Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

BÀI TẬP HỌC KỲ LUẬT HÌNH SỰ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.34 KB, 10 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Pháp luật hình sự là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu của Nhà nước để
đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, góp phần đắc lực vào việc bảo vệ độc
lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức và công
dân, trật tự quản lý kinh tế, bảo đảm cho mọi công dân được sống trong một môi
trường xã hội lành mạnh. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn nhiều diễn biến phức
tạp, tình hình tội phạm không giảm mà luôn có chiều hướng gia tăng đặc biệt là tội
trộm cắp tài sản đã gây nhiều thiệt hại nghiêm trọng về tài sản của Nhà nước. Tại
điều 15 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Nhà nước phát triển kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định
kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư
nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể giữ vai trò nền tảng”. Quyền sở
hữu đối với tài sản là quyền quan trọng được pháp luật bảo vệ. Vì vậy, đề tài mà em
chọn để nghiên cứu là tội xâm phạm về sở hữu mà cụ thể là tội trộm cắp tài sản.
Tình huống như sau:
Khoảng 18h ngày 25/11/2012, C (19 tuổi) đi xe máy của gia đình chở H (17 tuổi) đi
chơi rồi rủ nhau đi trộm cắp tài sản. C chở H đi lòng vòng một hồi thì thấy có hai
chiếc xe máy dựng trước cửa nhà anh D. Lúc này C thấy vắng người nên dừng xe
và nói với H: “Mày vào phá khóa đi, tao đợi ngoài này”. H vào nhà anh D dùng
tuốc nơ vít phá khóa chiếc xe SH. C đang đứng canh gác thấy có người lại gần, C
sợ bị bắt giữ nên phóng xe ra ngoài đường lớn và về nhà.
Sau khi lấy được xe, ra ngoài đường không nhìn thấy C nên H chủ động đem chiếc
xe trên đến gửi tại phòng trọ của T. Ngày 27/11/2012, Công an bắt được C, H và
thu hồi lại chiếc xe bị trộm cắp tại phòng trọ của T. Chiếc xe trị giá 69 triệu đồng.
C, H có thể bị xử theo khoản 2 Điều 138 BLHS.
1


GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
Câu 1: C có được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội không?


(2điểm)
C không được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Vì theo Điều 19
BLHS quy định: “Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực
hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản. Người tự ý nửa chừng chấm
dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu hành vi
thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải
chịu trách nhiệm hình sự về tội này”.
Theo luật Hình sự Việt Nam, chỉ được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm
tội khi thỏa mãn những dấu hiệu sau:
– Việc chấm dứt không thực hiện tiếp tội phạm phải xảy ra khi tội phạm đang ở
giai đoạn chuẩn bị hoặc ở giai đoạn chưa đạt chưa hoàn thành.
– Việc chấm dứt không thực hiện tiếp tội phạm phải là tự nguyện và dứt khoát.
Trong trường hợp của C thì C chỉ thỏa mãn được yếu tố một của tự ý nửa chừng
chấm dứt việc phạm tội. C đã phóng xe máy đi trong khi H vào nhà anh D dùng
tuốc nơ vít phá khóa chiếc xe SH. Tức là C đã thôi không thực hiện trộm cắp tài
sản (với vai trò là người giúp sức) khi tội phạm trộm cắp tài sản đang ở giai đoạn
chưa đạt chưa hoàn thành. Như vậy đã thỏa mãn được một điều kiện.
Ở điều kiện thứ hai, ta xét đến nguyên nhân mà C bỏ đi chấm dứt không thực
hiện tiếp tội phạm. Tình huống có nói rõ rằng: “C đang đứng canh gác thấy có
người lại gần, C sợ bị bắt giữ nên phóng xe ra ngoài đường lớn và về nhà”. Do
đó, nguyên nhân khiến C không thực hiện tiếp hành vi phạm tội của mình là do
nguyên nhân khách quan chi phối chứ không phải do bản thân C muốn dừng
hành vi phạm tội của mình. Như vậy, C đã không đáp ứng được điều kiện hai.
Trong một vụ án đồng phạm, vấn đề tự ý nửa chừng chấm dứt việc thực hiện tội
phạm không giống như trường hợp phạm tội riêng rẽ. Chỉ có người thực hành là
2


người trực tiếp thực hiện tội phạm mới được áp dụng lý luận về tự ý nửa chừng
chấm dứt việc thực hiện tội phạm như trường hợp phạm tội riêng rẽ, còn những

người khác như: người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức thì phải có thêm
những điều kiện khác ngoài hai điều kiện đã được quy định đối với người thực
hành.
Xét thấy trong trường hợp của C, thứ nhất, C không phải người trực tiếp thực
hiện hành vi phạm tội mà chỉ đóng vai trò là người giúp sức. Thứ hai, hành động
phóng xe đi trước của C xảy ra sau khi H bắt tay vào việc thực hiện tội phạm;
hơn nữa C cũng không có hành động để ngăn ngừa tội phạm xảy ra.
Câu 2: Giả sử khi gửi xe đến phòng trọ của T, H có nói cho T biết đây là xe
vừa trộm cắp được, T cho H gửi xe thì T có bị coi là đồng phạm về tội trộm
cắp tài sản với vai trò là người giúp sức không? (2điểm)
Người giúp sức được định nghĩa tại khoản 2 điều 20 Bộ luật Hình sự năm 1999
(sửa đổi bổ sung năm 2009) như sau : “Người giúp sức là người tạo ra điều kiện
tinh thần hay vật chất cho việc thực hiện tội phạm”.
Có thể thấy, người giúp sức có thể là giúp sức về vật chất hoặc giúp sức về tinh
thần. Giúp sức về vật chất là những hành vi cung cấp công cụ, phương tiện hoặc
khắc phục những trở ngại… để tạo điều kiện cho người thực hành thực hiện tội
phạm thuận lợi hơn. Giúp sức về tinh thần là những hành vi không cung cấp vật
chất nhưng tạo cho người thực hành thực hiện tội phạm có những điều kiện dễ
dàng hơn như chỉ dẫn, góp ý kiến,…
Áp dụng vào tình huống này, nếu khi đến gửi xe tại phòng trọ của T, H có nói
cho T biết đây là xe vừa trộm cắp được, T cho H gửi xe thì thì T không bị coi là
đồng phạm về tội trộm cắp tài sản với vai trò là người giúp sức. Bởi lẽ, hành vi
giúp sức thực chất là việc tạo thêm điều kiện thuận lợi cho người khác vốn đã có
ý định phạm tội hoặc làm cho người đó yên tâm thực hiện tội phạm. Vì vậy mà
3


hành vi giúp sức chỉ có thể được thực hiện trước khi người thực hành bắt tay vào
hành động hoặc khi tội phạm đang tiến hành. Trong khi đó, chỉ khi đến phòng trọ
của T thì H mới cho T biết đây là chiếc xe máy vừa trộm cắp được. Trước đó T

không biết gì về việc phạm tội của H. Lúc đến phòng trọ của T, H đã thực hiện
xong tội phạm. Rõ ràng T không hề có một hành vi nào giúp sức về vật chất cho
H cả. Việc T cho H gửi xe nhưng cũng không phải giúp sức tinh thần, vì trước đó
và trong khi H thực hiện việc trộm cắp chiếc xe máy T không hề hứa hẹn trước là
sẽ cho H gửi xe nếu như H trộm cắp được chiếc xe máy.
Câu 3: Nếu H đang có án tích về tội cướp tài sản (Điều 133 BLHS) lại có
hành vi trộm cắp tài sản nêu trên thì H có bị coi là có tình tiết tái phạm hay tái
phạm nguy hiểm? (2điểm)
Theo khoản 3 Điều 8 BLHS về Phân loại tội phạm: “Tội phạm ít nghiêm trọng
là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình
phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy
hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến
bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã
hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù;
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội
mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù
chung thân hoặc tử hình”.
Theo khoản 2 Điều 138 BLHS về Tội trộm cắp tài sản:
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến
bảy năm:
a) Có tổ chức;
4


b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Dung thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;
e) Hành hung để tẩu thoát;
f) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu
đồng;

g) Gây hậu quả nghiêm trọng
Ở khoản 2 Điều 138 quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 7 năm tù. Vì
vậy, căn cứ vào khoản 3 Điều 8 (BLHS 2009) thì tội phạm trong trường hợp này
là tội phạm nghiêm trọng.
Theo Điều 133 BLHS về Tội cướp tài sản:
1. Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi
khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được
nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm
đến mười lăm năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;
5


đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ
thương tật từ 11% đến 30%;
e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu
đồng;
g) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai
năm đến hai mươi năm:
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ
thương tật từ 31% đến 60%;
b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu
đồng;
c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười tám

năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ
thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người;
b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
c) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu
đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ
một năm đến năm năm.
6


Theo Điều 49 BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) về Tái phạm và tái
phạm nguy hiểm:
1. Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội
do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.
2. Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
a) Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa
được xoá án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do
cố ý.
b) Đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý.
Dựa trên những căn cứ trên xét vào tình huống:
Xét khoản 1 Điều 49 BLHS quy định: “Tái phạm là trường hợp đã bị kết án chưa
được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý...”, H đã bị kết án chưa được xóa án
tích, nay lại phạm tội trộm cắp tài sản là tội do lỗi cố ý. Như vậy, nhìn chung
bước đầu có thể xác định là H có tình tiết tái phạm.
Theo điều 9 BLHS thì tội cướp tài sản và tội trộm cắp tài sản đều là trường hợp
cố ý phạm tội (phạm tội do lỗi cố ý). Theo quy định tại điều 133 BLHS về Tội
cướp tài sản, và khoản 3 Điều 8 BLHS về phân loại tội phạm thì: Tội cướp tài
sản ở khoản 1 Điều 133 BLHS là tội phạm rất nghiêm trọng (mức cao nhất
khung hình phạt là đến 10 năm tù); ở khoản 2, 3 và 4 Điều 133 là tội phạm đặc

biệt nghiêm trọng (mức cao nhất khung hình phạt là đến 15, 20 năm tù và tử
hình); ở khoản 5 Điều 133 là tội phạm ít nghiêm trọng (hình phạt nhẹ hơn hình
phạt tù).

7


Theo khoản 2 Điều 49 BLHS thì những trường hợp được coi là tái phạm nguy
hiểm được chia làm hai tại mục a và b. Theo mục b: “Đã tái phạm, chưa được
xóa án tích mà lại phạm tội do lỗi cố ý” thì được coi là trường hợp tái phạm nguy
hiểm. Tuy nhiên trong tình huống và giả định bài cho không có dữ kiện H đã tái
phạm mà chỉ là đang có án tích về tội cướp giật tài sản. Vì vậy, trường hợp của H
không thuộc mục b. Xét tới mục a: “Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc
biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội rất nghiêm
trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý”, H phạm tội trộm cắp tài sản theo khoản
2, điều 138 được xác định chỉ là tội phạm nghiêm trọng do lỗi cố ý và đề bài có
nêu H có án tích về tội cướp tài sản theo quy định điều 133 BLHS nhưng không
nêu cụ thể H đã bị kết án tại khoản nào trong điều này. Vì vậy, H chỉ bị coi là có
tình tiết tái phạm mà không phải tình tiết tái phạm nguy hiểm.
Câu 4: Giả sử C và H mới tròn 15 tuổi mà trộm cắp tài sản theo tình huống
nêu trên thì có phải chịu TNHS không? (1điểm)
Căn cứ vào tình huống trên và dựa theo cách phân loại tội phạm được quy định
tại khoản 3 Điều 8 BLHS, C và H đã phạm tội trộm cắp tài sản được quy định
tại khoản 2, điều 138, BLHS là tội phạm nghiêm trọng do mức cao nhất của
khung hình phạt đối với tội này là 7 năm tù. Đầu bài giả định rằng C và H là
người mới tròn 15 tuổi, vậy vấn đề đặt ra là C và H có phải chịu trách nhiệm
hình sự hay không?
Trước hết, cần hiểu trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của người phạm tội phải
chịu những hậu quả pháp lý bất lợi do hành vi phạm tội của mình gây ra. Luật
hình sự Việt Nam quy định rất rõ về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự tại Điều 12

BLHS: “Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm. Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.

8


Theo đó, C và H mới tròn 15 tuổi, và tội phạm của C và H lại là tội phạm nghiêm
trọng nên C và H không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm được quy
định tại khoản 2 Điều 138.

9


KẾT LUẬN
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Nhà nước ta có nhiệm vụ bảo vệ
quyền lợi ích hợp pháp của Nhà nước cũng như của nhân dân. Với vai trò là nền
tảng kinh tế xã hội của quốc gia, chế độ sở hữu là một trong những vấn đề trọng
yếu được Nhà nước bảo vệ bằng mọi biện pháp trong đó biện pháp pháp lý hình
sự thể hiện kiên quyết nhất ý chí quyền lực Nhà nước trong xử lý các hành vi
xâm phạm tới chế độ sở hữu. Trong số các tội xâm phạm sở hữu, tội trộm cắp tài
sản là tội xâm phạm trực tiếp tới quyền sở hữu tài sản, nó xảy ra khá phổ biến. Ở
mỗi giai đoạn phát triển, Nhà nước đều có những quy định về tội trộm cắp tài sản
và biện pháp xử lý nhằm đấu tranh loại bỏ tội phạm khỏi đời sống xã hội. Để có
thể giải quyết những vấn đề trên các cơ quan chức năng cần phải nghiên cứu,
xem xét đặc điểm, hành vi của từng đối tượng phạm tội, nắm rõ tính chất của tội
phạm để đề ra những giải pháp đấu tranh, phòng ngừa thật phù hợp nhằm hạn
chế một cách tốt nhất tình hình tội phạm trong giai đoạn hiện nay.

10




×