các cá nhân phát triển một hoặc nhiều kiểu trí thông minh thông qua
sự di truyền của gen, giáo dục và xã hội hóa của các giá trị văn hóa. Nói cách
khác, các kiểu trí thông minh này tiến hóa qua sự tương tác giữa các tố chất
sinh học và những cơ hội do môi trường sống của cá nhân mang lại. Có những
nguyên thủ quốc gia của nhiều đất nước không có trí thông minh về chính trị
xã hội, nhưng lại có trí thông minh đạo đức được mọi người yêu mến nên
được người dân cho lên lãnh đạo đất nước.
Như vậy, chúng ta có thể thấy được rằng về bản chất trí thông minh là
một cấu trúc phức hợp, đa diện, đa thành tố, hòa nhập nhiều loại năng lực, có
tính độc lập tương đối ổn định, nhưng không tĩnh tại mà phát triển nhờ sự trải
nghiệm của cá nhân, qua sự tương tác giữa các tố chất sinh học và những cơ
hội do môi trường sống của cá nhân đó. Chúng ta cần làm cho mọi năng lực
của trẻ đều được phát huy đầy đủ và nâng cao dần, đồng thời làm cho những
năng lực đó của trẻ phối hợp đồng bộ và hoạt động đều. Khi dạy trong trường
mầm non giáo viên không nên áp đặt, lạm dụng khái niệm thông minh của chỉ
số IQ, mà phải sử dụng các phương pháp linh hoạt nhằm phát huy các năng
lực cho trẻ, sử dụng lý thuyết đa trí tuệ để giúp trẻ thành công và phát triển
đúng sở trường của chính mình.
1.1.1.3. Phân loại các dạng trí tuệ của con người
Ở mỗi cá nhân, một số kiểu trí tuệ có những đặc tính nổi trội hơn, đồng
thời một số kiểu trí tuệ khác lại phát triển yếu hơn, nhưng sự khác biệt này
không có nghĩa cá nhân này thông minh hơn cá nhân khác, chúng chỉ đơn
thuần cho thấy mỗi cá nhân trẻ có phương pháp học tập, tư duy và đạt được
những thành tích, kết quả khác nhau. Dưới đây là phần tóm lược tám kiểu
thông minh của trẻ theo quan điểm của thuyết đa trí tuệ:
7
Thứ nhất là thông minh ngôn ngữ
Là khả năng suy nghĩ bằng từ ngữ và sử dụng ngôn ngữ để diễn tả
những khái niệm phức tạp. Sự thông minh này cho phép trẻ hiểu được trật tự,
ý nghĩa của từ, học ngữ pháp rất nhanh và áp dụng các kỹ năng ngôn ngữ
thành thạo. Trẻ em có trí thông minh kiểu này thường có sự tinh nhạy về khả
năng đọc hiểu ngôn ngữ, hiểu từ và dùng từ biểu thị câu, viết văn, làm thơ,
các em thường say mê viết thơ, viết văn, đọc sách, kể chuyện. Đây cũng là
kiểu thông minh có ở nhiều người nhất, và thể hiện rõ ràng ở các nhà văn, nhà
thơ, phóng viên, biên tập viên hay các diễn giả.
Ví dụ:
+ Trẻ thích các trò chơi về từ ngữ, tạo từ láy, làm thơ lục bát.
+ Trẻ là người giỏi kể chuyện hoặc viết văn giỏi.
+ Trẻ thích chơi ô chữ, đoán chữ, cũng như những câu đố về chữ.
+ Trẻ 3 - 4 tuổi có thể hiểu, trả lời câu hỏi của cô giáo, bạn bè, biết đặt
câu hỏi về sự vật, hiện tượng mà trẻ quan tâm.
+ Trẻ 4 - 5 tuổi thì đã biết sử dụng ngôn ngữ mạch lạc để nhận xét các
sự vật, hiện tượng xung quanh trẻ, biết đặt câu hỏi cho mọi người xung
quanh.
+ Đối với trẻ 5 - 6 tuổi trẻ đã biết sử dụng thành thạo ngôn ngữ mạch
lạc để thể hiện kết quả khám phá, trao đổi, giải thích các sự vật, hiện tượng
xung quanh.
Thứ hai là thông minh âm nhạc
Là khả năng cảm nhận độ cao thấp, nhịp điệu, âm sắc, nói chung là
nhạy cảm với các kiểu âm thanh. Trẻ có khiếu âm nhạc thường sở hữu đôi tai
rất nhạy, chỉ cần nghe âm thanh là có thể cảm nhận giai điệu, nhịp độ cao
thấp, hiểu âm luật, hát được theo nhạc. Trẻ còn nhận biết được những nốt
nhạc hay âm thanh mà bạn đồng lứa tuổi bỏ ra, không để ý.
8
Ngoài ra, trí thông minh về âm nhạc còn có trong tiềm thức của bất cứ
cá nhân nào, miễn là người đó có khả năng nghe tốt, có thể hát theo giai điệu,
biết dành thời gian cho âm nhạc và nghe được nhiều tiết mục âm nhạc khác
nhau với sự chính xác và sáng suốt của giác quan.
Ví dụ:
+ Trẻ có thể chơi một nhạc cụ.
+ Trẻ hưng phấn khi nghe giai điệu bài hát.
+ Trẻ đung đưa theo giai điệu bài hát.
+ Thông thường trẻ có thể nhớ được một giai điệu chỉ sau một vài lần
nghe.
+ Trẻ thường hay gõ nhịp theo điệu nhạc.
+ Trẻ có thể phân biệt được âm điệu của những nhạc cụ khác.
Thứ ba là thông minh về lôgic - toán học
Là khả năng tính toán, xác định số lượng, cân nhắc các giả thiết và thực
hiện những hoạt động toán học. Trẻ sở hữu kiểu thông minh này, thường sớm
bộc lộ năng khiếu về lôgic - toán học liên quan đến khả năng tư duy xử lí
những bài toán, những phương trình thường gặp trong trắc nghiệm. Nó cũng
cho phép trẻ hiểu những khái niệm trừu tượng, có kĩ năng tranh luận, suy nghĩ
theo lối quy nạp và suy diễn.
Theo Howard Gardner thì những người có trí thông minh này có khả
năng phát hiện, suy diễn ra các trình tự lý do và tư duy lôgic tốt, tư duy theo
dạng nguyên nhân - kết quả.
Ví dụ:
+ Trẻ thích làm việc với những con số và tính nhẩm rất tốt.
+ Trẻ thích thú với những thức thách của các trò chơi trí tuệ hoặc toán
đố cần nhiều suy nghĩ lôgic.
9
+ Toán học và các môn tự nhiên là những môn học yêu thích của trẻ
trong trường.
Thứ tư là thông minh thể chất
Là khả năng vận động và dùng rất nhiều kỹ năng đa dạng của cơ thể.
Nó bao gồm khả năng điều khiển hoàn hảo những cử động của mình, gồm cả
cảm giác về tính toán thời gian và sự kết hợp giữa tâm trí và cơ thể. Howard
Gardner thấy rằng có sự liên hệ giữa hoạt động của trí óc và hoạt động thể
chất. Trẻ em sở hữu kiểu thông minh này biết cách phối hợp cơ bắp tốt, nhạy
bén trong việc điều khiển cơ thể để có hành động và phản ứng trước những
tình huống tự nhiên.
Ví dụ:
+ Trẻ tham gia thể thao hoặc tham gia biểu diễn múa thể dục, võ hoặc
những môn tương tự.
+ Trẻ có xu hướng tự tay thực hiện những việc thủ công lắp ráp.
+ Trẻ không ngại nhảy trước đám đông.
+ Trẻ thích những trò chơi mạo hiểm tại các hội chợ, trung tâm vui chơi
giải trí.
+ Trẻ sử dụng các cử chỉ tay chân và cơ thể để diễn đạt suy nghĩ của
mình.
+ Trẻ thích chơi những trò chơi nghịch ngợm và phá bĩnh với bạn khác.
Thứ năm là thông minh không gian
Là khả năng nghĩ “ba chiều” bao gồm trí tưởng tượng, suy luận trong
không gian, vận dung hình ảnh, các kỹ năng đồ họa và nghệ thuật. Thông
minh về tri giác không gian liên quan đến suy nghĩ bằng hình ảnh hình tượng
và khả năng cảm nhận, chuyển đổi và tái tạo lại những góc độ khác nhau của
thế giới không gian trực quan. Những trẻ sở hữu loại trí thông minh về không
gian ở mức độ cao thường có một độ nhạy cảm sắc bén với những chi tiết cụ
10
thể trực quan và có thể hình dung được một cách sống động, vẽ ra hay phác
họa những ý tưởng của trẻ dưới dạng hình ảnh, đồ họa cũng như họ có khả
năng tự định hướng bản thân trong không gian ba chiều cách dễ dàng. Thế
giới của các em luôn đầy màu sắc qua những trò chơi ghép hình, xếp hình
khối, các trò chơi mê cung hoặc vẽ tranh, nặn tượng.
Ví dụ:
+ Trẻ thường vẽ vời khi chép hoặc suy nghĩ.
+ Trẻ thích chơi các game về hình ảnh như ghép hình và mê cung.
+ Trẻ khá thành thạo trong việc tháo rời từng bộ phận ra và ráp lại.
+ Trẻ thích đọc chuyện, tài liệu có hình ảnh minh họa.
Thứ sáu là thông minh giao tiếp
Là khả năng hiểu và tương tác hiệu quả với người khác bao gồm khả
năng giao tiếp hiệu quả bằng lời và không bằng lời, khả năng nhận biết sự độc
đáo của mỗi người và nhạy cảm với tâm trạng của người khác. Trẻ có năng
khiếu này biết tiếp xúc, giao lưu, thông cảm, an ủi, chia sẻ, tạo cảm hứng,
thấu hiểu và dẫn dụ người khác rất dễ dàng.
Ví dụ:
+ Thảo luận nhóm trong các giờ học.
+ Trẻ thích làm việc với những người khác trong một nhóm.
+ Trẻ là một người thích giao tiếp, thích tham dự một bữa tiệc hơn là ở
nhà xem ti vi một mình.
+ Trẻ có nhiều người bạn thân.
+ Trẻ giao tiếp tốt với nhiều người và có thể hòa giải được những mối
tranh chấp.
Thứ bảy là thông minh đạo đức
Là khả năng hiểu được bản thân một cách sâu sắc cũng như những suy
nghĩ và cảm xúc của chính mình và sử dụng những hiểu biết đó trong việc lập
11
kế hoạch và định hướng cuộc sống. Trí thông minh đạo đức còn được thể hiện
ở sự yêu thương, kính trọng, chan hòa của trẻ với mọi người, trẻ luôn biết yêu
quý, lễ phép với mọi người và sự vật hiện tượng xung quanh trẻ. Mặt khác, trẻ
có thể là người có tính độc lập mạnh mẽ, tính thẳng thắn cao độ và cực kỳ tự
giác, có kỷ luật.
Ví dụ:
+ Trẻ thường dành những thời gian yên tĩnh suy nghĩ những vấn đề
quan trọng trong cuộc sống của mình.
+ Trẻ thường đặt mục tiêu cho mình bạn biết mình sẽ đi đâu.
+ Trẻ là là một người suy nghĩ độc lập, hiểu những suy nghĩ trong đầu
mình và tự đưa ra các quyết định cho bản thân.
+ Trẻ luôn nhìn mọi thứ theo hướng tích cực, vui vẻ.
+ Trẻ hiểu một cách thực tế những điểm mạnh và điểm yếu của mình.
Thứ tám là thông minh về thiên nhiên
Là thiên hướng thích khám phá, tìm hiểu về đời sống của các loài trong
tự nhiên và tỏ ra nhạy cảm với những thay đổi của các hiện tượng tự nhiên
diễn ra xung quanh mình. Trẻ có năng khiếu về thiên nhiên rất nhạy bén với
những thay đổi về thời tiết hoặc phân biệt thành thạo trạng thái, sắc thái khác
nhau của một số lượng lớn vật thể giống nhau. Để rèn luyện kiểu thông minh
này, hãy tạo mọi cơ hội để trẻ gần gũi với thiên nhiên, picnic, dã ngoại, tham
gia các nhiệm vụ bảo vệ môi trường sống, chăm sóc vườn cây.
Những người có trí thông minh về thiên nhiên luôn hòa hợp với thiên
nhiên và thích thú với sự nuôi trồng, khám phá thiên nhiên, tìm hiểu về các
sinh vật.
Ví dụ:
+ Trẻ thích nuôi thú trong nhà.
+ Trẻ có thể nhận ra và nhớ tên nhiều loại cây và hoa khác nhau.
12
+ Trẻ quan tâm tới sự thay đổi của thời tiết, sự vật hiện tượng, cây cối
hoa lá xung quanh trẻ.
+ Trẻ thích chăm sóc cây cảnh, vườn tược.
+ Trẻ am hiểu và có hướng thú đối với những vấn đề về môi trường
toàn cầu.
1.1.2. Đặc điểm của trẻ 5 - 6 tuổi
1.1.2.1. Đặc điểm tâm lý của trẻ 5 - 6 tuổi
Độ tuổi mẫu giáo lớn là giai đoạn cuối cùng của trẻ em ở tuổi mầm
non, tức là lứa tuổi trước khi đến trường phổ thông. Ở giai đoạn này, những
quá trình tâm lý đặc trưng của trẻ trong độ tuổi mẫu giáo lớn vẫn tiếp tục phát
triển mạnh. Tâm lý của trẻ phát triển theo các hướng sau:
Sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ trong sinh hoạt hàng ngày
Lứa tuổi mẫu giáo là thời kỳ bộc lộ tính nhạy cảm cao đối với các hiện
tượng ngôn ngữ, điều đó khiến cho ngôn ngữ của trẻ đạt tốc độ khá nhanh và
đến cuối tuổi mẫu giáo thì hầu hết biết sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ trong
sinh hoạt hàng ngày một cách thành thục. Sự phát triển đó là điều kiện để trẻ
phát triển trí thông minh ngôn ngữ ở trẻ mầm non: trẻ biết mô tả, diễn đạt
những hiểu biết, mong muốn của bản thân, kể chuyện, đọc thơ.
Sự hoàn thiện tiếng mẹ đẻ ở mẫu giáo lớn theo các hướng sau:
- Về mặt ngữ âm: Ở cuối tuổi mẫu giáo do sự tiếp xúc ngôn ngữ được
mở rộng trong những năm trước đây, tai âm vị được rèn luyện thường xuyên
để tiếp nhận các ngữ âm khi người lớn nói, mặt khác các cơ quan phát âm đã
trưởng thành tới mức trẻ phát âm tương đối chuẩn kể cả những âm khó của
tiếng mẹ đẻ (như: uềnh oàng, khúc khuỷu…) khi nói năng, trí thông minh
ngôn ngữ và thông minh giao tiếp ở trẻ đang dần được hoàn thiện.
- Về ngữ điệu: Trẻ đã biết sử dụng ngữ điệu một cách phù hợp với nội
dung giao tiếp hay nội dung của câu chuyện mà trẻ kể, điều đó nói lên rằng trí
13
thông minh ngôn ngữ và thông minh giao tiếp đang được phát triển: biết kể
chuyện, đọc thơ một cách diễn cảm, thể hiện sắc thái tình cảm khi kể chuyện.
Trẻ thường nói những lời nói nhẹ nhàng cùng những cử chỉ âu yếm, vỗ về để
thể hiện tình cảm yêu thương trìu mến. Ngược lại, khi giận dữ trẻ lại thường
dùng những cử chỉ thô và mạnh. Khả năng này được thể hiện khá rõ khi trẻ kể
những câu chuyện mà trẻ thích cho người khác nghe.
- Về vốn từ và cơ cấu ngữ pháp
Trẻ 5 - 6 tuổi vốn từ của trẻ tăng bình quân 1.033 từ, đây cũng là giai
đoạn hoàn thiện một bước cơ cấu từ loại trong vốn từ của trẻ. Trẻ nắm được
vốn từ trong tiếng mẹ đẻ đủ để diễn đạt trong sinh hoạt hàng ngày, bên cạnh
đó trẻ còn nắm được các kỹ năng kết hợp các từ trong câu theo nguyên tắc
ngữ pháp. Tuy nhiên, việc này còn phụ thuộc trực tiếp vào điều kiện môi
trường sống và hiệu quả của quá trình giáo dục đối với trẻ.
Trẻ 5 - 6 tuổi số lượng câu đơn, câu ghép và các kiểu câu ghép trong lời
nói đang tăng lên. Đặc biệt là khi kể lại chuyện, số lượng câu đơn mở rộng
chiếm tới 85%, khi kể lại chuyện sáng tạo thì trẻ sử dụng câu ghép với tỉ lệ
cao nhất (25,2%).
Sự lĩnh hội ngôn ngữ, còn được quyết định bởi tính tích cực của bản
thân đứa trẻ đối với ngôn ngữ. Những đứa trẻ mà thích giao tiếp, tích cực tìm
hiểu các hiện tượng ngôn ngữ (tức là ngôn ngữ đã trở thành đối tượng của ý
thức) thì không những hiểu được từ ngữ và nắm ngữ pháp một cách rõ ràng,
mà còn “sáng tạo” ra những từ ngữ những cách nói mà chưa hề có trong ngôn
ngữ của người lớn. Sự phát triển đó cho chúng ta thấy được rằng, trí thông
minh ngôn ngữ và thông minh giao tiếp của trẻ đang phát triển, như trường
hợp của bé Thúy Giang. Thúy Giang đã làm bài thơ đầu tiên vào lúc gần 6
tuổi:
14
Cái vườn nho nhỏ
Cô giáo đến chơi
Cô đưa võng nhỏ
Ru chú mặt trời.
(Bài “Cái vườn”)
- Sự phát triển của ngôn ngữ mạch lạc
Ngôn ngữ mạch lạc của trẻ phát triển tương đối cao không chỉ về
phương diện ngôn ngữ mà cả phương diện tư duy nữa. Trước đây, trẻ sử dụng
ngôn ngữ tình huống là chủ yếu, khi giao tiếp với người xung quanh trẻ sử
dụng nhiều yếu tố trong tình huống để hỗ trợ cho ngôn từ của mình. Một kiểu
ngôn ngữ khác cũng đang phát triển trong độ tuổi mẫu giáo lớn đó là kiểu
ngôn ngữ giải thích. Kiểu ngôn ngữ mạch lạc có ý nghĩa rất quan trọng đối
với viêc hình thành những mối quan hệ qua lại trong nhóm trẻ và với những
người xung quanh, đặc biệt là với sự phát triển các năng lực trí tuệ của trẻ và
nó được thể hiện rõ nét nhất ở đó là thông minh giao tiếp của trẻ.
Sự xác định ý thức bản ngã và tính chủ định trong hoạt động tâm lý
Đến cuối tuổi mẫu giáo trẻ hiểu được mình là người như thế nào, có
những phẩm chất gì, những người xung quanh mình đối xử với mình ra sao và
tại sao mình lại có những hành động này hay hành động khác. Trẻ nắm được
những kỹ năng so sánh mình với người khác, điều này là cơ sở tự đánh giá mình
một cách đúng đắn hơn và cũng là cơ sở để trẻ noi gương người tốt, việc tốt.
Tới lứa tuổi mẫu giáo lớn, sự tập trung chú ý đã bền vững hơn. Điều đó
thể hiện qua thời gian chơi và “tiết học” được kéo dài hơn, đặc biệt là khi trẻ
xem tranh. Thời gian xem tranh có thể gấp đôi so với độ tuổi mẫu giáo bé, trẻ
5 - 6 tuổi đã có thể hiểu tranh vẽ hơn, tách biệt được tranh vẽ về nhiều mặt và
chi tiết lý thú với mình hơn. Ở giai đoạn này, ghi nhớ của trẻ cũng có tính chủ
định nhiều hơn do sử dụng một số phương thức như nhắc lại hay liên hệ lại
15
các sự kiện với nhau do người lớn gợi ý cho. Tuy nhiên, cho tới cuối tuổi mẫu
giáo lớn, các quá trình tâm lý không chủ định vẫn chiếm ưu thế trong hoạt
động tâm lý của trẻ, ngay cả trong hoạt động trí tuệ. Cũng ở độ tuổi này bên
cạnh trò chơi đóng vai theo chủ đề còn xuất hiện khá nhiều trò chơi có luật,
hành động tâm lý bên trong được biến đổi rõ rệt, từ quá trình tâm lý không
chủ định chuyển sang quá trình tâm lý có chủ định như: tri giác có chủ định,
chú ý có chủ định, ghi nhớ có chủ định.
Như vậy, sự xuất hiện của sự tự ý thức và tính chủ định trong tâm lý
của trẻ mẫu giáo lớn là điều rất quan trọng, khiến cho nhân cách của trẻ được
khẳng định và phát huy được ở trẻ các năng lực trí thông minh ngôn ngữ và
thông minh giao tiếp một cách toàn diện.
1.1.2.2. Đặc điểm sinh lý của trẻ 5 - 6 tuổi
Hệ tuần hoàn: Tim của trẻ có tốc độ phát triển khá nhanh. Ở độ tuổi
này, tim của trẻ có trọng lượng nặng gấp 5 lần so với các lứa tuổi trước,
nhưng vẫn còn khá nhanh so với người lớn.
Thành phần máu của trẻ 5 - 6 tuổi cũng tăng lên và biến đổi về chất,
huyết sắc tố 80 - 90 %, hồng cầu 4,5 - 5 triệu đơn vị, bạch cầu 7 - 10 nghìn,
tiểu cầu 200 - 300 nghìn.
Hệ thần kinh: Sự hoạt động của trẻ 5 - 6 tuổi là thời kì phát triển nhanh, rõ
nhất trong cả đời người. Kết cấu thần kinh của não có xu thế sớm trưởng thành,
song ở lứa tuổi này do khả năng hưng phấn và ức chế của hệ thần kinh chưa ổn
định nên nếu trẻ làm gì đơn thuần và kéo dài và đơn thuần sẽ bị mệt mỏi.
Hệ hô hấp: Hệ hô hấp của trẻ đã phát triển, tuy nhiên chưa đầy đủ như
ở người lớn. Vì vậy, trẻ phải hít thở nhiều hơn để nhận đủ lượng cần ôxy cần
thiết. Càng nhỏ, nhịp thở càng nhanh và nông (khoảng 20 - 25 lần trên 1
phút).
16
Như vậy, ở thời kì này các cơ quan và hệ cơ quan của trẻ phát triển
mạnh nên người lớn cần cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng, rèn luyện cơ
thể trẻ giúp cho các cơ quan và hệ cơ quan phát triển. Đây chính là điều kiện
giúp trẻ phát huy các trí thông minh thể chất và thông minh không gian, qua
trí thông minh này trẻ có thể: chạy, nhảy, vẽ… và khám phá chủ đề Thực vật
xung quanh trẻ một cách toàn diện thông qua các loại hình trí thông minh.
1.1.2.3. Đặc điểm về sự phát triển trí tuệ của trẻ 5 - 6 tuổi
Tư duy trực quan sơ đồ đã tạo ra cho trẻ một khả năng phản ánh những
mối liên hệ tồn tại khách quan mà không phụ thuộc vào hành động hay ý
muốn chủ quan của bản thân đứa trẻ. Sự phản ánh những mối liên hệ khách
quan là điều kiện cần thiết để lĩnh hội những tri thức vượt ra ngoài khuôn khổ
của việc tìm hiểu những sự vật riêng lẻ, với những thuộc tính sinh động của
chúng để đạt tới tri thức khái quát.
Tư duy trực quan sơ đồ vẫn giữ tính chất hình tượng, song bản thân
hình tượng cũng trở nên khác trước, hình tượng đã bị mất đi các chi tiết rườm
rà mà chỉ còn giữ lại các yếu tố chủ yếu giúp trẻ phản ánh một cách khái quát,
chứ không phải là từng sự vật riêng lẻ.
Độ tuổi mẫu giáo lớn còn xuất hiện kiểu tư duy lôgic, điều này giúp trẻ
hiểu rằng có thể biểu thị một sự vật hay một hiện tượng nào đó bằng từ ngữ
hay các kí hiệu khi giải những bài toán tư duy độc lập.
Một số nghiên cứu cho thấy rằng, trẻ mẫu giáo lớn cũng có thể lĩnh hội
được một số khái niệm đơn giản trong điều kiện được dạy dỗ đặc biệt, phù
hợp với đặc điểm lứa tuổi. Điều đó giúp trẻ thay đổi khá nhiều trong tư duy
của chúng, biểu hiện nảy sinh những yếu tố tư duy lôgic, tất nhiên là phải có
sự dạy dỗ đặc biệt.
Ở độ tuổi này trẻ đã lĩnh hội được các chuẩn về âm thanh và màu sắc,
tư duy hình tượng cần thiết cho mọi hoạt động sáng tạo, ngay cả trong nghiên
cứu của các nhà khoa học, chúng ta cần phải phát triển tư duy hình tượng
17
ngay cả đối với trẻ mẫu giáo lớn. Thông qua các trò chơi, qua “tiết học”, trong
sinh hoạt hàng ngày hay tham quan giáo viên cần gợi mở, khuyến khích để trẻ
phát triển quan sát, tập phân tích, so sánh, khái quát... tổ chức cho trẻ trực tiếp
quan sát, tự mình phân tích, so sánh, khái quát và đánh giá từ đó phát triển các
thao tác của trí tuệ, các quá trình của tư duy. Bên cạnh đó, cần quan tâm tới tư
duy trừu tượng của trẻ, chỉ cần sử dụng để giới thiệu với trẻ một số khái niệm
đơn giản (hay tiền khái niệm) cần thiết cho việc làm quen với thế giới xung
quanh. Đồng thời, cần phát huy được ở trẻ các dạng trí thông minh một cách
toàn diện. Cần tránh cho trẻ quá sớm đi vào tư duy lôgic theo kiểu người lớn,
“khôn trước tuổi”, điều đó sẽ làm mất đi tính ngây thơ hồn nhiên và tính mềm
dẻo của các loại hình trí tuệ.
1.2. Cơ sở thực tiễn của việc dạy học chủ đề Thực vật theo thuyết đa trí
tuệ cho trẻ 5 - 6 tuổi
1.2.1. Đặc điểm của chủ đề Thực vật cho trẻ 5 - 6 tuổi trong chương trình
Giáo dục Mầm non hiện hành
Tính thực tiễn
Đối với trẻ thơ, chủ đề Thực vật thật gần gũi thân quen và đáng yêu
như những người bạn xung quanh trẻ vậy. Các trẻ đều yêu thích cỏ cây hoa
trái thiên nhiên xung quanh trẻ, vì nó xuất hiện thường xuyên và có trong bữa
ăn, trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, trong hoạt động học tập vui chơi,
thăm quan, trong các câu chuyện kể, bài thơ… của trẻ. Chủ đề thế giới Thực
vật vô cùng phong phú và hấp dẫn, muôn màu muôn vẻ và luôn gợi lên cho
trẻ những thắc mắc: Đây là cái gì? Tại sao lá cây lại có màu xanh? Cây có tác
dụng gì? Tổ chức cho trẻ làm quen với thế giới thực vật giúp trẻ trả lời cho
các câu hỏi đó.
Tính tích hợp
Ở trường mầm non, trẻ được tìm hiểu và khám phá chủ đề Thực vật
thông qua nhiều hình thức như: Tiết học (hoạt động chung), hoạt động vui
18
chơi, thăm quan, lao động trong thiên nhiên, trong hoạt động hàng
ngày…Trong đó, tiết học là hình thức cơ bản để trẻ khám phá chủ đề Thực
vật một cách có hệ thống sâu sắc và toàn diện. Trẻ làm quen với chủ đề Thực
vật ở độ tuổi 5 - 6 chủ yếu được thông qua giờ học cho trẻ làm quen với môi
trường xung quanh, đồng thời nó còn được tích hợp với các giờ học khác như:
tạo hình, giáo dục âm nhạc, làm quen với văn học, làm quen với biểu tượng
toán, thể chất, với các hình thức khác nhau như: thăm quan, dạo chơi, hoạt
động ngoài trời, giờ ăn… Khám phá thế giới chủ đề Thực vật được tiến hành
dưới nhiều hình thức đa dạng, đáp ứng nhu cầu và hứng thú của trẻ theo
phương châm “chơi mà học, học mà chơi” thông qua các trò chơi học tập, trò
chơi xây dựng và trò chơi vận động trẻ khám phá ra thế giới thực vật ở xung
quanh trẻ, khám phá ra chức năng và tính chất của chúng. Trong các trò chơi
đóng vai theo chủ đề, trẻ khám phá được các mối quan hệ giữa con người với
thế giới thực vật, giữa thế giới thực vật với nhau, trẻ học cách giao tiếp, thể
hiện tình cảm và thái độ với thế giới thực vật. Ngoài ra, học qua vui chơi là
phương thức học tập hiệu quả và phù hợp để trẻ có cơ hội tiếp cận và lĩnh hội
tri thức, nâng cao chất lượng học tập.
Như vậy, chủ đề Thực vật vừa là môi trường sống, điều kiện sống, vừa
là đối tượng nghiên cứu của trẻ, đồng thời là phương tiện để học và nghiên
cứu vui chơi.
1.2.2. Mục tiêu của chủ đề Thực vật cho trẻ 5 - 6 tuổi trong chương trình
Giáo dục Mầm non hiện hành
1.2.2.1. Phát triển thể chất
+ Thực hiện và phối hợp nhịp nhàng các vận động: đi, nhảy, bật, ném,
chuyền bóng, trèo lên, xuống.
+ Phát triển sự khéo léo của đôi bàn tay qua hoạt động: tập làm công
việc nội trợ, chăm sóc cây.
19
+ Biết ích lợi của một số thực phẩm nguồn gốc thực vật với sức khỏe
của bản thân.
+ Hình thành một số thói quen tốt trong sinh hoạt hàng ngày, có hành vi
vệ sinh trong ăn uống (ăn quả được rửa sạch, gọt vỏ, thức ăn chín, đã được
chế biến...).
+ Trẻ biết ăn uống đủ chất và chăm chỉ tập thể dục để cơ thể khỏe mạnh
và cân đối.
1.2.2.2. Phát triển nhận thức
+ Quan sát, hiểu và giải thích được quá trình phát triển của cây, biết
phán đoán một số mối quan hệ đơn giản giữa sự phát triển cây cối với môi
trường sống của cây (đất, nước, không khí, ánh sáng).
+ Tiếp tục dạy trẻ biết phân tích, so sánh, nhận xét đặc điểm giống nhau
và khác nhau của các loại cây, hoa, quả (khuyến khích trẻ tìm tòi, phát hiện ra
những đặc điểm mới, chi tiết mới).
+ Biết được ích lợi của cây cối, thiên nhiên và môi trường với đời sống
con người.
+ Biết so sánh phân biệt một số đặc điểm giống nhau và khác nhau của
một số cây, hoa, quả. Biết cách phân loại một số cây loại rau: ăn lá, ăn củ, ăn
quả theo 2 - 3 dấu hiệu theo loài, nơi sống hoặc theo lợi ích của cây và giải
thích tại sao (tìm ra dấu hiệu chung của nhóm).
+ Khuyến khích trẻ tìm tòi và phát hiện ra những loại cây mới.
+ Tiếp tục dạy trẻ nhận biết, gọi tên, nêu đặc điểm (về cấu tạo, màu sắc,
hình dáng, môi trường sống…) của một số loại cây, hoa, quả phổ biến.
+ Nhận biết được số lượng, chữ số và số thứ tự trong phạm vi 8. Tách,
gộp các đối tượng trong phạm vi 8. Biết đo độ dài (chiều cao) bằng một đơn
vị đo nào đó.
20