Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

“Giai cấp công nhân ở Việt Nam hiện nay: thực trạng và phương hướng phát triển”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (368.92 KB, 12 trang )

MỞ ĐẦU
Khi đánh giá về vị trí vai trò của các giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động trong hệ
thống sản xuất, V.I..Lênin đã khẳng định “ trong thời đại ngày nay lực lượng sản
xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”. Trong tiến
trình lịch sử, giai cấp công nhân luôn là lực lượng tiên phong của Cách mạng Việt
Nam. Trong thời kỳ đổi mới, giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng phát triển lớn
mạnh về số lượng và chất lượng, đóng góp to lớn vào sự phát triển của đất nước. Tuy
nhiên, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế, một loạt vấn đề bức
thiết đang đặt ra đối với sự phát triển của giai cấp công nhân, đòi hỏi phải có sự quan
tâm nghiên cứu, từ đó đề xuất những giải pháp sát thực để nâng cao chất lượng đội
ngũ công nhân. Vì vậy, em xin chọn đề tài: “Giai cấp công nhân ở Việt Nam hiện
nay: thực trạng và phương hướng phát triển” . Để làm rõ hơn một số khía cạnh
của đề tài này, từ đó đề xuất những giải pháp sát thực để nâng cao chất lượng đội
ngũ công nhân.

1


NỘI DUNG
I.

Lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lenin về giai cấp công nhân và một số nét
mới của giai cấp công nhân thế giới hiện nay.

1. Lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lenin về giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân.
1.1. Khái niệm giai cấp công nhân và đặc trưng cơ bản của giai cấp công
nhân
Khi sử dụng khái niệm giai cấp công nhân, C.Mác và Ph.Ăngghen đã dùng một
số thuật ngữ khác nhau để biểu đạt khái niệm đó, như: giai cấp vô sản, giai cấp xã
hội hoàn toàn chỉ dựa vào việc bán sức lao động của mình, giai cấp vô sản hiện đại,


giai cấp công nhân hiện đại, giai cấp công nhân đại công nghiệp,... Mặc dù vậy, về
cơ bản những thuật ngữ này trước hết đều biểu thị một khái niệm thống nhất, đó là
chỉ giai cấp công nhân hiện đại, con đẻ của nền sản xuất đại công nghiệp tư bản chủ
nghĩa, giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất
hiện đại.
- Hai thuộc tính cơ bản của giai cấp công nhân:
Về phương thức lao động, phương thức sản xuất, đó là những người lao động
trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày
càng hiện đại và xã hội hóa cao.
Về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, đó là những người lao động
không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc
lột về giá trị thặng dư.
- Khái niệm “giai cấp công nhân”
Từ hai thuộc tính cơ bản của giai cấp công nhân, chúng ta có thể định nghĩa: Giai
cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với quá
trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng
sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao; là lực lượng lao động cơ bản tiên
2


tiến trong các quy trình công nghệ, dịch vụ công nghiệp, trực tiếp tham gia vào quá
trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo quan hệ xã hội; đại biểu cho
lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến trong thời đại hiện nay.
1.2. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xóa bỏ chế độ người bóc lột người,
giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự
áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh.
- Hai điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Do địa vị kinh tế - xã hội khách quan, giai cấp công nhân là giai cấp gắn với lực
lượng sản xuất tiên tiến nhất dưới chủ nghĩa tư bản. Nó là lực lượng quyết định phá

vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sau khi giành chính quyền, giai cấp công
nhân, là người duy nhất có khả năng lãnh đạo xã hội xây dựng một phương thức sản
xuất mới cao hơn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Bốn đặc điểm chính trị - xã hội của giai cấp công nhân quy định một cách khách
quan sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
Thứ nhất, giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng.
Thứ hai, giai cấp công nhân là giai cấp có tính cách mạng triệt để.
Thứ ba, giai cấp công nhân có ý thức tổ chức kỷ luật cao.
Thứ tư, giai cấp công nhân có bản chất quốc tế.
1.3. Hai nhân tố chủ quan đảm bảo cho giai cấp công nhân thực hiện thắng
lợi sứ mệnh lịch sử thế giới của mình
- Đảng cộng sản là hạt nhân chính trị của giai cấp công nhân, sự ra đời của Đảng
là mốc đánh dấu sự trưởng thành của giai cấp. Chủ nghĩa Mac- Lenin khẳng định
việc giai cấp công nhân có tổ chức được chính Đảng trưởng thành về chính trị, tư
tưởng và tổ chức là dấu hiệu đã trở thành giai cấp tự giác và đủ năng lực để thực
hiện sứ mệnh lịch sử.
3


- Bản thân giai cấp công nhân với tư cách là chủ thế thực hiện sứ mệnh lịch sử, sự
phát triển giai cấp công nhân là yếu tố chủ quan quy định chất lượng và quy mô, tốc
độ của quá trình này. Sự phát triển giai cấp công nhân được thể hiện ở sự phát triển
về lượng và phát triển về chất.
2. Một số nét mới của giai cấp công nhân thế giới hiện nay
2.1. Sự lớn mạnh cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu ngành nghề
- Về số lượng, giai cấp công nhân chiếm tỷ trọng không lớn trong cơ cấu dân cư
của từng nước (khoảng 15 - 30%), song lại có chiều hướng gia tăng tỷ trọng trong
tổng số giai cấp công nhân trên thế giới. Bởi lẽ đa phần dân số thế giới là dân cư các
nước đang phát triển. Ở các nước này, trong thế kỷ XX, giai cấp nông dân chiếm số
đông, nhưng hiện nay do diễn ra quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nên giai

cấp công nhân có sự gia tăng nhanh chóng.
- Trình độ học vấn của giai cấp công nhân ngày càng được nâng cao, được đào
tạo nghề nghiệp nhất định trong cơ cấu lao động chung. So với giai cấp nông dân và
những người làm dịch vụ giản đơn, giai cấp công nhân được đào tạo chuyên môn,
nghề nghiệp tốt hơn.
- Giai cấp công nhân đang không ngừng được nâng cao trình độ chuyên môn tay
nghề, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp. Được tiếp xúc với khoa học - công nghệ tiên
tiến, được rèn luyện tác phong, kỷ luật lao động công nghiệp.
2.2. Sự thay đổi về chất lượng cuộc sống
Do tính quy định của sản xuất hiện đại, giai cấp công nhân ngày nay có một số
biểu hiện mới: trình độ văn hóa - tay nghề cao hơn; một số công nhân đã có cả tư
liệu sản xuất, cổ phiếu, đời sống một bộ phận được cải thiện v.v . Song, những biểu
hiện đó không làm thay đổi địa vị cơ bản của công nhân trong chủ nghĩa tư bản. Họ
vẫn đang là lực lượng chủ yếu làm ra của cải cho xã hội và lợi nhuận cho các nhà tư
bản; là lực lượng đối lập trực tiếp với giai cấp tư sản, bị bóc lột nhiều nhất và
khoảng cách về mức thu nhập giữa họ với giới chủ ngày càng lớn. Công nhân trong
4


các nước tư bản phát triển được trí tuệ hóa, lao động bớt nặng nhọc hơn, có chút ít
cổ phần trong doanh nghiệp, thì họ càng bị ràng buộc chặt chẽ hơn vào guồng máy
sản xuất của tư bản, càng bị bóc lột nặng nề và tinh vi hơn. Do đó, sứ mệnh lịch sử
của họ được quy định một cách khách quan bởi địa vị kinh tế - xã hội ấy vẫn không
thay đổi.
II. Thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay và phương hướng phát
triển
1. Giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay: Thực trạng và nguyên nhân
1.1. Thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay.
Một là, số lượng giai cấp công nhân tăng nhanh. Theo số liệu của Tổng cục
thống kê năm 2009, số công nhân, lao động trong các ngành sản xuất công nghiệp và

dịch vụ công khoảng từ 14 triệu đến 15 triệu người, tăng hơn 5 triệu người so với
năm 2009. Dự báo đến năm 2020, lao động làm công ăn lương sẽ chiếm khoảng
50% lực lượng lao động có việc làm (27,5 triệu người); trong đó, giai cấp công nhân
có khoảng 20,5 triệu người.
Hai là, cơ cấu theo thành phần kinh tế của giai cấp công nhân có sự chuyển biến
quan trọng. Số công nhân thuộc những ngành công nghiệp nặng vốn được xem là ưu
tiên trong quá trình công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa thời kì trước đổi mới (như
luyện kim, cơ khí, khai mỏ,…) nói chung phát triển chậm.
Ví dụ: công nhân ngành khai mỏ chỉ tăng từ 255.800 người năm 2000 lên
4310.200 người năm 2008. Trong khi đó, công nhân thuộc các nghành công nghệp
chế biến, các ngành xây dựng, giao thông vận tải, thông tin liên lạc,… đều phát triển
rất nhanh. Ví dụ: số công nhân thuộc ngành công nghiệp chế biến từ trên 3,5 triệu
người năn 2000 đã tang lên 6,3 triệu người năm 2008.
Ba là, trình độ học vấn của một bộ phận lớn công nhân đã được nâng lên. Năm
1986 tính chung cả nước, số công nhân có trình độ trung học cơ sở là 57,5%, trung
học phổ thông là 42,5%, còn cao đẳng và đại học hầu như chưa có ai. Đến giữa năm
5


2007, trên địa bàn Hà Nội có 850.900 công nhân. Trong đó, về học vấn: 2% công
nhân có trình độ tiểu học, 17% - có trình độ trung học cơ sở, 56% - có trình độ trung
học phổ thông, 25% - có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên. Một số ngành kinh tế
mũi nhọn trình độ công nhân lao động tương đối cao. Theo số liệu thống kê của khối
các doanh nghiệp trung ương Tập đoàn hàng không Việt Nam có 46,6% người lao
động có tŕnh độ cao đẳng, đại học trở lên, Tập đoàn Bưu chính viễn thông tỷ lệ này
khoảng 26,5%, khối ngân hàng tỷ lệ này lên đến trên 70%...
Bốn là, chuyên môn tay nghề của công nhân đã được nâng cao.Năm 1996, số
công nhân chưa qua đào tạo nghề là 45,7%, năm 2005 là 25,1%. Năm 2010, số lao
động có trình độ đại học trở lên là 5,7 %, cao đẳng là 1,7 %, trung cấp là 3,5 %, dạy
nghề 3,8 %. Tuy nhiên, nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra.

Năm là, chất lượng cuộc sống của giai cấp công nhân nhìn chung đã được cải
thiện xong vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Bộ phận công nhân có trình độ học vấn, tay
nghề thuộc loại khá cao có thu nhập và đời sống được cải thiện đáng kể so với thời
kỳ trước đổi mới. Tuy nhiên, đại đa số công nhân, nhất là công nhân lao động giản
đơn có thu nhập rất thấp. Nhà nước đã từng bước thực hiện lộ trình tăng lương tối
thiểu, thậm chí có quy định về mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm
ở các loại hình doanh nghiệp. Tuy nhiên, mức tăng thường không theo kịp tốc độ
tăng giá của thị trường, không đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt tối thiểu của công
nhân. Người lao động trong các khu công nghiệp đa số chưa có chỗ ở ổn định, phải
đi thuê trọ với điều kiện vệ sinh, môi trường không đảm bảo.
Có thể thấy, giai cấp công nhân ở Việt Nam hiện nay nhìn chung đã có có sự phát
triển về mọi mặt. Tuy nhiên, so với những yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và hội nhập quốc tế thì còn tồn tại không ít hạn chế như:
- Trình độ học vấn của công nhân nước ta còn thấp. Mặt khác, lực lượng công
nhân có trình độ học vấn cao phân bố không đồng đều, thường tập trung ở một
số thành phố lớn và một số ngành kinh tế mũi nhọn.
6


- Tình trạng mất cân đối trong cơ cấu lao động kỹ thuật khá lớn. Nhiều doanh
nghiệp có thiết bị công nghệ cao nhưng lại thiếu công nhân lành nghề.
- Việc làm, thu nhập và đời sống vật chất, tinh thần của một bộ phận đáng kể
công nhân còn gặp nhiều khó khan, bức xúc.
- Ðịa vị chính trị của giai cấp công nhân chưa thể hiện đầy đủ. Giai cấp công
nhân còn chưa phát huy hết vai trò nòng cốt trong liên minh giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Ðảng.
Giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị của công nhân không đồng đều; sự hiểu
biết về chính sách, pháp luật còn nhiều hạn chế.
- Ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp của một bộ phận công nhân còn
yếu. Ý thức chính trị, nhận thức về luật pháp của công nhân còn hạn chế. Tỷ lệ

đảng viên, đoàn viên công đoàn trong công nhân lao động còn thấp.
- Tình trạng đình công, bãi công của công nhân, nhất là công nhân trong các
khu chế xuất, các khu công nghiệp trong cả nước những năm gần đây ngày
càng gia tăng và diễn biến theo xu hướng ngày càng phức tạp.
1.2. Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém kể trên
- Đảng có chú trọng xây dựng giai cấp công nhân, nhưng quan tâm chưa đầy đủ,
chưa ngang tầm với vị trí, vai trò của giai cấp công nhân trong thời kỳ mới. Công tác
giáo dục, nâng cao giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị cho giai cấp công nhân chưa
được chú trọng đúng mức.Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về giai cấp
công nhân chưa được quan tâm và đầu tư thỏa đáng.
- Nhà nước ban hành nhiều chính sách, pháp luật xây dựng giai cấp công nhân,
nhưng những chính sách, pháp luật này vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập.
- Việc tổ chức và tham gia hoạt động của các tổ chức công đoàn, các tổ chức đoàn
thể và chính trị - xã hội trong các hoạt động của đội ngũ công nhân còn mang nặng
tính hình thức, hiệu quả chưa cao...
- Doanh nghiệp còn nhiều trường hợp vi phạm chính sách, pháp luật đối với
người lao động.
7


Bản thân giai cấp công đã có nhiều nỗ lực vươn lên, nhưng chưa đáp ứng được
yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đất nước.
2. Một số phương hướng cơ bản góp phần phát triển giai cấp công nhân Việt
Nam hiện nay.
2.1. Về phía Đảng, Nhà nước, tổ chức công đoàn, chính quyền cơ sở
- Đảng cần đổi mới, xây dựng, chỉnh đốn đội ngũ, không ngừng nâng cao năng
lực lãnh đạo, trình độ lý luận và tư duy khoa học. Đảng phải thực sự vững vàng
trước mọi diễn biến phức tạp của tình hình; luôn giữ vững và tăng cường bản chất
của giai cấp công nhân, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh vào tình hình thực tiễn của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Đồng

thời, các tổ chức Đảng cũng như mọi cán bộ, đảng viên phải kiên quyết đấu tranh
chống những biểu hiện quan liêu, thoái hóa, biến chất, sa đọa về phẩm chất đạo đức,
tham nhũng, thiếu tận tụy với nhân dân. Chú trọng xây dựng tổ chức Đảng trong các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; quan tâm bồi dưỡng phát triển đảng
trong công nhân.Chú ý hơn nữa công tác tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng
cán bộ xuất thân từ công nhân để từng bước tăng tỷ lệ công nhân trong bộ máy lãnh
đạo các cấp của Đảng, chính quyền và đoàn thể.
- Nhà nước cần xây dựng một bộ máy điều hành vững mạnh, trong sạch. Cần
quan tâm hơn nữa tới cải cách hành chính, để không ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý của Nhà nước, đảm bảo thực thi quyền lực của nhân dân, nhanh chóng
biến mục tiêu, lý tưởng của giai cấp công nhân, của cả dân tộc thành hiện thực. Các
cơ quan chức năng nhà nước cần tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra để bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, xử lý nghiêm các doanh
nghiệp vi phạm quyền lợi của người lao động. Cần hoàn thiện hệ thống pháp luật,
xây dựng và thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm
thất nghiệp đối với người lao động. Mở nhiều trường dạy nghề để đạo tạo công nhân
có tay nghề cao.
8


- Tổ chức công đoàn, liên đoàn lao động cần phải đổi mới mạnh mẽ tổ chức và
hoạt động, kiên quyết khắc phục những hình thức hoạt động xơ cứng và hiện tượng
“hành chính hóa”, “nhà nước hóa” trong tổ chức, hoạt động. Công đoàn phải hướng
về cơ sở, lấy cơ sở làm địa bàn công tác chủ yếu, lấy công nhân, viên chức, lao động
làm đối tượng vận động, tập hợp; lấy chăm lo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính
đáng của công nhân, viên chức lao động thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội làm mục
tiêu hoạt động.
2.2. Về phía bản thân giai cấp công nhân
- Công nhân Việt Nam cần phải hiểu rõ vai trò lịch sử của giai cấp mình đối với
sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta và đối với sự phát triển của cách mạng thế giới.

Mỗi một công nhân, lao động cần giác ngộ cách mạng, thấm nhuần chủ nghĩa Mac –
Lênin, sẵn sàng, chủ động đón nhận thời cơ lớn và vượt qua thách thức.
- Tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nước. Nâng cao phẩm
chất, tinh thần, lòng yêu nước. Tích cực tham gia hoạt động trong tổ chức công đoàn,
phấn đấu để trở thành Đảng viên.
- Hưởng ứng nhiệt tình các phong trào thi đua sản xuất. Đoàn kết, tương trợ với
nhau trong cả công việc lẫn cuộc sống. Tích cực, chủ động tham gia xây dựng khối
đại đoàn kết thống nhất trong từng tập thể và trong toàn bộ giai cấp, góp phần xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc.
- Nâng cao trình độ học vấn, kỹ năng nghề nghiệp, rèn luyện phẩm chất đạo đức,
trở thành lực lượng có tri thức, có tay nghề, chuyên môn, quyết tâm làm giàu cho
chính mình, gia đình và xã hội, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Chấp hành nghiêm
nội quy, kỉ luật lao động, tác phong làm việc chuyên nghiệp.

9


KẾT LUẬN
Xây dựng giai cấp công nhân lớn nước ta lớn mạnh, ngang tầm với sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ động vững bước vào quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế là nhiệm vụ quan trọng của nước ta hiện nay. Tuy còn gặp nhiều khó khăn
xong giai cấp công nhân toàn thế giới cũng như Việt Nam vẫn đang không ngừng
phát triển cả về số lượng, chất lượng, khẳng vị thế, vai trò của mình trong việc giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội. Cần chú trọng, quan tâm hơn nữa đến giai cấp
công nhân, đề ra nhiều phương hướng và giải pháp tối ưu, sang tạo để thúc đẩy giai
cấp công nhân Việt Nam phát triển một cách toàn diện.

10



PHỤ LỤC

V.I.Lênin

Đại diện giai cấp công nhân tại lễ diễu
binh kỉ niệm 70 năm Quốc khánh.

Công nhân ăn trưa tại nhà ăn.

Chung cư cho công nhân.

11


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

- Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, NXB Chính trị quốc gia, năm 2005
- Giai cấp công nhân Việt Nam trong tiến trình đổi mới đất nước: Thực trạng,
xu hướng phát triển, vấn đề và giải pháp / Phạm Xuân Nam
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và sự phát triển giai cấp công nhân, NXB
Chính trị quốc gia, năm 2001
- Xu hướng phát triển giai cấp công nhân Việt Nam đến năm 2020 - Nguyễn
Hữu Dũng
- />- />pageindex=13
- />
12




×