Tải bản đầy đủ (.doc) (129 trang)

HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ VÀ CÔNG TÁC TÔN GIÁO (Khảo sát ở huyện Thanh Oai, Hà Nội)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (560.45 KB, 129 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
_______________________________________________

NGUYỄN THỊ NGUYÊN

HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ VÀ CÔNG TÁC TÔN GIÁO

(Khảo sát ở huyện Thanh Oai, Hà Nội)

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Hà Nội - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
_______________________________________________

NGUYỄN THỊ NGUYÊN

HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ VÀ CÔNG TÁC TÔN GIÁO

(Khảo sát ở huyện Thanh Oai, Hà Nội)

Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Hà Nội - 2017




MỤC LỤC


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ANTT:

An ninh trật tự

BCH:

Ban chấp hành

DCCT:

Dòng chúa cứu thế

HĐND:

Hội đồng nhân dân

HTCT:

Hệ thống chính trị

MTTQ:

Mặt trận tổ quốc


TCCSĐ:

Tổ chức cơ sở Đảng

THPT:

Trung học Phổ thông

THCS:

Trung học cơ sở

UBĐK:

Ủy ban đoàn kết

UBND:

Ủy ban nhân dân

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
C. Mác cho rằng chính trị và tôn giáo đều là những bộ phận thuộc kiến
trúc thượng tầng chịu ảnh hưởng của cơ sở hạ tầng và tác động ngược trở lại
kiến trúc thượng tầng. Chính trị và tôn giáo có mối quan hệ tác động qua lại lẫn

nhau, cụ thể biểu hiện ở vai trò của chính trị đối với tôn giáo và của tôn giáo với
đời sống chính trị. Mối quan hệ này trực tiếp tác động đến sự ổn định chính trị
và phát triển của mỗi quốc gia. Do đó, việc xây dựng mối quan hệ này ngay từ
hệ thống chính trị cơ sở được coi là bài toán cấp thiết trong việc giữ ổn định an
ninh, chính trị và phát triển của đất nước.
Trong mọi giai đoạn cách mạng ở nước ta, công tác tôn giáo luôn được
Đảng xác định là vấn đề chiến lược có ý nghĩa quan trọng góp phần giải phóng
dân tộc, thống nhất đất nước, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết Trung ương 7 khóa IX ngày 12/3/2003 về
"Công tác tôn giáo”, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Công tác tôn giáo
là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị” đòi hỏi sự quan tâm của các cấp, các
ngành từ Trung ương đến địa phương. Nếu như ở cấp Trung ương, tỉnh/Thành
phố hoặc khu vực, công tác tôn giáo mang tính chiến lược, đáp ứng các yêu cầu
có tính tình thế thì ở cấp địa phương (cấp cơ sở) công tác tôn giáo là nơi diễn ra
các sinh hoạt tôn giáo sẽ trực tiếp bộc lộ hiệu năng của quản lý nhà nước về
công tác tôn giáo. Ở cấp địa phương việc làm tốt công tác này sẽ góp phần giữ
vững ổn định chính trị, xã hội và huy động được sự đóng góp của đồng bào các
tôn giáo, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Hệ thống chính trị cơ sở ở nước ta là hệ thống chính trị ở cấp xã, phường,
thị trấn bao gồm: tổ chức Đảng cơ sở (các đảng bộ, chi bộ cơ sở); chính quyền
(Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn); Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể xã hội (Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội phụ nữ,
Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân…) có quan hệ mật thiết với nhau, trực tiếp
tiến hành các hoạt động theo sự chỉ đạo của cấp trên. Đây là “hình ảnh thu nhỏ”
của hệ thống chính trị nên cũng có những chức năng cơ bản của hệ thống chính
1


trị đó là chức năng tổ chức thực hiện quyền lực của nhân dân; chức năng xây
dựng và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc; chức năng lãnh đạo tổ chức dân

chủ và đảm bảo dân chủ; chức năng giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn
xã hội, đấu tranh trấn áp các lực lượng thù địch âm mưu phá hoại sự nghiệp đổi
mới trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta…
Cơ sở là chính quyền trong lòng dân, là nơi diễn ra mọi hoạt động và
cuộc sống của nhân dân, là cấp cuối cùng - gần dân nhất cho nên việc xây dựng
hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh là bài toán hệ trọng được đặt ra đối với các
cấp chính quyền. Nhận thức được tầm quan trọng đó Nghị quyết đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ X (tháng 9 năm 2006) đã đặc biệt coi trọng đổi mới hệ thống
chính trị cơ sở, nhất là ở cơ sở nông thôn (xã, thị trấn).
Thanh Oai là một huyện ngoại thành nằm ở phía Tây Nam thành phố Hà
Nội, cách trung tâm thành phố Hà Nội khoảng 20km. Đây là mảnh đất có
truyền thống lịch sử lâu đời gắn với nền văn minh lúa nước sông Hồng, cũng
chính là nền văn hóa Đông Sơn ở thời đại các Vua Hùng xây dựng nước Văn
Lang (ở giai đoạn này đất Thanh Oai thuộc bộ Giao Chỉ). Huyện Thanh Oai là
một huyện lớn thuộc tỉnh Hà Tây trước đây, sau này khi tỉnh Hà Tây sát nhập
vào Hà Nội, Thanh Oai trở thành một trong những huyện ngoại Thành có diện
tích rộng lớn thuộc Thành phố Hà Nội, là cửa ngõ đi vào Thủ đô Hà Nội đồng
thời cũng là cầu nối để sang các huyện khác ở trong và ngoài tỉnh [1, tr.19].
Với truyền thống lịch sử và vị trí địa lý đặc biệt quan trọng của mình, trong
những năm qua, được sự quan tâm của các cấp chính quyền việc xây dựng và
hoàn thiện hệ thống chính trị cơ sở ở Thanh Oai trong những năm qua đang
tiếp tục được củng cố, hoàn thiện nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân
và thực hiện quy chế dân chủ cơ sở một cách thực sự, công tác tôn giáo của hệ
thống chính trị cơ sở các cấp ở huyện Thanh Oai cũng đã đạt được những kết
quả khả quan. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa hệ thống chính trị cơ sở và các tôn
giáo trên địa bàn huyện vẫn còn một số hạn chế như: cán bộ trực tiếp làm công
tác tôn giáo vừa thiếu, vừa yếu về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; hệ thống
chính trị cơ sở còn khá thụ động, lúng túng khi xảy ra các vụ việc tôn giáo; sự
2



phối hợp giữa các cấp, ngành trong giải quyết những “vấn đề” tôn giáo còn
kém;… Thanh Oai là quê hương của tác giả, là mảnh đất mà tác giả đã có dịp
gắn bó khi thực tập tốt nghiệp Đại học (ở Ban Tuyên giáo huyện ủy Thanh
Oai), yêu mến mảnh đất và con người nơi đây, tác giả quyết định chọn mảnh
đất này làm nơi nghiên cứu hoàn thành luận văn Cao học với đề tài “Hệ thống
chính trị cơ sở và công tác tôn giáo (Khảo sát ở Huyện Thanh Oai, Hà Nội)”
làm đề tài tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Có thể thấy việc nghiên cứu về hệ thống chính trị cơ sở và công tác tôn
giáo từ lâu đã có nhiều công trình, đề tài khoa học nghiên cứu ở các khía cạnh,
góc độ khác nhau. Từ cuối những năm 90 thế kỷ XX, đặc biệt từ sau khi ban
hành Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX, nhiều công trình nghiên cứu về hệ
thống chính trị cơ sở đã được triển khai. Có thể liệt kê dưới đây những nhóm
công trình sau:
Nhóm 1, các sách chuyên khảo, tham khảo về hệ thống chính trị cơ sở,
công tác tôn giáo và mối quan hệ giữa tôn giáo và chính trị có một số công
trình tiêu biểu sau:
- Thang Văn Phúc và Chu Văn Thành (2000), Chính quyền cấp xã và
quản lý nhà nước cấp xã, Viện Khoa học tổ chức Nhà nước, Nxb. Chính trị
Quốc gia Hà Nội. Các tác giả đã khái quát đặc điểm, chức năng, vai trò của
chính quyền cấp xã và việc thực hiện vai trò của chính quyền trong việc quản lý
nhà nước ở địa phương. Qua đó, thấy được chức năng, nhiệm vụ của đội ngũ
chính quyền cấp xã, nơi trực tiếp điều hành quản lý ở địa phương.
- Vũ Hoàng Công (2002), về Hệ thống chính trị cơ sở: đặc điểm, xu
hướng và giải pháp (Sách tham khảo), do nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà
Nội. Ở công trình này tác giả đã phân tích một cách khoa học và thực tiễn của hệ
thống chính trị cơ sở và dự báo xu hướng vận động của hệ thống đó và đề cập
một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở
ở nước ta.


3


- Nguyễn Văn Sáu và Hồ Văn Thông, chủ biên (2003), Thực hiện quy chế
dân chủ cơ sở và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay, tác giả đã
trình bày và phân tích việc tổ chức, thực hiện quy chế dân chủ ở cấp cơ sở, đánh
giá những kết quả, hạn chế và bất cập trong việc thực hiện quy chế dân chủ cơ
sở trong giai đoạn hiện nay.
- Hoàng Chí Bảo (2004), Hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn nước ta
hiện nay, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội. Trong cuốn sách chuyên khảo này,
tác giả đã phân tích đặc điểm của cấp cơ sở, thực trạng, cơ cấu tổ chức của hệ
thống chính trị cơ sở ở nông thôn. Qua đó, đề ra các quan điểm, giải pháp
nhàm tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị cơ sở ở
nông thôn.
- Nguyễn Đức Lữ, chủ biên (2007), Lý luận về tôn giáo và chính sách tôn
giáo ở Việt Nam, Nxb. Tôn giáo, 2007. Công trình đề cập đến chủ nghĩa Mác-Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo, tín ngưỡng; các tôn giáo trên thế giới,
các tôn giáo lớn ở Việt Nam và chính sách, cũng như việc thực hiện chính sách
đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta.
- Đỗ Quang Hưng có các công trình tiêu biểu như: Nhà nước và giáo hội
và Bước đầu tìm hiểu mối quan hệ Nhà nước và giáo hội, Nxb. Tôn giáo, in năm
2003, trong hai công trình này tác giả đã lý giải sâu sắc về vai trò, chức năng và
mối quan hệ của nhà nước thế tục đương đại đối với tổ chức giáo hội các tôn
giáo. Hay cuốn Tôn giáo và chính trị, Giáo trình Học viện Chính trị Khu vực I,
Nxb. Chính trị Quốc gia in năm 2012. Đặc biệt, cuốn, Nhà nước – Tôn giáo –
Pháp luật (2014), Nxb. Chính trị Quốc gia. Công trình đã tiếp cận mối quan hệ
nhà nước và tôn giáo, pháp luật và tôn giáo từ lý thuyết đến thực tiễn, từ kinh
nghiệm của các nước Âu-Mỹ, Đông Bắc Á đến Việt Nam. Tác giả đã khái quát
lộ trình xây dựng, hoàn thiện luật pháp tôn giáo của Nhà nước Việt Nam trong

nỗ lực hướng tới một môi trường thích hợp để cộng đồng các tôn giáo thực hiện
tốt tư cách công dân mà vẫn thỏa mãn được đời sống tâm linh của mình. Qua
đó, thấy được mối quan hệ mật thiết, gắn bó chặt chẽ giữa nhà nước – tôn giáo –
luật pháp.
4


- Tài liệu do Ban Tôn giáo chính phủ (2017), Tập bài giảng tôn giáo và
công tác tôn giáo (dành cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh, huyện).
Nhóm 2, các luận văn, luận án và đề tài nghiên cứu khoa học nghiên cứu
về sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước ta đối với hoạt động tôn giáo, về
đời sống tôn giáo tại các tỉnh/Thành ở nước ta có các công trình tiêu biểu như:
- Thân Thị Giang (2008), Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với
hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở Hà Tây trong tình hình hiện nay, Luận văn
Thạc sỹ Triết học, trường Đại học Quốc gia Hà Nội. Trong luận văn tác giả đã
chỉ ra thực trạng hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và công tác quản lý nhà nước
đối với hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở tỉnh Hà Tây, từ đó đề ra phương
hướng, giải pháp tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tín
ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn tỉnh Hà Tây.
- Lê Thị Minh Thảo (2015), Công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động
tôn giáo ở tỉnh Ninh Bình, Luận văn Thạc sỹ Triết học trường Đại học Khoa học
xã hội và Nhân văn. Trong công trình nghiên cứu của mình tác giả đã tập trung
vào nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của công tác tôn giáo và làm
rõ những nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện công tác tôn giáo ở Việt Nam
hiện nay; nghiên cứu quá trình thực hiện công tác tôn giáo ở Ninh Bình trong
thời kỳ đổi mới, từ đó thấy được những thành tựu và hạn chế của công tác tôn
giáo ở Ninh Bình. Qua đó, rút ra những bài học kinh nghiệm và đề xuất một số
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác tôn giáo ở tỉnh Ninh Bình.
- Bùi Thị Hồng Thúy (2016), Đảng bộ tỉnh Hà Tây lãnh đạo công tác dân
vận từ năm 1991 đến năm 2008, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, trường Đại học Khoa

học xã hội và Nhân văn. Luận án tác giả đã cho thấy sự chỉ đạo, lãnh đạo sát sao
của các cấp ủy Đảng tỉnh Hà Tây từ năm 1991 đến năm 2008 đối với công tác
dân vận. Tầm quan trọng của công tác dân vận đối với công tác vận động nhân
dân nói chung và đồng bào các tôn giáo tôn giáo nói riêng hiểu được đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Tác giả đã có đánh
giá, nhận xét và đưa ra một số kinh nghiệm phục vụ việc lãnh đạo, chỉ đạo xây
dựng, phát triển công tác dân vận trong bối cảnh tỉnh Hà Tây sát nhập vào Hà
Nội năm 2008.
5


Trong nhóm này, tiêu biểu nhất phải kể đến hai công trình nghiên cứu:
Một là các công trình nghiên cứu của nhà nghiên cứu Nguyễn Hồng Dương về
Công giáo Việt Nam nói chung và Công giáo Hà Nội nói riêng với các công
trình như: Kitô giáo ở Hà Nội (2008), Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, trong công trình
nghiên cứu này tác giả đã khái quát lịch sử truyền giáo của đạo Công giáo vào
Hà Nội và những đóng góp trên lĩnh vực văn hóa của đạo Công giáo đối với Hà
Nội, từ đó mà thấy được bức tranh toàn cảnh kể từ khi đạo Công giáo du nhập
vào Hà Nội cho đến nay; “Mối quan hệ tôn giáo và chính trị những vấn đề lý
luận và mô thức” trên Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, Số 7&8, 2009…Hai là,
công trình Đời sống tôn giáo tín ngưỡng Thăng Long - Hà Nội của nhà nghiên
cứu Đỗ Quang Hưng (2010), Nxb. Hà Nội, đã trực tiếp bàn về đời sống tín
ngưỡng, tôn giáo. Trong nghiên cứu này, qua tiến trình lịch sử các tôn giáo,
những biến thái của những hình tượng tín ngưỡng, hình ảnh sinh hoạt của mỗi
tôn giáo, các loại hình tín ngưỡng đã được tác giả nghiên cứu, tác giả đã phác
họa đời sống tôn giáo tín ngưỡng với những hình ảnh cụ thể của người Phật tử,
người Công giáo, người Tin Lành, người Cao Đài… ở Hà Nội và từ đó đưa ra
những nhận xét thú vị về đời sống tôn giáo tín ngưỡng của Thăng Long - Hà
Nội. Nghiên cứu này không chỉ phục hiện lại lịch sử các tôn giáo, tín ngưỡng
Thăng Long - Hà Nội mà quan trọng hơn, đã dựng lại được những nét cơ bản

nhất trong sự biến chuyển của đời sống tôn giáo tín ngưỡng của người dân Hà
Nội… Ngoài ra, tác giả còn có nhiều bài nghiên cứu in trên các tạp chí chuyên
ngành như Triết học, Nghiên cứu tôn giáo…
Tác giả trong quá trình làm luận văn cũng tham khảo các bài đăng Tạp
chí của Nguyễn Đắc Hiến (2004) về “Hệ thống chính trị cơ sở với việc ổn định
và phát triển kinh tế - xã hội ở vùng nông thôn có đông tín đồ công giáo” trên
Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 1; Trần Thị Hồng Yến (2015), Quan hệ dòng
họ ở làng công giáo Thạch Bích, huyện Thanh Oai, Hà Nội (từ năm 1986 đến
nay)¸trên Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội: Khoa học xã hội và
nhân văn, tập 31, số 2…

6


Tuy nhiên, cần nhìn nhận rằng ở các công trình nghiên cứu này các tác
giả đã chỉ ra được thực trạng đời sống tôn giáo và công tác tôn giáo ở các
Tỉnh/Thành phố, những mặt tích cực, hạn chế trong công tác tôn giáo và đưa ra
những giải pháp một phần nào đó cải thiện công tác tôn giáo bên cạnh việc chỉ
ra các vấn đề lý luận về công tác này. Các công trình này mới chỉ dừng lại ở cấp
Tỉnh/Thành phố chưa đi sâu vào công tác tôn giáo ở cấp cơ sở. Mà cấp cơ sở lại
là nơi diễn ra mọi hoạt động sống của nhân dân, là hơi thở của tôn giáo. Việc
làm tốt công tác này ở cấp cơ sở có vị trí, vai trò quan trọng đối với yêu cầu ổn
định chính trị - xã hội để phát triển bền vững ở địa phương và đất nước. Do đó,
với lựa chọn nghiên cứu hệ thống chính trị cơ sở và công tác tôn giáo, tác giả
mong muốn Luận văn của mình sẽ như một cánh tay nối dài công tác này đến
cấp cơ sở. Trong quá trình nghiên cứu của mình những công trình nghiên cứu
trên là nguồn tư liệu tham khảo có giá trị, giúp tác giả có cái nhìn tổng quan về
hệ thống chính trị cơ sở và công tác tôn giáo. Để trong quá trình nghiên cứu
thực tiễn hệ thống chính trị cơ sở và công tác tôn giáo ở huyện Thanh Oai tác
giả có những cơ sở lý luận, kinh nghiệm thực tiễn vững chắc, xử lý một phần

nào tốt hơn những tình huống khi nghiên cứu luận văn mà tác giả gặp phải.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Luận văn xác định mục đích chính là: trên cơ sở tổng quan về mối quan
hệ giữa chính trị và tôn giáo; qua thực trạng mối quan hệ giữa hệ thống chính trị
cơ sở và tôn giáo đưa ra cái nhìn tổng quan nhất đánh giá về mối quan hệ này,
bước đầu đánh giá và gợi mở số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động của hệ thống chính trị cơ sở, khắc phục những hạn chế, yếu kém đang tồn
tại trong việc giải quyết mối quan hệ giữa hệ thống chính trị cơ sở và công tác
tôn giáo ở huyện Thanh Oai.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu khảo sát thực trạng mối quan hệ giữa hệ thống chính trị cơ
sở và tôn giáo.

7


- Nêu rõ và phân tích “vấn đề tôn giáo” trong tổng thể các chính sách
chính trị xã hội và văn hóa mà hệ thống chính trị huyện Thanh Oai giải quyết
những năm gần đây.
- Đưa ra một số nhận xét và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
của hệ thống chính trị, giải quyết cơ bản mối quan hệ giữa hệ thống chính trị cơ
sở và công tác tôn giáo ở huyện Thanh Oai.
4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng mối quan hệ giữa hệ thống chính trị cơ sở và các tôn giáo ở
huyện Thanh Oai
4.2 Khách thể
- Cán bộ làm công tác tôn giáo
- Tín đồ tôn giáo

- Chức sắc tôn giáo
4.3 Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: huyện Thanh Oai
- Về thời gian: từ khi sát nhập địa bàn huyện Thanh Oai, thuộc tỉnh Hà
Tây vào Thành phố Hà Nội tháng 8 năm 2008 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Cơ sở lý luận
Vận dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước về vấn đề tôn
giáo cũng như lý thuyết về chính sách tôn giáo như một chính sách công – chính
sách xã hội đặc biệt, luật. Đồng thời Luận văn còn dùng phương pháp đối chiếu
các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và chính quyền địa
phương trong việc giải quyết mối tương quan tôn giáo và xây dựng hệ thống
chính trị cơ sở.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích các công trình nghiên cứu lý luận về tôn giáo và hệ
thống chính trị, để tìm hiểu khái quát vấn đề liên quan đến nội dung nghiên cứu
của đề tài. Làm rõ hơn hai cách tiếp cận chính trị học và tôn giáo học. Qua đó có
8


sự so sánh, đối chiếu nhằm làm phong phú thêm nội dung đang tiến hành nghiên
cứu, tìm hiểu.
Tham khảo và xem xét các báo cáo hàng năm về đặc điểm tình hình kinh
tế - xã hội của địa phương từ cấp huyện đến cấp xã. Tham khảo một số tài liệu
về tôn giáo, công tác tôn giáo và hệ thống chính trị, hệ thống chính trị cơ sở.
Ngoài ra, tác giả còn tiến hành các phương pháp sau:
5.2.1 Phương pháp điều tra bảng hỏi
Tác giả đã thiết kế một bảng hỏi phản ánh về thực trạng mối quan hệ giữa
công tác tôn giáo và hệ thống chính trị ở Thanh Oai, Hà Nội hiện nay. Bảng hỏi

gồm 15-20 câu hỏi với những câu hỏi đóng, hỏi mở và câu hỏi nửa đóng nửa mở
được phát cho tín đồ các tôn giáo trên địa bàn huyện Thanh Oai mà cụ thể là tín
đồ 02 tôn giáo là Công giáo và Phật giáo.
Nội dung trưng cầu ý kiến: Bảng hỏi được xây dựng nhằm mục đích tìm
hiểu về thực trạng mối quan hệ giữa hệ thống chính trị cơ sở và các tôn giáo trên
địa bàn huyện Thanh Oai.
Số phiếu thu về được xử lý trên phần mềm SPSS và Excel, tôi đã thu
được những thông tin định lượng có độ chính xác cao, cung cấp thông tin chủ
yếu cho việc kiểm chứng giả thuyết nghiên cứu của đề tài.
5.2.2 Phỏng vấn sâu
Phương pháp phỏng vấn sâu được thực hiện nhằm bổ sung các thông tin
định tính làm sáng tỏ cho các dữ liệu định lượng. Tất cả các phỏng vấn sâu đều
được ghi âm hoặc được ghi chép cẩn thận.
Tổng số lần phỏng vấn sâu đã thực hiện là 10 với khách thể bao gồm: 01
cán bộ UBĐK công giáo Thành phố Hà Nội, 02 cán bộ huyện, 03 cán bộ xã, 02
chức sắc tôn giáo và 02 chức việc tôn giáo.
5.2.3 Phương pháp quan sát
Phương pháp quan sát là phương pháp được phối hợp sử dụng trong quá
trình thu thập thông tin thông qua sự tri giác trực tiếp để có được thông tin cần
thiết cho đề tài. Những biểu hiện bên ngoài như cách nói chuyện, thái độ, hành
động, ngôn ngữ, hoàn cảnh sống và làm việc của người được trả lời sẽ được ghi
9


chép, ghi âm lại cẩn thận để có thể phân tích, bổ sung vào trong luận văn nhằm
có được những thông tin chân thực nhất về vấn đề nghiên cứu.
Ngoài ra phương pháp quan sát còn được sử dụng để tìm hiểu dựa trên
đặc thù của địa phương.
5.2.4 Phương pháp xử lý dữ liệu
Sử dụng các phần mềm xử lý số liệu như: SPISS, Excel… để nhập thông

tin và xử lý số liệu nghiên cứu.
Ngoài ra, Luận văn có phối hợp sử dụng các phương pháp logic và lịch
sử, phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh, đối chiếu.
6. Đóng góp của Luận văn
- Đưa ra cái nhìn tổng quan về mối quan hệ giữa hệ thống chính trị cơ sở
và tôn giáo ở Thanh Oai nói riêng và Hà Nội nói chung.
- Đưa ra một số nhận xét, bài học kinh nghiệm trong việc giải quyết mối
quan hệ ấy. Bước đầu luận giải một số pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
của hệ thống chính trị cơ sở ở Thanh Oai, chủ động hơn trong việc giải quyết
các vấn đề chính sách tôn giáo ở huyện Thanh Oai.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục; nội dung
Luận văn được chia làm hai chương và kết luận, nhận định:
Chương 1. Tôn giáo và hệ thống chính trị cơ sở ở huyện Thanh Oai
Chương 2. Vai trò của hệ thống chính trị cơ sở đối với công tác tôn giáo ở
Thanh Oai
Phần kết luận, nhận định.

10


Chương 1
TÔN GIÁO VÀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ Ở HUYỆN
THANH OAI
1.1 Vài nét về huyện Thanh Oai
Hà Nội là trung tâm đầu não về chính trị, văn hoá và khoa học kĩ thuật,
đồng thời là trung tâm lớn về giao dịch kinh tế và quốc tế của cả nước. Hiện
nay, Hà Nội bao gồm 30 quận, huyện, thị, trong đó: 01 thị xã, 12 quận và 17
huyện; Hà Nội có 584 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 386 xã, 177 phường, 21
thị trấn. Thanh Oai là một huyện thuộc vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng.

Trước đây, địa bàn huyện Thanh Oai thuộc tỉnh Hà Tây, có vị trí trung tâm của
tỉnh. Từ ngày 01/8/2008 toàn bộ tỉnh Hà Tây được sát nhập vào Hà Nội theo
Nghị quyết của kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XII ngày 29/5/2008. Theo đó,
huyện Thanh Oai thuộc Thành phố Hà Nội.
Về vị trí địa lý: huyện Thanh Oai nằm ở phía Nam thành phố Hà Nội với
tổng diện tích đất tự nhiên là 123,85 km2, gồm 21 xã, thị trấn 1 với 118 thôn, tổ
dân phố. Phía Bắc giáp với quận Hà Đông, phía Đông giáp với huyện Thường
Tín, Phía Tây giáp với huyện Chương Mỹ, phía Nam giáp với huyện Ứng Hòa
và huyện Phú Xuyên.
Về giao thông: Thanh Oai có các tuyến đường giao thông quan trọng.
Con đường giao thông huyết mạch của huyện Thanh Oai là quốc lộ 21B kéo
dài từ Hà Đông đi chùa Hương và sang Hà Nam, qua thị trấn Kim Bài. Quốc lộ
6 qua rìa phía Tây Bắc huyện, dự án đường trục phía nam đi xuyên qua huyện,
ngoài ra còn có tỉnh lộ 71. Phía Đông Bắc có tuyến đường sắt vành đai phía
Tây Hà Nội chạy qua, để tới ga Văn Điển [1, tr.17-19]. Bên cạnh giao thông
đường bộ, giao thông đường thủy của huyện cũng đặc biệt nổi bật, hai con
sông lớn là sông Nhuệ và sông Đáy chạy song song theo hướng Bắc – Nam
hợp điểm với các trục đường chạy theo hướng Đông – Tây như đường 70 (Hà
1

21 đơn vị hành chính gồm thị trấn Kim Bài và 20 xã là: Kim An, Cao Viên, Thanh Cao, Thanh Mai, Xuân
Dương, Bích Hòa, Phương Trung, Cao Dương, Bình Minh, Kim Thư, Tam Hưng, Đỗ Động, Hồng Dương,
Dân Hòa, Thanh Văn, Tân Ước, Thanh Thùy, Liên Châu, Mỹ Hưng, Cự Khê.

11


Đông đi Cầu Tó), đường 71, đường 73, đường 6 (Ba La đi Mai Lĩnh) dẫn đến
sự phân chia địa bàn huyện có những ngã ba, ngã tư. Đó là các trọng điểm
quân sự, kinh tế then chốt như: Mai Lĩnh, Ba La, Bình Đà, Cầu Chiếc, Ngã Tư

Vác, Dốc Mọc [1, tr.18]. Do vậy, xét về mặt quân sự, vùng đất Thanh Oai vừa
thuận tiện cho việc cơ động khi tác chiến quân sự, vừa có lợi thế trong việc xây
dựng khu căn cứ để chống giặc. Chính vì vậy, trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược, địa bàn huyện Thanh Oai có vị trí chiến lược đặc biệt
quan trọng cho lực lượng kháng chiến của ta. Bởi đây chính là cửa ngõ đi vào
Thủ đô Hà Nội và quận Hà Đông, đồng thời cũng là cầu nối để đi sang các
huyện khác ở trong và ngoài Thành phố.
Về tình hình kinh tế - xã hội: Với đặc điểm của địa bàn huyện Thanh Oai
là nằm trải dài theo hướng Bắc Nam, có dòng sông Nhuệ ở phía Đông, sông
Đáy ở phía Tây. Do đó, thế mạnh chủ yếu của huyện Thanh Oai là kinh tế nông
nghiệp mà trọng tâm đứng đầu là sản xuất lương thực. Đây cũng là nền kinh tế
chủ đạo trên địa bàn huyện hiện nay. Địa bàn Thanh Oai hình thành 3 vùng đất
thuận lợi cho phát triển nông nghiệp là vùng đất bãi ven sông Đáy (thuận lợi
cho phát triển hoa màu, cây công nghiệp, cây ăn quả và chăn nuôi), vùng đất
ven đường (thuận lợi cho cả cấy lúa và trồng hoa màu) và vùng đồng chiêm
trũng (thuận lợi cho việc cấy hai vụ lúa và chăn nuôi thủy sản). Nhiều sản
phẩm nông nghiệp đã cho chất lượng cao như gạo nếp cái hoa vàng (xã Tam
Hưng), gạo Bồ Nâu (xã Thanh Văn) [36, tr12-22],… Nhìn chung, Thanh Oai
có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển một nền nông nghiệp toàn diện.
Bên cạnh đó trong những năm qua, Đảng bộ và nhân dân Thanh Oai đã
tích cực thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp hóa nông nghiệp
nông thôn nên đã giành được những thành tựu quan trọng về mọi mặt. Kinh
tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
làng nghề và dịch vụ, nhiều làng nghề truyền thống được giữ vững và phát
triển. Các nghề thủ công truyền thống đã trở thành một trong những thế mạnh
của huyện Thanh Oai, với 118 làng nghề; trong đó có 27 làng nghề được công
nhận như nón làng Chuông (xã Phương Trung); quạt làng Vác, nghề đúc và
12



sơn tượng làng Võ Lăng (xã Dân Hòa), điêu khắc xã Thanh Thùy; tương và
miến Cự đà (xã Cự Khê); giò chả Ước Lễ (xã Tân Ước)… các làng nghề đã
tạo thêm việc làm, thu nhập cho người dân, góp phần xóa đói giảm nghèo ở
nông thôn.
Sự phát triển của nông nghiệp, sự phong phú về các sản phẩm thủ công
nghiệp đã tạo điều kiện cho thương nghiệp của huyện phát triển. Trên địa bàn
huyện đã hình thành nhiều chợ lớn có tiếng trong vùng như: chợ Mai Lĩnh
(Đồng Mai), chợ Bộ (Cao Bộ), chợ Tư (Bình Đà), chợ Chuông (Phương
Trung)… Cùng với sự cải thiện về cơ sở hạ tầng, giao thông ngày càng thuận
lợi, thương nghiệp của huyện ngày càng phát triển, các khu công nghiệp mở ra,
các khu đô thị mới, các dự án bắt đầu được hình thành như trên trục đường
phát triển phía nam với các khu đô thị như (Mỹ Hưng, Thanh Hà A, Thanh Hà
B); dự án đường vành đai 4, cụm công nghiệp Cao Viên Bình Đà…
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ và chính quyền các cấp, bộ mặt kinh tế xã hội huyện Thanh Oai đang ngày càng có nhiều bước tiến mới. Theo Báo cáo
chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ huyện Thanh Oai khóa XXI trình Đại hội
đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XXII nhiệm kỳ 2015-2020 thì Bình quân 5
năm từ 2010 đến 2015, tổng giá trị sản xuất toàn huyện đạt 9.714 tỷ đồng/năm,
giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 1.785 tỷ đồng/năm, giá trị sản xuất công
nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đạt 5.103 tỷ đồng/năm, giá trị sản xuất dịch vụ,
thương mại đạt 2.826 tỷ đồng/năm. Thu nhập bình quân đầu người là 25 triệu
đồng/người/năm tăng 11,4 triệu đồng so với năm 2010.Tỷ lệ hộ nghèo toàn
huyện còn khoảng 3% [29, tr.6]. Giá trị tăng thêm trong lĩnh vực dịch vụ thương mại của huyện năm 2010 là 528,8 tỷ đồng, mức bình quân tăng trưởng
là 16,6% đến năm 2015, giá trị dịch vụ - thương mại đạt 804,6 tỷ đồng (CARG
đạt 10,3%) [29, tr.1]. Hiện nay, huyện đã xây dựng xong các dự án quy hoạch
trung tâm thương mại tại thị trấn Kim Bài và 02 xã Bình Đà – Bình Minh, đầu
tư nâng cấp một số chợ trong huyện.
Sự tăng trưởng kinh tế của huyện trong những năm qua đã góp phần cải
thiện đời sống của nhân dân, bình quân thu nhập đầu người tăng, tạo điều kiện
13



cho cuộc sống của nhân dân dược ấm no hơn. Tuy nhiên, “sự phát triển của
kinh tế huyện” vẫn còn chưa tương xứng với vị thế và tiềm năng của huyện,
tăng trưởng kinh tế chưa vững chắc; sản xuất nông nghiệp còn phân tán, manh
mún, năng suất lao động thấp; sản xuất thủ công còn nhỏ lẻ, chưa có thương
hiệu sản phẩm chất lượng cao; hoạt động thương mại – dịch vụ - du lịch còn
mang tính tự phát”.
Về văn hóa – xã hội: dân số trên địa bàn huyện hiện nay là 190.886
người, chủ yếu là dân tộc Kinh. Trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân
tộc, và bảo vệ tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Thanh
Oai là quê hương của nhiều bà mẹ Việt Nam anh hùng, của cán bộ cách mạng
mà tên tuổi còn được ghi tại các di tích lịch sử như nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội),
nhà tù Côn Đảo (Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) [36, tr.47-48]… cùng nhiều tấm
gương khác đã góp phần tô đẹp cho truyền thống quê hương, làm rạng danh Tổ
quốc. Trong thời bình, cùng với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, đặc biệt là từ sau khi sát nhập toàn bộ tỉnh Hà Tây vào Thành phố Hà
Nội, quá trình đô thị hóa trên địa bàn huyện diễn ra nhanh chóng và mạnh mẽ,
hình thành nhiều khu công nghiệp với các doanh nghiệp vừa và nhỏ xuất hiện
ngày càng nhiều, hệ thống giao thông ngày một thuận tiện giữa khu vực nội
thành và ngoại thành dẫn đến những biến động không nhỏ về dân cư. Đặc biệt
là ở các khu đô thị mới được hình thành. Dân trí ngày càng được nâng cao. Sự
chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp ngày một rõ rệt biểu hiện khá rõ khi thanh niên
làm việc trong các ngành dịch vụ là cao nhất tiếp đến là nhóm làm việc trong
lĩnh vực công nghiệp. Thanh niên làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp đang
giảm dần. Ngoài ra, có xuất hiện một nhóm thanh niên đang làm nghề hỗn hợp
để đảm bảo thu nhập [48, tr.37-48]. Bên cạnh đó, công tác y tế chăm sóc sức
khỏe cho nhân dân cũng có những tiến bộ đáng kể. Cơ sở vật chất, trang thiết
bị y tế ở Bệnh viện huyện, các Trạm y tế xã được xây dựng, sửa chữa nâng cấp
nhằm phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân trong huyện.
Mặc dù, Đảng bộ và chính quyền huyện Thanh Oai đã có nhiều nỗ lực

trong việc xây dựng nền văn hóa - xã hội đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Tuy
14


nhiên, các hoạt động văn hóa này vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn
của người dân, vẫn còn nhiều hủ tục lạc hậu trong đời sống văn hóa của nhân
dân; chất lượng giáo dục còn hạn chế, công tác xã hội hóa giáo dục chưa cao;
nhân công lao động thiếu việc làm thường xuyên còn nhiều, nhất là ở những xã
bị thu hồi đất nông nghiệp. Các tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng và ngày càng
có nhiều loại tội phạm nguy hiểm, gây rối loạn trật tự trị an trong xã hội. Đòi
hỏi Đảng bộ và chính quyền các cấp trong huyện cần năng động hơn nữa để
tìm ra những giải pháp khắc phục những khó khăn trên. Mà một trong những
giải pháp đầu tiên đó chính là việc đẩy mạnh xây dựng đời sống văn hóa cơ sở
trên địa bàn toàn huyện. Đây chính là một nút thắt, một khâu trọng yếu để vượt
qua khó khăn, vươn lên trong sự nghiệp xây dựng và phát triển của huyện
Thanh Oai trong thời gian tới.
1.2 Tình hình tôn giáo huyện Thanh Oai, Hà Nội
Thanh Oai có tổng dân số khoảng 190.886 người, với 02 tôn giáo chính là
Phật giáo và đạo Công giáo. Trong đó Công giáo có 16.000 tín đồ chiếm 8,9%
dân số toàn huyện, sinh sống ở 17/21 xã, thị trấn; Phật giáo có 20.078 tín đồ
chiếm 10,51% dân số, sinh sống ở 21/21 xã, thị trấn [69, tr.1]; bên cạnh các tôn
giáo chính Thanh Oai có hệ thống sinh hoạt tín ngưỡng – lễ hội khá phong phú.
1.2.1 Đặc điểm đời sống tôn giáo trên địa bàn huyện
Thanh Oai, Hà Nội
Hệ thống tôn giáo ở Việt Nam khá là phong phú, lâu đời. Hệ thống tôn
giáo ở Việt Nam hiện nay được hình thành từ 03 bộ phận chính sau đây: Một
là, các tôn giáo, tín ngưỡng bản địa; Hai là, các tôn giáo nhập nội; Ba là, các
tôn giáo bản địa mới nảy sinh; Ngoài ra, đã xuất hiện bộ phận thứ tư là, các
“hiện tượng tôn giáo mới” thường được gọi là “đạo lạ”, “Tà giáo”, “giáo
phái”… Bộ phận thứ tư này là những thách đố đầu tiên dễ thấy nhất của xu thế

đa dạng hóa đời sống tôn giáo [19, tr.52-53].
Với hệ thống tôn giáo như vậy, đời sống tôn giáo ở Việt Nam có màu sắc
hết sức phong phú và đa dạng. Theo tác giả Đỗ Quang Hưng trong ấn phẩm
Đời sống tôn giáo tín ngưỡng Thăng Long - Hà Nội, thì "đời sống tôn giáo"
15


gồm hai mặt chủ yếu của là "tính tôn giáo" và "mối quan hệ giữa thể chế tôn
giáo". Tác giả đã khẳng định, "đời sống tôn giáo tín ngưỡng" bị chi phối bởi
đời sống xã hội, sự biến đổi của những điều kiện lịch sử xã hội [19, tr. 214 219]. Đó được coi là những dấu hiệu cơ bản của khái niệm "đời sống tôn giáo
tín ngưỡng". Kế thừa những quan điểm quan trọng nói trên, xét đến tính phổ
quát của khái niệm đời sống tôn giáo và sự có mặt phức tạp của nó trong hoạt
động tôn giáo và đời sống thường ngày, chúng tôi cho rằng đời sống tôn giáo
là tất cả những gì liên quan đến tôn giáo và thực hành tôn giáo; tức là toàn bộ
hoạt động tôn giáo của con người, từ ý thức đến tâm linh, từ nghi lễ đến hành
vi, từ tập quán, thói quen đến việc ứng xử theo nguyên tắc, giới luật của tôn
giáo… Đời sống tôn giáo, do vậy, không chỉ thể hiện trong các giáo lý, nghi lễ,
và hoạt động của các tín đồ của các tôn giáo. Trên thực tế, đời sống tôn giáo
thể hiện ở mức độ ảnh hưởng của các giáo lý, học thuyết tôn giáo, ở khả năng
thu hút của các nghi lễ, lễ hội, hay tập tục tôn giáo và ở thái độ của cộng đồng,
trong và ngoài các tín đồ, đối với hoạt động của các tôn giáo.
Địa bàn huyện Thanh Oai trước khi sát nhập vào Hà Nội thuộc tỉnh Hà
Tây. Đây là mảnh đất có nhiều tôn giáo, trong đó có 04 tôn giáo được nhà nước
công nhận tư cách pháp nhân là Phật giáo, Công giáo, Tin Lành và đạo Cao
Đài. Trong đó, Phật giáo ở Hà Tây có trên 25 vạn tín đồ, toàn Tỉnh có 1.181
ngôi chùa với 1.108 vị tăng ni cư trú, có 1 trường Trung cấp Phật học. Công
giáo trên địa bàn tỉnh có gần 130.000 tín đồ, 312 nhà thờ, nhà nguyện, 4 đền
thánh và 6 tu viện dòng Mến Thánh giá, 21 thôn Công giáo toàn tòng 2. Đạo
Công giáo ở Hà Tây thuộc 2 giáo phận là Giáo phận Hà Nội và Giáo phận
Hưng Hóa3. Điều hành hoạt động của giáo hội trên địa bàn tỉnh do 2 giám mục

và 23 linh mục [56, tr.54]. Ngoài ra trên địa bàn còn một số giáo phái tự xưng
là tôn giáo hoạt động ở một số địa phương như đạo Long Hoa Di Lặc ở Hoài
Đức, Thanh Oai, đạo Ngọc Phật Hồ Chí Minh, Quang Minh vì tình dân tộc ở
Sơn Tây, Hoài Đức… Mặc dù, đời sống tôn giáo trên địa bàn tỉnh Hà Tây
2

Trong đó, huyện Phú Xuyên: 9 thôn; huyện Mỹ Đức: 7 thôn; huyện Chương Mỹ: 1 thôn; huyện Thanh Oai: 1
thôn; huyện Thường Tín: 1 thôn; huyện Hoài Đức: 1 thôn.
3
Giáo phận Hà Nội quản lý và điều hành giáo dân của 9/14 huyện, thành phố phía Nam tỉnh. Giáo phận Hưng
Hóa quản lý và điều hành giáo dân của 5 huyện, thành phố phía Bắc tỉnh.

16


diễn ra khá phong phú nhưng nhìn chung hoạt động của các tổ chức tôn giáo
đều diễn ra trong khuôn khổ pháp luật. Chức sắc, tín đồ các tôn giáo thể hiện
ý thức dân tộc, thực hiện nghĩa vụ công dân, tích cực lao động sản xuất, xây
dựng chính quyền, đoàn kết cùng cộng đồng dân cư xây dựng đời sống văn
hóa mới.
Sau khi tỉnh Hà Tây sát nhập vào Thành phố Hà Nội, đời sống tôn giáo
trên địa bàn tỉnh và địa bàn Hà Nội đã phong phú nay càng phong phú hơn.
Góp phần làm cho màu sắc tôn giáo trên địa bàn Thành phố Hà Nội ngày càng
đa dạng, có vị thế đặc biệt quan trọng trong đời sống tín ngưỡng, tôn giáo cả
nước. Theo đó, Hà Nội có 7 tổ chức tôn giáo được nhà nước công nhận tư cách
pháp nhân là Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao đài, Hồi giáo, Baha’i, Minh
sư đạo, đồng thời, còn một số “hiện tượng tôn giáo mới” như Ngọc Phật Hồ
Chí Minh, Long Hoa Di Lặc, Pháp Luân Công, Pháp môn Diệu âm… Đối với
hai tôn giáo lớn là Phật giáo và Công giáo thì Phật giáo có 600.000 tín đồ, với
1.900 chức sắc, với 3 trường đào tạo Phật học, 2.019 cơ sở thờ tự. Công giáo

có 193.000 tín đồ, 295 chức sắc, 1 trường đào tạo với 377 cơ sở thờ tự, có
1.946 đảng viên có đạo, các xứ, họ đạo chịu sự quản lý của 3 Tòa giám mục là
Hà Nội, Hưng Hóa, Bắc Ninh [3, tr.2]. Như vậy, bức tranh tôn giáo ở Hà Nội
hiện nay khá phong phú với sự đan xen của nhiều tôn giáo khác nhau. Đánh
giá chung về tình hình tôn giáo ở Hà Nội hiện nay, Phó Bí thư Thường trực
Thành ủy - Trưởng Ban chỉ đạo Công tác tôn giáo Thành phố Hà Nội Ngô Thị
Thanh Hằng nhận định rằng công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo ở Hà Nội
đã đi vào nền nếp, các tổ chức tôn giáo được quan tâm, tạo điều kiện và tổ
chức hoạt động đúng quy định của pháp luật. Hệ thống chính trị vùng đồng bào
có đạo được xây dựng, củng cố vững mạnh; không phát sinh các vụ việc phức
tạp giữa chính quyền địa phương với các tổ chức tôn giáo. Khối đại đoàn kết
được giữ vững, sự đồng thuận giữa tổ chức tôn giáo và chính quyền được thể
hiện rõ hơn. Các chủ trương giải quyết nhu cầu tín ngưỡng được thông thoáng,
thuận tiện, nhanh chóng, củng cố niềm tin của tín đồ, chức sắc vào chính sách

17


tôn giáo Nhà nước, không để điểm nóng xảy ra trên địa bàn 4 [75]. Các cơ sở
thờ tự được tu sửa, xây mới; các chức sắc, chức việc được quan tâm, tạo điều
kiện nâng cao trình độ; niềm tin tôn giáo của các tín đồ được củng cố.
Là một huyện ngoại thành Hà Nội, cách Thủ đô khoảng 20km về phía
Tây Nam, đời sống tôn giáo ở huyện Thanh Oai ngoài những nét chung của đời
sống tôn giáo ở Hà Nội thì vẫn có những nét riêng biệt, nổi bật như sau:
Một là, về tín đồ tôn giáo. Tín đồ tôn giáo là bộ phận quần chúng có
niềm tin tôn giáo sâu sắc, chịu sự chi phối của thần quyền, giáo lý, giáo luật và
lễ nghi của tôn giáo. Tín đồ các tôn giáo ở Thanh Oai đa số là nông dân do đó
trình độ nhận thức còn hạn chế. Tuy nhiên, họ có tinh thần yêu nước, có ý thức
dân tộc, có nhiều đóng góp cho quá trình phát triển của huyện Thanh Oai nói
riêng và Thủ đô nói chung. Theo khảo sát của tác giả tại 03 địa bàn nghiên cứu

là xã Bích Hòa, xã Liên Châu và xã Cao Dương huyện Thanh Oai, Hà Nội với
số phiếu phát ra là 210 phiếu chia, số phiếu thu về là 205 phiếu thì trình độ và
nhận thức của các tín đồ được biểu hiện như sau:
Bảng tổng hợp thông tin chung về tín đồ tôn giáo tham gia khảo sát
Cơ cấu
Giới tính
Trình độ
học vấn

Nhóm tuổi
Địa bàn khảo sát

Nam
Nữ

N
82
123

%
40
60

Tốt nghiệp Tiểu học

8

3,9

Tốt nghiệp THCS

Tốt nghiệp THPT
Khác
20 - 30
30 - 40
Từ 40 tuổi trở lên
Xã Bích Hòa
Xã Liên Châu
Xã Cao Dương

26
12,7
151
73,6
20
9,8
56
27,4
79
38,5
70
34,1
70
70
70
(Nguồn: Khảo sát của đề tài)

Hai là, về niềm tin tôn giáo. Niềm tin tôn giáo luôn chiếm một vị trí
quan trọng trong cấu trúc tôn giáo. Do vậy, tín đồ tôn giáo nói chung là
4


Bài viết Hà Nội đã làm tốt công tác tôn giáo đăng tải trên web của Ban Tôn giáo Chính phủ:
/>
18


những người có đức tin tôn giáo, họ có niềm tin tôn giáo rất thiêng liêng và
gắn bó với niềm tin ấy một cách tự nguyện, niềm tin tôn giáo ấy là một giá trị
có tính định hướng bền vững. Đây là một hiện tượng tâm lý xã hội đặc biệt,
thể hiện niềm tin của con người vào sự tồn tại của một lực lượng siêu nhiên,
có ảnh hưởng mạnh mẽ đến cuộc sống con người, tới cộng đồng xã hội [72,
tr.10]. Ví dụ như tín đồ đạo Công giáo tin vào Thiên chúa và sự mầu nhiệm
của Thiên chúa.
Ba là, sự tham gia các hoạt động tôn giáo. Cuộc sống vật chất và tinh
thần người dân Thanh Oai ngày một nâng cao, niềm tin tôn giáo ngày càng
được củng cố. Các hoạt động tôn giáo cũng được các tín đồ chú trọng với
nhiều hoạt động, hình thức, nội dung phong phú. Các lễ hội được diễn ra đều
đặn và được chú trọng hơn cả về hình thức và nội dung, thu hút sự quan tâm
của đông đảo các tín đồ tôn giáo ở trong và ngoài địa bàn huyện. Qua khảo sát
của tác giả tại 03 xã trên địa bàn huyện Thanh Oai cho thấy có khoảng trên 70
tín đồ các tôn giáo tham gia các hoạt động tôn giáo ít nhất 2 lần/năm.
Bốn là, tham gia các hoạt động xã hội. Cùng với sự phát triển về kinh
tế, nhận thức của các tín đồ tôn giáo có nhiều chuyển biến tích cực. Một số
chức sắc tôn giáo khuyến khích các tín đồ tham gia đóng góp các hoạt động xã
hội. Do đó, nhận thức và hiểu biết về các chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước của các tín đồ ngày càng được nâng cao. Các tín đồ
các tôn giáo nhiệt tình, tích cực tham gia các chương trình phát triển kinh tế xã
hội của địa phương và cơ sở, tích cực tham gia sinh hoạt văn hóa, đẩy mạnh áp
dụng chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ. Ngoài việc tham
gia hoạt động tại các hội đoàn tôn giáo, tín đồ các tôn giáo còn tích cực tham
gia các đoàn thể của Nhà nước như: Đoàn Thanh niên, Hội phụ nữ, Hội người

Cao tuổi, Hội nông dân….
Như vậy, với sự quan tâm và tạo điều kiện thuận lợi về mọi mặt của
Huyện ủy, UBND huyện, Đảng ủy và UBND xã, thị trấn đã tập trung lãnh đạo,
chỉ đạo các cấp ủy, chính quyền thôn, xóm và tổ dân phố thực hiện tốt các chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với công tác tôn giáo, tạo thuận lợi
19


cho các tổ chức tôn giáo, chức sắc tôn giáo và các tín đồ trên địa bàn huyện
thực hành tín ngưỡng tôn giáo theo quy định của pháp luật, “sống tốt đời, đẹp
đạo” và có những hoạt động thiết thực đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và
phát triển quê hương, nhất là trong quá trình xây dựng nông thôn mới.
1.2.2. Về đạo Công giáo
Đạo Công giáo trên địa bàn huyện Thanh Oai trước đây và hiện nay
thuộc giáo phận Hà Nội, sinh hoạt tín ngưỡng ở 17/21 xã, thị trấn; có 32 giáo
họ thuộc 06 xứ, 6 linh mục, với 33 Ban hành giáo, 28 nhà thờ, 5 nhà Nguyện,
1 đền thờ Đức Mẹ, có trên 16.000 tín đồ chiếm 8,9% dân số toàn huyện. Trong
đó, có 172 tín đồ là đảng viên [69, tr.2].
* Đối với tín đồ đạo Công giáo
Theo kết quả phiếu điều tra xã hội vào tháng 5 năm 2017 dùng cho tín
đồ các tôn giáo của tác giả được phát cho người theo đạo công giáo với số
phiếu phát ra là 110 phiếu, thu về là 105 phiếu. Cho thấy số người thường
xuyên tham gia các ngày lễ trọng là 80 người; số người thường xuyên tham gia
các ngày Thánh lễ chủ nhật là 73 người, số người thường tham gia bí tích xưng
tội là 101 người. Số liệu trên cho thấy tỷ lệ người thường xuyên đi xưng tội,
chịu lễ khá cao. Đức tin của đồng bào Công giáo cũng được củng cố, các xứ,
họ đạo hoạt động có nề nếp và phong phú.
* Đối với chức sắc, chức việc đạo Công giáo
Hiện nay, trên địa bàn huyện Thanh Oai, có quản xứ 6 với 6 linh mục.
Số đông hàng ngũ linh mục hoạt động lễ nghi tôn giáo theo các quy định,

không tỏ rõ thái độ chính trị hoặc né tránh chính trị.
Trước đây, việc thụ phong chức sắc đạo Công giáo được giáo hội tiến
hành theo Hiến chương, Điều lệ của Giáo hội. Tuy nhiên, từ năm 2008 trở về
trước, Tòa Tổng giám mục Hà Nội vẫn thực hiện việc đăng ký phong chức,
phong phẩm đối với chức sắc Công giáo trên địa bàn Thành phố đúng theo quy
định của pháp luật, có hồ sơ đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để
xem xét về tư cách công dân. Từ năm 2008 đến nay, việc thụ phong linh mục
Tòa Tổng giám mục Hà Nội tự ra quyết định và tiến hành bổ nhiệm linh mục
20


về các xứ, họ đạo làm công tác mục vụ; không đăng ký với chính quyền Thành
phố, chỉ thông báo đến địa phương nơi chức sắc được điều chuyển đến hoạt
động tôn giáo.
* Ban hành giáo xứ
Mô hình Ban hành giáo xứ vẫn khá phổ biến. Trong đó, lấy giáo họ
chính xứ làm trung tâm, Ban hành giáo họ chính xứ lãnh đạo Ban hành giáo
các họ lẻ. Ban hành giáo họ chính xứ lãnh đạo Ban hành giáo các họ lẻ. Ban
hành giáo xứ có 6 người, 1 chánh trương, 1 phó trương kiêm thư ký, 1 thủ quỹ
và các trùm họ đạo [59, tr.72-81].
Ban hành giáo xứ là lực lượng chức việc - chân rết của giáo hội Công
giáo cho nên các linh mục chính xứ rất chú trọng tuyển chọn nhân sự, đưa
người vào nắm tổ chức này. Ban hành giáo xứ, họ đạo trước hết phải có uy tín
với cộng đoàn tín hữu am hiểu lễ nghi, giáo luật, gia đình có kinh tế khá, ở độ
tuổi trẻ nếu là bộ đội xuất ngũ hoặc cán bộ ở xã, phường thì tốt nhất hoặc có
thể chọn những người gia đình có công với cách mạng, để có quan hệ tranh
thủ chính quyền, khi có vấn đề thì chính quyền cũng rất khó xử lý những đối
tượng này.
* Hoạt động của các hội đoàn
Giáo hạt Công giáo Thanh Oai tích cực thực hiện việc củng cố, phát

triển Hội đoàn, ngoài những hội đoàn phục vụ lễ nghi tôn giáo như hội hát, hội
kèn, hội trắc, hội dâng hoa, hội trống, nhiều hội đoàn có xu hướng, phát triển
như hội cầu nguyện, hội ông Thánh Giê su, hội Bà Thánh Anna, hội ông Thánh
Gioan Kim, hội Thiếu nhi thánh thể, Hội mân côi, Hội ông già, hội các bà, hội
gia trưởng… Những hội đoàn được khôi phục và thành lập đều không xin phép
chính quyền, hoạt động của các hội đoàn chủ yếu trong khuôn viên nhà thờ.
Mục đích của các hội đoàn, phục vụ thánh lễ, củng cố, tăng cường đức tin
đồng thời tạo mối liên hệ, gắn bó với giáo hội, thể hiện tính tổ chức trong cộng
đồng giáo dân làm sầm uất các hoạt động tôn giáo ở xứ, họ đạo. Trong các
hình thức hoạt động của hội đoàn đáng chú ý là hội Thiếu nhi Thánh thể, thu
hút số trẻ em có đạo ở lứa tuổi từ 6 đến 15 tuổi, đây thực chất là hình thức bồi
21


×