Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

CA DAO TRONG CHƯƠNG TRÌNH TIẾNG VIỆT TIỂU HỌC TỪ GÓC NHÌN THI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.84 MB, 98 trang )

1 of 128.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN

CA DAO TRONG CHƯƠNG TRÌNH TIẾNG VIỆT TIỂU HỌC
TỪ GÓC NHÌN THI PHÁP
Mã số:

Họ, tên sinh viên chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Thị Như Quỳnh
Ngành học: Giáo dục Tiểu học
Khóa học: 52
Khoa: Sư phạm Tiểu học - Mầm non

Quảng Bình, năm 2014

kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag


2 of 128.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN

CA DAO TRONG CHƯƠNG TRÌNH TIẾNG VIỆT TIỂU HỌC
TỪ GÓC NHÌN THI PHÁP
Mã số:



Thuộc nhóm ngành khoa học: Xã hội và Nhân văn
Họ và tên sinh viên thực hiện đề tài: Nguyễn Thị Như Quỳnh
Ngành học: Giáo dục Tiểu học
Khóa học: 52

Giảng viên hướng dẫn: TS. Mai Thị Liên Giang

Quảng Bình, năm 2014

kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag


3 of 128.

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Từ bao đời nay, văn hoá dân gian luôn là hiện thân của vẻ đẹp truyền thống, là
niềm tự hào của mỗi dân tộc. Trong các loại hình văn hoá dân gian ấy, ca dao tồn tại như
một vẻ đẹp trí tuệ, vẻ đẹp của viên ngọc quý sáng lấp lánh. Qua bao lớp bụi thời gian,
viên ngọc ấy vẫn luôn được khẳng định là “kho báu trí tuệ của nhân dân”. Dẫu thời gian
có trôi bao lâu, xã hội có thay đổi thế nào thì những kinh nghiệm, những tri thức ấy vẫn
luôn thu hút sự tìm tòi, khám phá của biết bao thế hệ.
Ca dao là phần phong phú, quan trọng của văn học dân tộc. Nó được nhiều người
khẳng định là phần có giá trị nhất về mặt tình cảm và nghệ thuật biểu hiện. Ca dao là sản
phẩm tinh thần và là nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống tình cảm, cuộc sống
lao động, đấu tranh của người Việt. Nó là công cụ tư duy và là công cụ diễn đạt sắc bén,
lưu giữ một kho tàng tri thức, những nếp sống đẹp, những kinh nghiệm quí giá mà cha
ông ta để lại, giúp bồi đắp các giá trị đạo đức, nhân cách cho con người. Đồng thời ca dao

là kho tàng biểu đạt ngôn ngữ tinh tuý của dân tộc. Ngoài việc phản ánh khá chân thực,
đầy đủ những kinh nghiệm về cuộc sống, xã hội, lịch sử ca dao còn biểu hiện tâm trạng
của các nhân vật trữ tình. Đằng sau những bài ca dao thuần hậu, thiết tha, đằm thắm là
ước nguyện tốt đẹp trong cuộc sống. Đây là một phần quan trọng của tư liệu khoa học
dân gian và triết lý dân gian. Gắn với lao động, với tự nhiên và những thăng trầm của lịch
sử xã hội, nhân dân đã bộc lộ kinh nghiệm sống, lối sống, tư tưởng đạo đức qua ca dao.
Việc nhận biết, cảm thụ sâu sắc ý nghĩa, cấu tạo, nội dung các câu ca dao là rất cần
thiết, giúp giáo viên cảm nhận được nét đặc sắc của ca dao; đồng thời góp phần giúp
giáo viên dạy tốt môn tiếng Việt. Mặt khác, ca dao còn rèn luyện cho học sinh khả năng
tiếp nhận, vận dụng, sáng tạo, trau dồi vốn kiến thức và nâng cao khả năng diễn đạt của
học sinh.
Trong chương trình Tiểu học, ca dao cũng đã được đưa vào giảng dạy khá nhiều.
Tuy nhiên, do yêu cầu thực tế, người dạy và người học chỉ xem ca dao là một phần ngữ
liệu của tiếng Việt nên giáo viên chưa có điều kiện phát triển năng lực cảm thụ của học
sinh; chưa phát huy hết yếu tố giáo dục đạo đức, nhân cách của các bài ca dao trong giờ
học. Ở Tiểu học, ca dao chủ yếu được tìm hiểu từ góc độ nội dung, nghiên cứu ca dao từ
góc độ thi pháp học vẫn chưa được chú ý. Hiện nay, áp dụng thi pháp học để tìm hiểu
các thể loại văn học đang thu hút được nhiều sự quan tâm của sinh viên ở các trường

kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag


4 of 128.

Đại học. Việc vận dụng thi pháp học nghiên cứu thể loại ca dao góp phần đưa lại cái nhìn
khoa học và khắc phục khoảng trống trong nghiên cứu văn học ở Tiểu học. Xuất phát từ
những lí do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài: “Ca dao trong chương trình tiếng
Việt Tiểu học từ góc nhìn thi pháp” với mong muốn giúp giáo viên và học sinh Tiểu học
hiểu rõ hơn về bản chất, cấu tạo và ý nghĩa của các bài ca dao được đưa vào giảng dạy
trong chương trình tiếng Việt.

2. Lịch sử vấn đề
Văn học dân gian là “mảnh đất nghệ thuật vô tận” của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực
khoa học nhân văn. Đã có nhiều nhà nghiên cứu và những công trình nghiên cứu về văn
học dân gian Việt Nam với nhiều quy mô lớn. Từ góc độ thi pháp, chúng tôi nhận thấy
một số tác giả đã có những thành công nhất định.
Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử trong tác phẩm “Dẫn luận thi pháp học”, NXBGD,
H.1998 đã chỉ ra rằng: thi pháp học là cách thức phân tích tác phẩm bám vào văn bản là
chính, không chú trọng đến những vấn đề nằm ngoài văn bản như tiểu sử nhà văn, hoàn
cảnh sáng tác, nguyên mẫu nhân vật, giá trị hiện thực, tác dụng xã hội,... mà thi pháp
học chỉ chú ý đến những yếu tố hình thức tác phẩm như: hình tượng nhân vật, không
gian, thời gian, kết cấu, cốt truyện, ngôn ngữ, thể loại... Nội dung trong tác phẩm phải
được suy ra từ hình thức. Quan điểm của nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Dân cũng gần với
quan điểm của GS.TS Trần Đình Sử. Trong “Phương pháp luận nghiên cứu văn học”, NXB
Khoa học và Xã hội, H.2004 ông cho rằng phương pháp chủ yếu của thi pháp học là
phương pháp hình thức. Chúng ta có thể hiểu phương pháp hình thức là phương pháp
phân tích các khía cạnh hình thức của tác phẩm văn học nghệ thuật để rút ra ý nghĩa
thẩm mỹ của nó.
Hai quan điểm trên của các nhà nghiên cứu đã khẳng định: các tác phẩm văn học
được nghiên cứu bằng con đường thi pháp học tức là thông qua việc làm rõ các phương
thức nghệ thuật để tìm ra được nội dung của tác phẩm.
Đi sâu vào việc nghiên cứu thi pháp thể loại văn học dân gian, công trình“Những
đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân gian” của GS. Đỗ Bình Trị, NXBGD, 1999
đề cập tới mục đích, ý nghĩa của việc nghiên cứu thi pháp thể loại: “Thể loại được gọi là
đơn vị cơ sở của văn học dân gian và là điểm xuất phát tất yếu của công việc nghiên cứu
văn học dân gian. Và mỗi thể loại văn học dân gian có cách nói riêng của nó. Thi pháp
thể loại chính là cách nói riêng ấy. Có nắm được thi pháp thể loại thì mới có khả năng
phân tích, “giải mã” các tác phẩm thuộc thể loại. Tác giả cũng chỉ ra rằng: trong nhà

kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag



5 of 128.

trường “việc nghiên cứu thi pháp thể loại giúp người giáo viên không những có khả năng
tự mình hiểu đúng, hiểu sâu hơn các tác phẩm văn học dân gian trong chương trình mà
có khả năng hoàn thiện hệ thống thao tác phân tích tác phẩm nhằm luyện tập cho học
sinh cách đọc - hiểu tác phẩm ngay chính trong quá trình các em được hướng dẫn, tìm
hiểu tác phẩm” [33, tr 6]. Như vậy, ở đây một lần nữa tác giả lại nhấn mạnh tới vai trò
của thi pháp thể loại, coi nó là chìa khoá giúp cho người giáo viên mở cánh cửa văn học
dân gian trong nhà trường. Cũng xuất phát từ đó, khi đề cập đến những đặc điểm thi
pháp của ca dao, tác giả cho rằng: “sự tổng hoà của những đặc điểm thi pháp những
nhân vật trữ tình, những hoàn cảnh điển hình trong ca dao, kết cấu ca dao, hệ thống
hình ảnh và ngôn ngữ, thể thơ và sự vận dụng các thể thơ trong ca dao đã tạo nên một
phong cách chung bền vững của ca dao truyền thống”.
Cũng giống như GS. Đỗ Bình Trị, nhà folklor học Nguyễn Xuân Kính cũng nghiên
cứu thi pháp thể loại văn học dân gian, nhưng ông không nghiên cứu thi pháp thể loại
chung chung mà tiến hành nghiên cứu thi pháp trên một thể loại cụ thể. Nguyễn Xuân
Kính tiếp thu quan niệm thi pháp học từ các học giả Nga. Ông hiểu nghiên cứu thi pháp
là nhằm chỉ ra cái hay, cái bản chất nghệ thuật của tác phẩm, chỉ ra lí do tồn tại của hình
thức; trong cuốn “Thi pháp ca dao”, NXB Giáo dục KHXH - Hà Nội, 1992 tác giả đã khái
quát đặc điểm thi pháp ca dao như sau: “Xét về mặt thi pháp, bên cạnh những điểm
giống thơ của các tác giả thuộc văn học viết, những nét giống vè (một thể loại của văn
học dân gian), ca dao có những đặc điểm riêng biệt: Ngôn ngữ ca dao là sự kết hợp giữa
ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ đời thường. Đa số các lời ca dao trữ tình là những văn bản
biểu hiện. Cách sử dụng tên riêng chỉ địa điểm trong ca dao về cơ bản khác với cách
dùng loại từ này trong thơ bác học. Về thể thơ, 95% ca dao cổ truyền được sáng tác
theo thể thơ lục bát... Thời gian nghệ thuật trong ca dao là thời gian hiện tại, thời gian
diễn xướng. Không ít trường hợp trong đó thời gian miêu tả có tính chất công thức, ước
lệ. Không gian nghệ thuật trong ca dao chủ yếu là không gian trần thế, đời thường, bình
dị, phiếm chỉ với những nhân vật chưa được cá thể hoá, mang tâm trạng, tình cảm

chung của nhiều người. Tuy cùng xây dựng các biểu tượng trên cơ sở là hiện thực khách
quan, nhưng nhiều ý nghĩa của các biểu tượng trong ca dao khác hẳn với thơ bác học...
Các đặc điểm thi pháp vừa nêu tạo thành một thể loại riêng trong lịch sử văn học Việt
Nam: Thể ca dao” [11, tr 233]. Với cách hiểu nghiên cứu thi pháp là nhằm chỉ ra cái hay,
cái bản chất nghệ thuật của tác phẩm, chỉ ra lí do tồn tại của hình thức, với tác phẩm
này ông đã nghiên cứu các yếu tố thi pháp ca dao từ ngôn ngữ, thể thơ, kết cấu, biểu
tượng, hình ảnh, thời gian và không gian nghệ thuật. Đây là một trong các công trình
nghiên cứu tiêu biểu về thi pháp văn học dân gian Việt Nam.

kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag


6 of 128.

Tác giả Hoàng Tiến Tựu trong cuốn “Văn học dân gian Việt Nam” đã nghiên cứu
những đặc điểm của nghệ thuật ca dao, ông đã phân tích: nhân vật trữ tình trong ca
dao, kết cấu trong ca dao, hệ thống hình ảnh và ngôn ngữ trong ca dao. Ông dựa trên cơ
sở nắm vững những thủ pháp, thao tác của thi pháp học đại cương để tập trung khảo
sát các bài ca dao chủ yếu ở các phương diện nghệ thuật nhằm xây dựng một hệ thống
những thuộc tính có tác động thẩm mĩ của nó. Hay trong công trình “Bình giảng ca dao”
của mình, nhà nghiên cứu Hoàng Tiến Tựu một lần nữa khẳng định việc đi tìm nội dung
thông qua các yếu tố nghệ thuật: “Muốn hiểu đúng, hiểu rõ, hiểu sâu sắc và thấu đáo
một bài ca dao phải bám sát vào từ ngữ của nó, thông qua từ ngữ để tìm ra ý, tứ, sự,
tình ở trong đó” [36, tr.34]. Như vậy, Hoàng Tiến Tựu đã chú ý đến vấn đề khai thác yếu
tố từ ngữ trong ca dao.
Ngoài các công trình được đề cập trên còn có một số các công trình liên quan tới
vấn đề thi pháp ca dao đã được đăng tải trên các trang web. Những công trình nghiên
cứu này đã đề cập nhiều khía cạnh khác nhau của nội dung, kết cấu và ý nghĩa của các
bài ca dao. Ví dụ: Đặc điểm thi pháp ca dao dân ca; Thơ lục bát ca dao Việt Nam; Ca dao
– ngôn ngữ thơ dân gian; Luận văn đặc trưng không gian, thời gian trong ca dao, Tìm

hiểu các nhân tố giao tiếp trong ca dao tình yêu... Tuy nhiên, hầu hết các đề tài này
nghiên cứu thi pháp ca dao từ cái nhìn khái quát, chưa đặt ra vấn đề nghiên cứu thi
pháp ca dao trong chương trình tiếng Việt ở Tiểu học.
Ở nước ta, tính đến tháng 01 năm 2013 đề tài “Ca dao trong chương trình tiếng
Việt Tiểu học từ góc nhìn thi pháp” vẫn chưa có ai nghiên cứu. Chúng tôi xem những
công trình nghiên cứu trên là những cơ sở khoa học quý báu của đề tài.
3. Mục đích nghiên cứu
Vận dụng khái niệm thi pháp nói chung và thi pháp ca dao nói riêng để tìm hiểu
bản chất và ý nghĩa của các bài ca dao.
Tìm hiểu về kết cấu bài ca dao; hệ thống hình ảnh, ngôn ngữ trong ca dao; các thể
thơ trong ca dao; thực tế và ca dao.
Nhận diện và đánh giá một cách khách quan giá trị nghệ thuật của ca dao; góp
phần xác định vai trò, vị trí của nó trong chương trình tiếng Việt ở Tiểu học.
Là một giáo viên Tiểu học trong tương lai thì việc nghiên cứu đề tài này của chúng
tôi không tách rời với công việc giảng dạy. Vì vậy nghiên cứu đề tài này nhằm tìm hiểu
những đặc điểm của thi pháp của ca dao trong chương trình tiếng Việt ở Tiểu học góp

kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag


7 of 128.

phần giúp giáo viên và học sinh hiểu rõ hơn về ca dao từ góc nhìn thi pháp. Từ đó, có
cách dạy, học và cảm thụ một cách sâu sắc các câu ca dao; góp phần làm giàu vốn từ,
vốn sống cho các em qua các bài ca dao, bồi đắp tình yêu tiếng Việt cho các thế hệ trẻ
của đất nước.
4. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
- Ca dao trong chương trình tiếng Việt Tiểu học từ góc nhìn thi pháp.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này chúng tôi sử dụng nhóm phương pháp

nghiên cứu lý thuyết là chủ yếu. Đây là những phương pháp nhằm phân tích, tổng hợp
các tài liệu có liên quan nhằm xây dựng cơ sở lí luận cho vấn đề nghiên cứu. Sử dụng
phương pháp này trong đề tài chúng tôi nhằm làm rõ các khái niệm: thi pháp, thi pháp
học, ca dao, những đặc trưng của thi pháp ca dao trong chương trình tiếng Việt Tiểu
học. Từ nhiều quan điểm khác nhau chúng tôi đưa ra một cách hiểu chung nhất về khái
niệm có liên quan đến đề tài. Cụ thể, gồm các phương pháp sau:
- Phương pháp thống kê, phân loại: Bằng phương pháp chúng tôi nghiên cứu thu
thập số liệu và thống kê phân tích để phân loại đối tượng khảo sát. Phương pháp này
được sử dụng trong việc khảo sát văn bản, giúp thống kê phân loại, tìm hiểu tần số xuất
hiện một cách tỉ mỉ, cụ thể, đầy đủ những thi pháp đặc trưng của ca dao trong chương
trình tiếng Việt ở Tiểu học. Vận dụng phương pháp này chúng tôi có thể dựa theo các
tiêu chí phân loại ca dao theo độ dài để khảo sát các bài ca dao trong chương trình tiếng
Việt ở Tiểu học, phân chia các bài ca dao theo từng nhóm, thống kê số lần xuất hiện của
các loại ca dao.
- Phương pháp đối chiếu, so sánh: Vận dụng phương pháp này, chúng tôi so sánh,
đối chiếu, đánh giá những sự vật, hiện tượng để thấy được sự tương đồng, khác
biệt trong mối tương quan tổng thể, rút ra những nhận định cần thiết. Phương
pháp đối chiếu so sánh được chúng tôi sử dụng khi đối chiếu so sánh các đặc trưng
cơ bản của thi pháp ca dao; đối chiếu so sánh các thể loại gần gũi với ca dao; đối
chiếu so sánh ca dao đặc điểm nghệ thuật của ca dao truyền thống và ca dao trong
chương trình tiếng Việt ở Tiểu học để thấy được những đặc điểm riêng của ca dao ở
Tiểu học...
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Sử dụng phương pháp phân này, chúng tôi
phân chia cái tổng thể của đối tượng nghiên cứu thành những bộ phận, những yếu tố

kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag


8 of 128.


cấu thành đơn giản hơn để nghiên cứu, phát hiện thuộc tính và bản chất của các yếu tố
đó. Từ đó chúng tôi xác định đối tượng nghiên cứu một cách mạch lạc hơn, hiểu được
cái chung phức tạp từ những yếu tố bộ phận ấy. Phương pháp này được sử dụng trong
đề tài giúp chúng tôi phân tích các yếu tố nghệ thuật đặc trưng của ca dao để khái quát
thành bình diện nghiên cứu theo hướng thi pháp học.
- Phương pháp hệ thống: Nghiên cứu ca dao trong chương trình tiếng Việt ở Tiểu
học về các phương diện nhân vật, kết cấu, thể thơ, hình ảnh, ngôn ngữ và đặt nó trong
hệ thống ca dao truyền thống; thống kê các bài ca dao theo bình diện nghiên cứu để làm
sáng tỏ đặc trưng được biểu hiện.
Tất cả các phương pháp này đều được soi chiếu từ góc nhìn thi pháp học.
6. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
6.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu về thi pháp ca dao trong chương trình tiếng Việt ở Tiểu học.
6.2. Phạm vi nghiên cứu
- Chỉ giới hạn nghiên cứu các bài ca dao được đưa vào giảng dạy trong chương
trình tiếng Việt ở Tiểu học hiện nay.
7. Đóng góp của đề tài
Về mặt lý luận:
Việc thực hiện đề tài “Ca dao trong chương trình tiếng Việt Tiểu học từ góc nhìn thi
pháp” góp phần vận dụng lý thuyết thi pháp học vào nghiên cứu một thể loại văn học
dân gian trong chương trình tiếng Việt ở Tiểu học: thể loại ca dao.
Về mặt thực tiễn:
Ca dao là một thể loại khá tiêu biểu và có vị trí quan trọng trong nền văn học dân
gian của dân tộc cũng như trong đời sống xã hội. Nó là một kho tri thức độc đáo cả về
nội dung lẫn nghệ thuật. Ca dao ra đời, tồn tại qua nhiều thế hệ, gắn bó, gần gũi, thân
thiết như là máu thịt, hơi thở, nếp nghĩ của nhân dân ta. Hiện nay, đã có rất nhiều công
trình nghiên cứu với qui mô lớn nhỏ khác nhau về các vấn đề liên quan tới ca dao, đặc
biệt dựa theo quan điểm thi pháp thể loại ca dao. Tuy nhiên, hầu hết các công trình đó
chỉ nghiên cứu thi pháp ca dao từ cái nhìn khái quát chứ chưa đi sâu vào nghiên cứu thi


kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag


9 of 128.

pháp ca dao trong chương trình tiếng Việt ở nhà trường. Trong đề tài này, chúng tôi hệ
thống hoá các bài ca dao được sử dụng trong chương trình tiếng Việt ở Tiểu học, dựa
trên những quan điểm, nhận định về thi pháp ca dao để tiến hành tìm hiểu, làm sáng tỏ
một số bình diện đặc trưng của ca dao từ góc nhìn thi pháp. Từ đó, giúp giáo viên và học
sinh hiểu rõ hơn về bản chất, hình ảnh, kết cấu, ngôn ngữ... được sử dụng trong ca dao;
góp phần dạy - học tốt môn tiếng Việt; giáo dục, bồi dưỡng đạo đức, phát triển nhân
cách cho học sinh; giáo dục học sinh lòng yêu văn học dân gian nói chung và ca dao nói
riêng, góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
8. Kết cấu của đề tài nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học của đề tài.
Chương 2: Nhân vật trữ tình, hoàn cảnh điển hình, kết cấu, thể thơ lục bát của ca dao
trong chương trình tiếng Việt ở Tiểu học.
Chương 3: Hình ảnh văn học và ngôn ngữ ca dao được sử dụng trong chương trình tiếng
Việt ở Tiểu học.

NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI

Từ lâu, văn học dân gian đóng vai trò rất quan trọng trong sự hình thành và phát
triển nền văn học của dân tộc; nghĩa là sáng tác dân gian luôn là cơ sở nền tảng vững
chắc và cốt lõi của văn học thành văn, văn học viết… Việc nghiên cứu văn học dân gian
của chúng ta trong nhiều thập kỷ qua vẫn không ngừng được tiến hành và phát triển.
Một trong những đối tượng thể loại văn học dân gian nhận được nhiều sự quan quan

tâm của nhiều thế hệ các nhà khoa học và đạt được những thành tựu đáng ghi nhận, đó
là ca dao. Dựa theo đặc trưng thể loại, văn học nói chung và ca dao nói riêng được
nghiên cứu dưới nhiều góc độ quan điểm khác nhau. Trong đó hiện nay nghiên cứu văn
học dưới góc độ thi pháp học đang được quan tâm, đặc biệt là xu hướng vận dụng thi

kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag


10 of 128.

pháp học để tiến hành giảng dạy các thể loại trong nhà trường nhằm nâng cao hiệu quả
giáo dục trong dạy và học. Để có cách hiểu nhìn nhận đúng đắn hơn về vấn đề nghiên
cứu, trước tiên cần phải hiểu các khái niệm và vấn đề liên quan đến thi pháp, thi pháp ca
dao trong chương trình tiếng Việt ở Tiểu học.
1.1. Cách hiểu về thi pháp và thi pháp học
Thi pháp và thi pháp học là những thuật ngữ không còn mới mẻ với những người
học tập, nghiên cứu hoặc quan tâm đến văn học. Ngày nay, nó vẫn được xem như là lối
phê bình cơ bản trong nghiên cứu, phê bình văn học ở nước ta. Nhưng những quan
niệm, khái niệm,… của nó vẫn đang còn là vấn đề tranh luận. Nó giành cho người nghiên
cứu cả một khoảng không mênh mông để tìm tòi thêm. Với trình độ của mình, chúng tôi
không thể tự đưa ra được khái niệm của nó. Vì vậy, trên cơ sở nghiên cứu giới thuyết từ
các công trình của các nhà nghiên cứu đi trước mà chúng tôi sẽ đưa ra cách hiểu về thi
pháp và thi pháp học.
1.1.1. Thi pháp
Nói đến thi pháp là nói đến đối tượng nghiên cứu của thi pháp học, nói đến tất cả
những gì tạo nên đặc trưng về phẩm chất nghệ thuật của tác phẩm văn học. Ở nước ta
vẫn còn nhiều cách hiểu về thi pháp. Có người quan niệm thi pháp là sự tổng hợp các
thành tố của hình thức nghệ thuật trong tác phẩm ngôn từ. Có người hiểu rộng hơn, thi
pháp không chỉ bao gồm những thành tố kể trên mà còn bao gồm cả những vấn đề loại
hình, thể tài, những nguyên tắc và phương pháp phản ánh hiện thực và các phạm trù:

không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, quan niệm nghệ thuật của tác giả về thế
giới và con người. Thi pháp là cái có thật, gồm nhiều thành tố: ngôn ngữ, nhịp và vần,
kết cấu, không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, giọng điệu, biểu tượng nghệ thuật,
quan niệm nghệ thuật của tác giả về cuộc đời và con người. Tùy từng thể loại mà mỗi
yếu tố trên đậm hay nhạt trong mỗi tác phẩm. Ví dụ: truyện mạnh về cốt truyện, văn
xuôi mạnh về cấu trúc. Hiện nay chúng ta hiểu thi pháp là tổ hợp những đặc tính thẩm
mỹ - nghệ thuật và phong cách của một hiện tượng văn học, là cấu trúc bên trong của
nó, là hệ thống đặc trưng của những thành tố nghệ thuật và mối quan hệ giữa chúng.
Nhìn từ góc độ nguyên lý mỹ học, thi pháp được hiểu như là những nguyên tắc
biện pháp chung làm cho văn bản, phát ngôn, trở thành tác phẩm văn học nghệ thuật.
Theo cách tiếp cận từ phân tích phê bình, thi pháp là những nguyên tắc biện pháp nghệ
thuật cụ thể tạo thành các đặc sắc nghệ thuật của một tác phẩm, tác giả, thể loại trào
lưu...

kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag


11 of 128.

Nhìn chung, có nhiều cách hiểu khác nhau về thi pháp. Hiện nay có hai cách hiểu
khá phổ biến:
Một là: Coi thi pháp là nguyên tắc, biện pháp chung tạo ra các tác phẩm nghệ
thuật. Thông thường gọi là “phương pháp làm thơ, làm văn”. Lý thuyết mang tính chất
cổ điển, được lưu truyền nhằm bồi dưỡng nhà văn.
Hai là: Hiểu thi pháp là nguyên tắc, biện pháp sáng tạo cụ thể, tạo thành đặc sắc
nghệ thuật của một tác giả, tác phẩm, trào lưu, thể loại...
Như vậy, có thể thấy thi pháp là tất cả những gì làm nên tính độc đáo, riêng biệt về
phương diện phẩm chất nghệ thuật của tác phẩm, tác giả, thể loại...
1.1.2. Thi pháp học
Thi pháp học là một lĩnh vực nghiên cứu có ảnh hưởng lớn trong ngành nghiên cứu

văn học thế kỷ XX, tuy có cội nguồn xa xôi nhưng đã được cải tạo triệt để, mang nội
dung mới, rất đa dạng về quan niệm, phương pháp, đồng thời tự nó cũng biến đổi
nhanh chóng chưa từng thấy trong lịch sử. Theo GS. Trần Đình Sử: Thi pháp học là bộ
môn của ngành nghiên cứu văn học hướng tới nghiên cứu thi pháp. Nếu thi pháp là
nguyên tắc nằm bên trong tác phẩm văn học thì thi pháp học là khoa học dùng để phát
hiện ra, khám phá ra các nguyên tắc thi pháp ấy.
Là một môn khoa học, thi pháp học có đối tượng và phương pháp của nó. Tuy
cùng nghiên cứu tác phẩm và sáng tác thể loại văn học như lịch sử văn học, phê bình văn
học, nhưng thi pháp học chỉ chú ý trước hết tới nguyên tắc thi pháp mà thôi. Ví dụ khi
phân tích tác phẩm, đối với bài “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm, người ta nghiên
cứu chủ đề tâm lý, phân tâm học, trạng thái ẩn ức của thi sĩ... Nhưng thi pháp học tìm
hiểu tới nguyên tắc nghệ thuật, từ đó để hiểu các nội dung khác.
Theo chỉnh thể thế giới nghệ thuật, thi pháp học nghiên cứu các phạm trù thi
pháp, phản ánh các yếu tố, các thuộc tính của thế giới nghệ thuật nói chung và của thế
giới nghệ thuật cụ thể nói riêng. Các phạm trù đó là thế giới nghệ thuật, quan niệm nghệ
thuật về con người, không gian nghệ thuật, thế giới nghệ thuật, biến cố nghệ thuật,
điểm nhìn nghệ thuật, hình tượng tác giả, cốt truyện, kết cấu, nhịp điệu, giọng văn, lời
văn... Theo các loại chỉnh thể ta có thi pháp tác phẩm (Ví dụ: Thi pháp Truyện Kiều, Thi
pháp Chí Phèo,...), thi pháp tác giả (Ví dụ: Thi pháp Nguyễn Du, Thi pháp Hàn mặc Tử,
Thi pháp Nguyễn Tuân,...), thi pháp thể loại (Ví dụ như: Thi pháp tiểu thuyết, Thi pháp
thơ, Thi pháp truyện,...), thi pháp trào lưu (Ví dụ: Thi pháp chủ nghĩa hiện thực, Thi pháp

kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag


12 of 128.

chủ nghĩa lãng mạn...), thi pháp giai đoạn văn học (Ví dụ: Thi pháp văn học trung đại, Thi
pháp văn học hiện đại,...). Căn cứ theo quá trình lịch sử cho thấy thi pháp lịch sử, nghiên
cứu quá trình tiến hoá của các hình thức nghệ thuật, các biện pháp, các thể loại... Ví dụ

quá trình hình thành, biến đổi một thể thơ: thơ lục bát, thơ song thất lục bát, thơ tự
do... hoặc của tiểu thuyết.v.v... Tương tự như vậy, nếu xem xét về mặt lý thuyết, thi
pháp học đảm nhiệm việc nghiên cứu cấu trúc của thế giới nghệ thuật, xem nó gồm
những yếu tố nào, cách phân xuất văn bản nghệ thuật ra sao, định rõ nội hàm của các
phạm trù lý thuyết thi pháp để dùng nó làm công cụ nghiên cứu các thi pháp cụ thể. Với
đặc trưng bộ môn của mình, thi pháp học tiến hành nghiên cứu nhiều thể loại trong các
thời kỳ văn học khác nhau như thi pháp văn học trung đại, thi pháp văn học hiện đại, thi
pháp văn học dân gian.
1.1.3. Thi pháp văn học dân gian
Hiện nay nhiều nhà nghiên cứu xem ý kiến của ông Chu Xuân Diên như một định
nghĩa. Theo Chu Xuân Diên: “Thi pháp văn học dân gian là toàn bộ những đặc điểm về
hình thức nghệ thuật, về phương thức và thủ thuật miêu tả, biểu hiện, về cách cấu tạo
đề tài, cốt truyện và phương pháp xây dựng hình tượng con người” [2, tr.39].
Từ ý kiến trên ông còn nêu những bình diện nghiên cứu cụ thể của việc nghiên cứu
thi pháp Văn học dân gian bao gồm từ việc khảo sát những yếu tố thi pháp riêng lẻ như
phép so sánh thơ ca, các biểu tượng và luật thơ, các mô típ và cấu tạo cốt truyện, cách
mô tả diện mạo bên ngoài và tâm lý bên trong của nhân vật,... đến việc khảo sát những
đặc điểm thi pháp chung của từng thể loại; và những đặc điểm dân tộc của thi pháp Văn
học dân gian nói chung,...
Đối tượng khảo sát của hướng nghiên cứu thi pháp văn học dân gian là khá đa
dạng, thuộc nhiều bình diện khác nhau. Người nghiên cứu thi pháp văn học dân gian
không chỉ nghiên cứu trên văn bản chữ viết của tác phẩm Văn học dân gian đã được sưu
tầm, ghi chép và cố định mà còn cả trong quá trình diễn xướng, lưu truyền bằng ngôn
bản lời nói. Đó mới là hướng nghiên cứu bám sát đặc trưng riêng của văn học dân gian
và là hướng nghiên cứu có hiệu quả cao. Từ định nghĩa và hướng nghiên cứu thi pháp
Văn học dân gian nêu trên, ông còn xác lập hệ thống thi pháp của bộ phận văn học này.
Nói chung chúng ta có thể nghiên cứu Văn học dân gian dưới nhiều cấp độ khác nhau
với những lưu ý đặc trưng của Văn học dân gian, đó là: Cấp độ thành tố của từng thể
loại như ngôn ngữ, thể thơ, nhân vật, kết cấu, thời gian, không gian nghệ thuật,...; Cấp
độ tác phẩm; Cấp độ gồm những nhóm tác phẩm gồm những bài ca đám cưới, truyện


kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag


13 of 128.

cười kết chuỗi, những truyện về một loại nhân vật nào đó,...; Cấp độ loại hình như thi
pháp thơ ca dân gian, thi pháp truyện kể dân gian,... Cấp độ thể loại như thi pháp ca
dao, tục ngữ, thi pháp truyện cổ tích,...; Và thi pháp ca dao là đối tượng mà đề tài khảo
sát.
1.2. Cách hiểu về ca dao, phân biệt ca dao và các thể loại gần gũi
Bên cạnh tục ngữ, ca dao là một thể loại đang nhận được nhiều quan tâm. Cho
đến nay vẫn còn nhiều vấn đề phải tranh cãi, như: khái niệm, các thể loại văn học gần
gũi dễ gây nhầm lẫn,... Dưới đây, chúng tôi xin khái quát cách hiểu về các vấn đề đó như
sau:
1.2.1. Ca dao
Trong kho tàng văn học dân tộc nói chung và văn học dân gian nói riêng, ca dao là
thể loại độc đáo. Ca dao Việt Nam đã làm giàu thêm, phong phú hơn cho nền văn học
Việt Nam và nền văn học thế giới cả về số lượng lẫn chất lượng. Ca dao Việt Nam thể
hiện cách nhìn, quan niệm, tình cảm của con người Việt Nam về cuộc sống, về con
người, về cách đối nhân xử thế của con người trong xã hội.
Có thể nói, ca dao là một tấm gương tốt để chúng ta soi mình vào đó, để tắm mình
trong những nét đẹp giản đơn, mộc mạc, thuần khiết mà không lạc hậu, quê mùa. Ca
dao là nơi để người Việt Nam thể hiện tâm tư, tình cảm của mình. Ca dao Việt Nam từ
xưa đã được nhân dân ta sáng tạo, lưu truyền và phát triển cho đến ngày hôm nay. Nó
thể hiện cái hay, cái đẹp truyền thống của nhân dân ta trong lao động, sinh hoạt, trong
các hoạt động văn hoá xã hội, giao tiếp... Đồng thời ca dao là tài sản tinh thần vô giá của
dân tộc Việt Nam. Ca dao và dân ca là có quan hệ với nhau rất mật thiết. Rất nhiều
người nhầm lẫn giữa ca dao và dân ca, có người cho rằng ca dao và dân ca là một. Bàn
luận về điều này có rất nhiều ý kiến khác nhau. Rất nhiều nhà nghiên cứu văn học nói

chung và văn học Việt Nam nói riêng đã đưa ra một số khái niệm về ca dao. Xin điểm
qua quan điểm về khái niệm của ca dao như sau:
Có ý kiến cho rằng: ca dao (ca: bài hát thành chương khúc; dao là bài hát ngắn,
không thành chương khúc) là những câu hát theo giọng điệu tự nhiên lưu hành trong
dân gian, thường diễn tả ý nghĩ, tình cảm, nếp sống của đại chúng bình dân. Ca dao còn
được gọi là phong dao (“phong” là phong tục). Người xưa cho rằng, qua ca dao có thể
nhận biết phong tục tốt, xấu của một xứ, một vùng.

kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag


14 of 128.

Trong quyển Việt Nam văn học sử yếu, Dương Quảng Hàm đã giải thích khái niệm
ca dao: “Ca dao là những bài hát ngắn, không có chương khúc...” [4, tr.20].
Cũng bàn về khái niệm ca dao, trong Lịch sử văn học Việt Nam (tập 2) của tập thể
tác giả, Bùi Văn Nguyên (chủ biên) đã nêu: “Ca dao là những bài hát có hoặc không có
chương khúc, sáng tác bằng thể văn vần của dân tộc (thường là thể lục bát) để miêu tả,
tự sự, ngụ ý và diễn đạt tình cảm” [16, tr.38].
Theo Vũ Ngọc Phan, khi phân biệt giữa ca dao và dân ca cũng đã giải thích: “Ca dao
là một loại thơ dân gian, có thể ngâm được như loại thơ khác” [18, tr.42].
Mã Giang Lân cho rằng: “Ca dao là một thể loại trữ tình của văn học dân gian” [13,
tr.9].
Theo Đỗ Bình Trị - Trần Đình Sử trong cuốn “Văn học - Giáo trình đào tạo giáo viên
Tiểu học hệ Cao đẳng sư phạm và sư phạm 12+2” (tập 2) đã cho rằng: Ca dao theo nghĩa
rộng là một khái niệm bao hàm ba yếu tố gắn bó chặt chẽ với nhau, là:
- Lối hát (tức là hình thức sinh hoạt ca hát hay phương thức diễn xướng): có hát
trong lễ hội và hát trong ngày thường (hát trong sinh hoạt, hát (hò) trong lao động,...);
có hát trơn và hát kèm theo khí nhạc, kèm theo múa, kèm theo trò chơi; có hát cuộc
(hát lề lối) và hát vặt; có hát theo “bọn” (tập thể) và hát một người;....

- Điệu hát (tức là làn điệu nhạc của những câu hát): bao gồm cả một hệ thống
phong phú, từ những điệu hát mộc mạc như hát - nói, kể,... (gần như cách “đọc toàn âm
tự nhiên”) đến những điệu hát đã đạt đến trình độ kết tinh cao (đã thành giai điệu) như
lý, hò, hát,...
- Lời hát (tức là lời ca đã tước bốn tiếng đệm, tiếng láy, tiếng đưa hơi,...) lời của ca
dao chính là thơ, là thứ thơ đích thực; cùng với thể loại khác như vè (bao gồm cả đồng
dao) và truyện thơ dân gian, nó được xếp vào nền thơ ca dân tộc dưới cái tên chung là
thơ ca dân gian... [32, tr.257- 258].
Ở trên, tác giả đã nêu quan niệm ca dao theo nghĩa rộng. Vậy phải chăng còn có
thể hiểu theo nghĩa hẹp nữa, ở đó có sự phân biệt hai thuật ngữ ca dao và dân ca, ít
nhiều cần và có thể đặt ra ?
Còn theo Nguyễn Xuân Kính: Ca dao, dân ca là những thuật ngữ Hán - Việt, được
giới Văn học dân gian và âm nhạc dân gian sử dụng để chỉ đối tượng là những bài ca và
hình thức ca hát truyền thống do nhân dân sáng tác, diễn xướng và lưu hành trong nhân

kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag


15 of 128.

dân từ bao đời nay. Thuật ngữ ca dao và dân ca có khi được sử dụng song hành để chỉ
sự gắn bó, mật thiết giữa hai đối tượng ca dao và dân ca; Khi được tách riêng, ca dao
dùng để chỉ bộ phận lời thơ dân gian{bộ phận lời có hai phần: lời ca mang nội dung
chính và phần lời vô nghĩa (tiếng láy, tiếng đưa hơi)} và dân ca dùng để chỉ chỉnh thể
một loại hình ca hát diễn xướng có nhạc điệu và lời ca trong các bài hát dân gian. Do quá
trình sưu tầm, ghi chép thành văn bản của các nhà sưu tầm, nghiên cứu mà lời bài hát
được tách ra khỏi làn điệu âm nhạc và loại bỏ luôn cả các yếu tố khác của dân ca. Bộ
phận lời thơ này lúc đầu được gọi là phong giao hoặc phong sử, về sau được gọi là ca
dao.
Những định nghĩa về ca dao càng về sau càng đầy đủ, nêu lên được những tính

chất vốn có của thể loại. Điều đó cho thấy các nhà nghiên cứu văn học dân gian đã khám
phá ra nhiều đặc trưng mang tính khu biệt, từ đó cho chúng ta cái nhìn đúng đắn hơn về
ca dao. Do chưa thống nhất khi nghiên cứu thể loại ca dao, các nhà nghiên cứu đứng
trên nhiều góc độ khác nhau nên cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất về khái niệm
ca dao. Tuy nhiên, theo cách lí giải của Đỗ Bình Trị - Trần Đình Sử và Nguyễn Xuân Kính,
có thể đưa ra cách hiểu về ca dao: Ca dao là bộ phận chủ yếu và có vai trò quan trọng
nhất của thơ dân gian, là loại thơ truyền thống có phong cách riêng, được hình thành và
phát triển trên cơ sở thành phần nghệ thuật ngôn từ trong các loại dân ca ngắn và đối
tượng ngắn. Hay nói một cách dễ hiểu hơn: Ca dao là phần lớn phần lời được rút ra từ
các bài hát dân gian và các bài thơ dân gian.
1.2.2. Phân biệt ca dao với các thể loại gần gũi
Trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu ca dao Việt Nam, muốn hiểu được khái
niệm cũng như những biểu hiện cụ thể của nó, ngoài việc chỉ ra được các dấu hiệu đặc
trưng của nó, chúng ta phải đặt nó trong mối tương quan với các sản phẩm ngôn từ
khác có liên quan để thấy được những nét tương đồng cũng như khác biệt giữa chúng.
Những sản phẩm ngôn từ có liên quan rất dễ nhầm lẫn với ca dao là tục ngữ và dân ca.
Trong thực tiễn nghiên cứu, việc phân định ranh giới giữa các thể loại không phải là điều
dễ dàng. Để đưa ra các tiêu chí nhận diện ca dao, chúng ta phải xét nó trong mối quan
hệ tương quan với hai thể loại văn học khác, đó là: dân ca và tục ngữ.
a. Ca dao và dân ca
Trong “Lối đối đáp trong ca dao trữ tình” khi chỉ ra mối quan hệ giữa ca dao và dân
ca Việt Nam, Cao Huy Đỉnh đã giải thích: “Ngày xưa, phần lớn ca dao trữ tình làm ra để
hát. Rồi từ những bài hát có những câu tách ra thành ca dao. Ca dao sinh ra, còn lại,

kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag


16 of 128.

truyền đi và biến đổi chủ yếu thông qua sinh hoạt dân ca. Chính vì vậy mà trên phần lớn

ca dao trữ tình còn in đậm rất rõ dấu ấn của dân ca...” [3, tr.17].
Theo Vũ Ngọc Phan: “Ca dao là một loại thơ dân gian có thể ngâm được như các
loại thơ khác và có thể xây dựng thành các giai điệu dân ca”. Còn “Dân ca là câu hát đã
thành khúc điệu. Dân ca là những bài hát có nhạc điệu nhất, nó ngả về nhạc nhiều ở mặt
hình thức” [18, tr.43].
Khi phân biệt ca dao và dân ca, PGS.TS Đặng Văn Lung cho rằng: Các cụ ngày xưa
có nói bỏ ca đi thì còn lại dao, có nghĩa là ca dao và dân ca ra đời cùng một lúc. Nhưng
không phải tất cả câu hát của dân ca là ca dao. Đi sâu vào nghiên cứu thì thấy dân ca
phát triển rất nhiều, còn ca dao chỉ có một số chức năng nhất định.
Khi phân biệt ca dao và dân ca, Chu Xuân Diên dựa vào các tiêu chí chức năng:
(a). Nếu xét dân ca Việt Nam với tư cách là những tác phẩm kết hợp chặt chẽ các
phương diện nghệ thuật âm thanh, nhịp điệu và ngôn ngữ, được diễn xướng trong một
số sinh hoạt ca hát nhất định thì việc phân loại chủ yếu gắn liền với dân ca.
(b). Nếu xét dân ca Việt Nam với tư cách là những tác phẩm ngôn ngữ, đặc biệt là
khi được ghi lại bằng văn tự thì việc phân loại căn cứ vào đối tượng phản ánh của tác
phẩm. Trong trường hợp này nó là ca dao.
Ca dao được thể hiện dưới những câu lục bát ngắn, hàm súc, là những lời thơ dân
gian. Ca dao người Việt thường được cấu tạo bằng hai câu lục bát, một thể thơ rất âm
điệu tiếng Việt. Khi có nhiều câu ca dao kết hợp thành một đoạn ngắn và kết hợp với
những thể thức hát nhất định nữa thì thành ca dao. Theo Chim Văn Bé, ca dao và dân ca
khác nhau như sau: Dân ca là những bài hát của dân gian, là những chỉnh thể nghệ thuật
với sự gắn bó máu thịt giữa ca từ, làn điệu, giai điệu, gắn liền với môi trường diễn xướng
cụ thể. Còn Ca dao là văn bản nghệ thuật, không mang làn điệu và giai điệu về âm nhạc
và không gắn bó trực tiếp với môi trường diễn xướng, được lưu truyền phổ biến bằng
hình thức ngâm, đọc. Tóm lại, ca dao và dân ca đều có cùng một nghĩa, đó là: “những
câu hát (bài hát) dân gian”. Chúng là những thuật ngữ hoàn toàn tương đương. Nói rõ
hơn, ca dao là văn bản nghệ thuật phát sinh từ ca từ của dân ca khi tiếng đệm, tiếng láy
bị lược bỏ. Nhưng không phải bài dân ca nào cũng trở thành ca dao.
Như vậy, điểm khác biệt rõ nhất của ca dao và dân ca là ở chỗ: ca dao là một thể
loại được sáng tạo trên cơ sở hình thức thơ lục bát, còn dân ca là lời ca ngắn có giai


kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag


17 of 128.

điệu. Vì vậy dân ca thường được nghiên cứu trên phương diện văn hoá nghệ thuật, còn
ca dao có thể được nghiên cứu trên nhiều phương diện: văn học, ngôn ngữ học...
b. Ca dao và tục ngữ
So sánh về đặc tính của ca dao và tục ngữ, nhà nghiên cứu Hoa Bằng đã cho rằng:
Đặc tính của tục ngữ là đem những điều kinh nghiệm về thời tiết, về nhân sự, về thế
thái, về tục tình, về cách xử lý, về phương tiếp vật mà nêu lên những bài học thuộc
phạm vi nhân cách,... tuỳ theo trình độ và hoàn cảnh thời đại. Đặc tính của ca dao là
khoác hình thức văn chương bình dị và thiết thực mà trau dồi cái ý bóng bẩy, tư tưởng
thâm trầm, khiến cho người nghe dễ lĩnh hội vì lời văn nhẹ nhàng, giản dị, tiện ghi
nhớ....
Xét về ngôn ngữ học, Nguyễn Xuân Kính trong “Thi pháp ca dao” cho rằng: “Tục
ngữ là những đơn vị thông báo, là những câu đơn hoặc câu ghép, là một hay nhiều phán
đoán” [11, tr.47], “Ca dao thường được sáng tác theo thể lục bát” [11, tr.49].
Về mặt hình thức ngôn ngữ, Mã Giang Lân đã nêu: “Ở tục ngữ tư tưởng thường
được biểu hiện qua hình thức ngôn ngữ ngắn gọn. Ở ca dao, tư tưởng và tình cảm một
mặt được cô đúc dưới hình thức ngôn ngữ vững chắc và mặt khác còn được diễn đạt
trong sự vận động phong phú và đa dạng của ngôn ngữ học”. Ông còn nói rõ hơn:
“Thông qua việc sáng tác ca dao, nhân dân đã đưa ngôn ngữ văn học đến trình độ nghệ
thuật cao” [13, tr.14].
Xét về cả hai mặt nội dung và hình thức, căn cứ vào thời gian xuất hiện, Vũ Ngọc
Phan cho rằng Tục ngữ là một thể loại văn học dân gian đã phát triển trước ca dao. Ông
đưa ra lý do của nhận định như sau: “Tục ngữ là những câu ngắn, có câu chỉ là một lời
nói xuôi tai, không vần vè. Còn ca dao, ngay ở những bài được coi là cổ thì nhạc điệu
cũng đã rất phong phú, lời rất vững chắc, biểu hiện những diễn biến, tiến sâu theo nhiều

cung bậc” [18, tr.53].
Bàn về sự khác nhau giữa ca dao và tục ngữ, Mã Giang Lân đã đưa ra nhận xét:
“Nếu như tục ngữ thiên về lý trí, đúc kết kinh nghiệm về cuộc sống thì ca dao lại thiên về
tình cảm (nội dung trữ tình)” [13, tr.7].
Mã Giang Lân khi bàn về đặc điểm chất thơ được thể hiện trong ca dao và tục ngữ,
trong cuốn Tục ngữ - ca dao Việt Nam, ông đã nêu: “... Tục ngữ cũng là một dạng thơ.
Tuy nhiên, chất thơ có thể thấy một cách đầy đủ, toàn diện trong ca dao. Sỡ dĩ như thế

kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag


18 of 128.

một phần là vì trong ca dao hiện thực được phản ánh một cách cô đúc hơn trong ngôn
ngữ hằng ngày” [13, tr.8].
Trên phương diện môi trường giao tiếp, Nguyễn Xuân Kính còn đưa ra tiêu chí
phân biệt: “Trong hoạt động sinh hoạt văn hoá, ca dao là những lời thơ dân gian được
dùng để hát, để ngâm. Tục ngữ được dùng trong khi nói. Trong hoạt động nói năng, mỗi
câu tục ngữ là một câu nói đặc biệt được dùng xen vào giữa những câu nói bình thường
khác” [11, tr.50].
Trên đây là một số quan điểm nghiên cứu và kiến giải về ca dao Việt Nam của
những nhà nghiên cứu tiêu biểu. Do đứng trên những lập trường nhìn nhận khác nhau
nên những kiến giải của các nhà nghiên cứu có khi còn chưa nhất quán.
Ngoài các sản phẩm ngôn từ dân gian được thể hiện ngắn gọn trên một dòng có
nội dung đúc kết kinh nghiệm đời sống, ta có thể dễ dàng nhận diện đó là tục ngữ. Thì
bên cạnh đó, có những trường hợp tục ngữ và ca dao giao thoa, xâm nhập lẫn nhau thì
ta rất khó khăn trong việc nhận diện, phân biệt hai thể loại. Điều này cũng được một số
nhà nghiên cứu lưu ý: “Nhưng thực ra giữa hai thể loại tục ngữ và ca dao không phải là
không có những trường hợp xâm nhập lẫn nhau. Trong ca dao cũng có xen tục ngữ và
cũng có những câu ca dao chỉ có hình thức ca dao còn nội dung là tục ngữ” [13, tr.9].

Đặc biệt, có những bài ca dao nêu lên những nhận định về con người, xã hội nên
chúng mang dáng dấp tục ngữ. Mã Giang Lân cũng đã đề cập tới vấn đề này: “Do nội
dung cô đọng, hàm súc, nhiều câu ca dao, chủ yếu là những câu ca dao nhận định về con
người và việc đời thì ca dao lại được dùng như tục ngữ” [13, tr.9].
Ví dụ:
Gánh cực mà đổ lên non,
Còng lưng mà chạy, cực còn theo sau.
Nói chung, việc phân định ranh giới giữa ca dao và tục ngữ không phải là một việc
dễ dàng. Nhưng theo cách hiểu thông thường ta có thể phân biệt ca dao và tục ngữ ở
chỗ: “Tục ngữ thiên về lý trí, tục ngữ cung cấp cho người nghe những triết lý dân gian,
tri thức dân gian. Ca dao thiên về tình cảm, có nội dung trữ tình dân gian” [11, tr.50].
1.3. Thi pháp ca dao

kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag


19 of 128.

Ở nước ta, thi pháp ca dao được miêu tả sớm và kỹ hơn cả so với các thể loại khác.
Thi pháp ca dao là gồm các tổng thể các yếu tố thuộc về hình thức và thủ pháp nghệ
thuật mà các tác phẩm thuộc cùng một thể loại thống nhất cùng sử dụng. Những yếu tố
đó đã trở thành truyền thống, tạo ra phong cách chung của ca dao. Đồng thời, có khả
năng biến hoá đem lại cho hình thức nghệ thuật ca dao những sức biểu đạt phong phú
khiến ca dao trẻ mãi và còn sống mãi.
Cụ thể, các nhà nghiên cứu đã đề cập đến các yếu tố sau:
- Thể thơ và cách sử dụng các thể thơ hết sức điêu luyện, diễn tả một nội dung
cảm nghĩ, mọi sắc thái tình cảm bao gồm: thể thơ lục bát và lục bát biến thể, song thất
lục bát và song thất lục bát biến thể, thể thơ tổng hợp. (Ngoài ra trong ca dao còn có thể
thơ khác như văn vần, thể vãn). Trong đó, thể thơ lục bát chiếm một khối lượng lớn và
trở thành thể thơ tiêu biểu nhất trong ca dao.

- Lối trữ tình trò chuyện và các kiểu câu từ gắn liền với nó như “những bài hát ru”.
- Kết cấu của ca dao ngắn gọn, cô động.
- Những cách phô diễn tình tứ.
- Thủ pháp nghệ thuật bao gồm các thủ pháp xây dựng hình tượng nhân vật, cấu
tạo hình ảnh và các chi tiết nghệ thuật biểu đạt thời gian, không gian.
- Cách sử dụng ngôn ngữ giản dị, trong sáng, sinh động, gần với lời nói đời thường
và mang đậm tính khẩu ngữ. Tư tưởng tình cảm được bộc lộ một cách trực tiếp thông
qua lời nói, câu chữ trong ca dao.
- Phương thức diễn xướng gắn liền với các hình thức nghệ thuật của dân ca (hát,
hát ru, hò đối đáp,..).
1.4. Ca dao trong chương trình tiếng Việt Tiểu học.
1.4.1. Chương trình tiếng Việt ở Tiểu học
Nội dung chương trình tiếng Việt ở Tiểu học gồm những bộ phận sau:
- Kỹ năng sử dụng tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết).
- Tri thức tiếng Việt (Một số hiểu biết cơ bản về ngữ âm, chính tả, ngữ nghĩa...).

kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag


20 of 128.

- Tri thức về văn học, xã hội và tự nhiên (Một số hiểu biết cơ bản về sáng tác văn
học và cách tiếp cận chúng, về con người với đời sống tinh thần và vật chất của họ, về
đất nước và dân tộc Việt Nam...).
Nội dung này được sắp xếp theo hai giai đoạn phát triển:
Giai đoạn 1 (các lớp 1, 2, 3): nội dung dạy học có nhiệm vụ hình thành những cơ sở
ban đầu cho việc học đọc, học viết, định hướng việc học nghe, học nói trên cơ sở vốn
tiếng Việt mà các em đã có. Học đọc, học viết có vị trí rất quan trọng ở giai đoạn này.
Giai đoạn 2 (các lớp 4, 5): nội dung chương trình nhằm phát triển kỹ năng đọc,
viết, nghe, nói ở mức độ cao hơn. Trong đó yêu cầu đọc hiểu và viết một đoạn văn bản

hoàn chỉnh được đặc biệt coi trọng.
Chương trình tiếng Việt ở Tiểu học sau năm 2000 mỗi năm học 35 tuần lễ. Nó gồm
8 phân môn. Cụ thể:
- Chương trình Học vần (chủ yếu ở lớp 1): được học trong tuần, bao gồm 103 bài
ứng với 206 tiết dạy, được phân bố trong hai tập sách: 83 bài thuộc tập 1 và 20 bài
thuộc tập 2. Có thể chia nội dung dạy học học vần làm 3 phần: Phần thứ nhất nhất (6 bài
đầu) có nội dung làm quen với e, b, các dấu thanh; Phần thứ 2 gồm 25 bài tiếp theo
dành cho các chữ cái và âm; Phần thứ 3 gồm 72 bài giới thiệu các vần phức tạp và các
tiếng có vần phức tạp dần.
Phân môn Học vần nhằm trang bị cho học sinh cả 4 kỹ năng nhge, nói, đọc, viết.
Phát triển vốn từ cho học sinh, tập cho các em viết đúng mẫu các câu ngắn, bồi dưỡng
lòng ham thích thơ văn cho các em. Ngoài ra, học vần còn làm giàu vốn hiểu biết về tự
nhiên, xã hội cho học sinh; giáo dục nhân cách, tình cảm, tâm hồn, đạo đức cho các em.
- Chương trình Tập đọc: Từ năm 2000 - 2003, chương trình tiếng Việt 2000 (còn
gọi là chương trình 175 tuần) không kể những tuần ôn tập dành cho 5 lớp Tiểu học gồm
42 bài Tập đọc ở lớp 1 và 365,5 tiết Tập đọc ở lớp 2, 3, 4, 5. Ở lớp 1 Tập đọc được học từ
tuần 23. Từ lớp 2 đến lớp 5 Tập đọc được học 31 tuần (không kể những tuần ôn tập). Ở
lớp 2 mỗi tuần có 4 tiết (3 bài) và ở lớp 3 mỗi tuần có 3,5 tiết (3 bài), ở lớp 4 và lớp 5
mỗi tuần có 2 tiết.
Tập đọc là một phân môn thực hành, có nhiệm vụ hình thành năng lực đọc cho
học sinh (đọc đúng, đọc nhanh, đọc diễn cảm). Giáo dục lòng ham đọc sách, hình thành
phương pháp và thói quen làm việc với văn bản, làm việc với sách cho học sinh. Làm

kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag


21 of 128.

giàu kiến thức ngôn ngữ, đời sống và kiến thức văn học cho học sinh. Phát triển ngôn
ngữ và tư duy cho học sinh. Giáo dục tư tưởng, đạo đức, tình cảm, thị hiếu thẩm mỹ cho

học sinh.
- Chương trình kể chuyện: Kể chuyện được dạy ở tất cả các lớp ở bậc Tiểu học và
được phân bố cụ thể như sau:
+ Ở lớp 1: Trong học phần Học vần chưa có giờ Kể chuyện riêng, nhưng từ phần
Luyện tập tổng hợp (bắt đầu từ tuần 23), mỗi tuần có 1 tiết Kể chuyện.
+ Ở lớp 2: Mỗi tuần có 1 tiết Kể chuyện.
+ Ở lớp 3: Mỗi tuần có 0,5 tiết Kể chuyện học chung trong 1 tiết với bài Tập đọc.
+ Ở lớp 4, 5: Mỗi tuần có một tiết Kể chuyện.
Phân môn Kể chuyện nhằm phát triển các kỹ năng tiếng Việt cho học sinh; góp
phần phát triển tư duy, đặc biệt là tư duy hình tượng và cảm xúc thẩm mỹ; góp phần
tích luỹ vốn sống, vốn văn cho học sinh.
- Chương trình Tập viết: Được bố trí trong 6 học kỳ ở lớp 1, 2, 3. Ở lớp 1 chương
trình Tập viết được gắn liền với chương trình Học vần. Ngoài nội dung Tập viết trong tiết
Học vần, mỗi tuần còn có thêm 1 bài Tập viết ôn lại các chữ đã học trong tuần. Chương
trình lớp 2 chủ yếu làm quen với chữ cái hoa và chữ số. Chương trình lớp 3 chủ yếu học
chữ cái hoa và chữ cái thường đứng sau và kết hợp học về chữ số. Các chữ viết hoa
trong vở Tập viết lớp 2, lớp 3 được sắp xếp theo trật tự trong bảng chữ cái.
Phân môn Tập viết ở Tiểu học cung cấp cho học sinh các kiến thức về chữ viết và
kỹ thuật viết chữ như: các nét chữ, hệ thống chữ cái viết hoa và viết thường, hệ thống
chữ số, độ cao, độ rộng của nét chữ, điểm đặt bút, điểm dừng bút, kỹ thuật viết liền
mạch, vị trí dấu phụ, dấu thanh... Phân môn Tập viết cũng trang bị cho học sinh hệ thống
kỹ năng viết chữ như: viết nét, liên kết nét thành chữ cái, chữ số, liên kết chữ cái thành
chữ ghi âm, ghi vần hoặc ghi tiếng một cách liền mạch. Ở mức độ cao nhất, Phân môn
Tập viết rèn kỹ năng viết chữ cho học sinh qua bài viết ứng dụng là các câu thơ, câu văn
hoặc tục ngữ, ca dao. Yêu cầu kỹ năng dần dần được nâng cao từ viết đúng tới viết
đúng, đẹp và mức độ cao nhất là kỹ năng viết đúng, đẹp, nhanh.
- Chương trình Tập làm văn:

kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag



22 of 128.

+ Ở lớp 1 chưa có tiết Tập làm văn cũng như chưa có phân môn Tập làm văn riêng
nhưng kỹ năng nói được hình thành cho học sinh một cách tích hợp thông qua bước
luyện nói của giờ Học vần và phần luyện nói sau bài Tập đọc.
+ Ở lớp 2 và lớp 3 mỗi tuần có 1 tiết Tập làm văn, ở lớp 4 và lớp 5 mỗi tuần có 2
tiết (không kể các tuần ôn tập). Ở lớp 2 và lớp 3 các kỹ năng nói, viết chỉ được hình
thành thông qua các bài tập thực hành. Ngoài các bài tập thực hành, ở lớp 4 và lớp 5
còn có các kiến thức lý thuyết được học thành bài riêng. Đó là các kiến thức về thể loại
văn chương như kể chuyện, miêu tả, các loại văn bản khác như viết thư, trao đổi ý kiến.
Phân môn Tập làm văn có nhiệm vụ giúp học sinh tạo ra được các ngôn bản nói và
viết theo các phong cách khác nhau do chương trình quy định. Phân môn Tập làm văn
góp phần rèn luyện tư duy hình tượng, từ óc quan sát đến trí tưởng tượng, từ khả năng
tái hiện các chi tiết đã quan sát được đến việc nhào nặn các chất liệu trong đời sống
thực để xây dựng nhân vật, cốt truyện. Khả năng tư duy của học sinh cũng được phát
triển trong quá trình phân tích đề, lập dàn ý, viết đoạn... Quá trình sản sinh văn bản
cũng giúp cho học sinh có kỹ năng phân tích, tổng hợp, phân loại, lựa chọn.
- Chương trình Luyện từ và câu:
+ Ở lớp 1 chưa có tiết Luyện từ và câu, ở lớp 2 và lớp 3 mỗi tuần có 1 tiết, ở lớp 4
và lớp 5 có 2 tiết mỗi tuần (chưa kể các tuần ôn tập).
+ Phân môn Luyện từ và câu có nhiệm vụ làm giàu vốn từ cho học sinh và trang bị
cho các em một số kiến thức về từ, câu. Cung cấp cho học sinh một số kiến thức ngữ
âm, chính tả như tiếng, cấu tạo tiếng... Chương trình Luyện từ và câu ở lớp 2, 3 chỉ trình
bày các kiến thức cần làm quen và nhận biết chúng thông qua các bài tập thực hành. Ở
lớp 4 và lớp 5 các kiến thức lý thuyết được học thành tiết riêng. Đó là các nội dung như
từ và cấu tạo từ, các lớp từ (đồng nghĩa, trái nghĩa, đồng âm, nhiều nghĩa), từ loại, câu,
các kiểu câu, thành phần câu, dấu câu, biện pháp liên kết câu. Ngoài ra, chương trình
còn cung cấp cho học sinh một số kiến thức ngữ âm, chính tả như tiếng, cấu tạo tiếng.
1.4.2. Ca dao được sử dụng trong chương trình tiếng Việt ở Tiểu học

Trong chương trình tiếng Việt ở Tiểu học 39 bài ca dao được đưa vào giảng dạy từ
lớp 1 đến từ lớp 5. Các câu ca dao được đưa vào giảng dạy cho học sinh trong các phân
môn Tập viết, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập đọc và được chia làm hai giai đoạn:

kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag


23 of 128.

- Ở lớp 1, 2, 3: Giai đoạn này học sinh được tiếp cận các bài ca dao chủ yếu trong
phân môn học vần (ở lớp 1) và qua các bài ca dao chủ yếu trong hai phân môn Tập viết
và Chính tả (ở lớp 2, 3).
+ Phân môn Học vần: Yêu cầu học sinh luyện đọc các câu ứng dụng.
Ví dụ: Khi dạy bài 85 ở sách tiếng Việt 1, sau khi dạy vần mới “ăp – âp” cho học
sinh giáo viên tổ chức cho học sinh luyện đọc câu ứng dụng theo mẫu có sẵn:

Chuồn chuồn bay thấp
Mưa ngập bờ ao
Chuồn chuồn bay cao
Mưa rào lại tạnh
(Tiếng Việt 1, tập 1/Trang 113)
Với bài ca dao trong phần luyện đọc này, học sinh không cần phải hiểu nội dung
hay hình thức nghệ thuật của nó mà chỉ yêu cầu học sinh thông qua phần luyện đọc bài
ca dao đó để phát hiện ra các âm mà mình vừa được học. Bên cạnh đó, bài ca dao trên
vừa ngắn, lại có vần nên học sinh rất dễ đọc, kích thích hứng thú học tập của học sinh,
góp phần đem lại hiệu quả trong việc rèn luyện khẩu hình miệng và phát triển ngôn ngữ
cho các em.
+ Phân môn Tập viết: Yêu cầu học sinh luyện viết lại bài ca dao đã có sẵn theo
mẫu.
Ví dụ: Ở phần 2, trong phân môn Tập viết của sách giáo khoa tiếng Việt 3, học sinh

có nhiệm vụ là phải luyện viết lại bài ca dao ứng dụng:
Ai về đến huyện Đông Anh
Ghé xem phong cảnh Loa Thành Thục Vương
(Tiếng Việt 3, tập 1/Trang 90)

kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag


24 of 128.

Thông qua bài ca dao, học sinh rèn luyện một số mẫu chữ viết hoa với các địa
danh, tên riêng có trong bài ca dao. Qua đó, giúp học sinh có thêm những kiến thức cơ
bản về chữ viết và kĩ thuật viết chữ, rèn luyện kĩ năng viết chữ, tạo điều kiện học tốt các
môn học. Ngoài ra, chính bản thân những chữ cái trong bài ca dao cũng toát lên nét đẹp
riêng, các chữ cái với những đường cong, những nét chữ mềm mại, uyển chuyển sẽ tác
động tích cực đến tư tưởng thẩm mỹ của học sinh, góp phần bồi dưỡng thị hiếu thẩm
mỹ cho các em.
+ Phân môn Chính tả: Gồm các bài tập trong đó có các bài ca dao được đưa ra bị
khuyết âm, vần hoặc dấu hỏi, dấu ngã và yêu cầu học sinh điền vào chỗ bị khuyết các
âm, vần hoặc dấu hỏi, ngã cho đúng, phù hợp.
Ví dụ: Bài tập 2a trong phân môn Chính tả lớp 3 (tập 1) trang 137: Điền vào chỗ
trống tr hay ch ?
Công …a như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước …ong nguồn …ảy ra
Một lòng thờ mẹ kính …a
Cho …òn …ữ hiếu mới là đạo con
Với dạng bài tập khuyết âm ch hoặc tr, học sinh phải tìm ra âm thích hợp điền vào
mỗi chỗ khuyết để tạo nên từ đúng và câu hoàn chỉnh. Với một từ được coi là “đắt”,
làm rõ ý cho bài ca dao, đó là từ “hiếu”. Ở trong bài ca dao này, học sinh tìm ra những
âm còn thiếu, điền vào chỗ trống để tạo thành từ hoàn chỉnh. Qua đó, giúp các em khắc

phục lỗi chính tả khi đọc, khi viết và dần phát triển các kĩ năng cần thiết. Ngoài ra, các
em có cơ hội trau dồi thêm vốn từ, cách đặt câu đúng và khoa học, góp phần giữ gìn sự
trong sáng của tiếng Việt.
- Ở lớp 4, 5: Giai đoạn này học sinh tiếp cận ca dao chủ yếu trong phân môn Luyện
từ và câu và phân môn Tập đọc.
+ Phân môn Luyện từ và câu: Các bài ca dao được đưa vào chương trình giảng dạy
dưới các dạng bài tập như:
Yêu cầu học sinh giải thích nghĩa để rút ra bài ca dao khuyên điều gì, chê điều gì.
Đưa ra các bài ca dao và yêu cầu học sinh phân loại theo chủ đề.

kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag


25 of 128.

Nối bài ca dao với nghĩa phù hợp với nó.
Yêu cầu học sinh tìm các bài ca dao nói về một chủ đề nào đó.
Ví dụ: Trong phân môn Luyện từ và câu tuần 27: Mở rộng vốn từ truyền thống ở
SGK tiếng Việt 5 (tập 2) trang 90. Bài tập 1: Kho tàng Tục ngữ, ca dao đã ghi lại nhiều
truyền thống quý báu của dân tộc ta. Em hãy minh họa mỗi truyền thống nêu dưới đây
bằng một câu tục ngữ hoặc ca dao:
a) Yêu nước

M: Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh

b) Lao động cần cù
c) Đoàn kết
d) Nhân ái
Với các gợi ý cho trước, các em học sinh tìm và đưa vào các nhóm cho phù hợp để
làm nổi bật chủ đề của bài học. Việc tìm kiếm và phân loại đó yêu cầu các em học sinh

phải huy động vốn hiểu biết của mình về ca dao để tìm các câu đúng theo yêu cầu của
bài. Các dạng bài tập trong phân môn này, giúp học sinh bước đầu tìm hiểu về từ ngữ,
câu, nội dung,... của ca dao. Ngoài ra, còn giúp học sinh mở rộng vốn từ vựng, cách dùng
từ đặt câu đúng và hay, hình thành và bồi dưỡng ngữ pháp tiếng Việt cho học sinh, giúp
các em đạt kết quả tốt trong các môn học ở các bậc học và trong các hoàn cảnh giao tiếp
xã hội.
+ Phân môn Tập đọc: Đưa ra các câu ca dao theo một chủ đề nào đó và sắp xếp
thứ tự trong một bài Tập đọc.
Học sinh đọc và bước đầu tìm hiểu về khái niệm câu ca dao, tìm hiểu về nội dung
và những lời khuyên răn của từng câu ca dao.
Biết sắp xếp và phân loại câu ca dao.
Nêu suy nghĩ của bản thân cần phải làm gì để thực hiện theo những lời khuyên đó.
Ví dụ: Trong bài Tập đọc ở lớp 5 “Ca dao về lao động sản xuất”:
Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Ai ơi, bưng bát cơm đầy

kho tai lieu -123doc-doc-luan an - luan an tien si -luan van thac si - luan van kinh te - khoa luan - tai lieu -Footer Pag


×