Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Phân tích sự vận dụng sáng tạo của chủ nghĩa MácLênin của Nguyễn Ái Quốc trong Cương Lĩnh Chính Trị đầu tiên của Đảng Cộng Sản Việt Nam.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.31 KB, 14 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA Tp.HCM

BÁO CÁO MÔN HỌC
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
 ĐỀ TÀI: Phân tích sự vận dụng sáng tạo của chủ nghĩa Mác-Lênin của
Nguyễn Ái Quốc trong Cương Lĩnh Chính Trị đầu tiên của Đảng Cộng
Sản Việt Nam.
GVHD: Nguyễn Hữu Kỷ Tỵ
Danh sách nhóm 5:
STT

HỌ VÀ TÊN

MSSV

1

Trần Thị Thu

91303986

2

Nguyễn Thị Thu

91303985

3

Lê Thanh Mai


91302295

4

Hoàng Thu Thảo

91303701

5

Nguyễn Thị Hồng Anh

91300114

TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 09 NĂM 2015


Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam

MỤC LỤC
PHẦN I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ VÀ NỘI DUNG CỦA CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ..............1
1.

Hoàn cảnh lịch sử:...............................................................................................................1

2.

Nội dung Cương Lĩnh.........................................................................................................1
2.1.


Phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam.....................................................2

2.2.

Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng...............................2

2.3.

Về lực lượng cách mạng Việt Nam.................................................................................3

2.4.

Lãnh đạo cánh mạng Việt Nam......................................................................................3

2.5.

Quan hệ quốc tế của cách mạng Việt Nam.....................................................................4

PHẦN II. SỰ VẬN DỤNG SÁNG TẠO CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VÀO CƯƠNG
LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN........................................................................................................5
1.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng… cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam......5

2.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng… đường lối của cách mạng Việt Nam..................5

3.


Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng … thực tiễn tình hình của cách mạng Việt Nam. 6

4.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng … khối đại đoàn kết dân tộc.................................7

5.

Kết luận................................................................................................................................7

PHẦN III. CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN SAU KHI RA ĐỜI LẠI BỊ PHẢN ỨNG
RẤT LỚN CỦA QUỐC TẾ CỘNG SẢN........................................................................................8
1.

Những hạn chế của Quốc tế Cộng sản ảnh hưởng đến Đảng và cách mạng VN...........8

PHẦN VI: TÀI LIỆU THAM KHẢO.

1


Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam

PHẦN I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ VÀ NỘI DUNG CỦA CƯƠNG LĨNH
CHÍNH TRỊ
1. Hoàn cảnh lịch sử:
Cuối năm 1929, những người Cách mạng Việt Nam trong các tổ chức Cộng sản
đã nhận thức được sự cần thiết và cấp bách phải thành lập 1 Đảng Cộng sản thống
nhất, chấm dứt sự chia trong phong trào Cộng sản ở Việt Nam. 6/1-7/2/1930 Hội nghị
hợp nhất Đảng ở Hương Cảng, Trung Quốc do Nguyễn Ái Quốc chủ trì. Thông qua

Chính Cương Vắn Tắt, Sách lược vắn tắt Của Đảng, Chương Trình Tóm Tắt của Đảng
hợp thành Cương Lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái
Quốc soạn thảo.

Chánh cương vắn tắt

2. Nội dung Cương Lĩnh.
 Hội nghị thành lập Đảng ngày 6/1-7/2/1930 đã thông qua các văn kiện như: Chánh
cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của
Đảng hợp thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam do
Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Cương lĩnh xác định các vấn đề cơ bản về chiến lược
và sách lược của cách mạng Việt Nam.
 Về tính chất kinh tế Việt Nam: Phân tích tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam,
cương lĩnh chỉ rõ chủ nghĩa đế quốc đã nắm toàn quyền thống trị, thi hành chính
2


Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam

sách độc quyền về kinh tế ở nước ta, làm cho tư bản bản xứ đã thuộc tư bản Pháp.
Cương lĩnh vạch rõ: “Tư bản Pháp hết sức ngăn trở sức sinh sản làm cho công
nghệ bản xứ không thể mở mang được. Còn về nông nghệ một ngày một tập trung
đã phát sinh ra lắm khủng hoảng, nông dân thất nghiệp nhiều. Vậy tư bản bản xứ
không có thế lực gì ta không nên nói cho họ đi về phe đế quốc được, chỉ bọn đại
địa chủ mới có thế lực và đứng hẳn về phế đế quốc chủ nghĩa nên chủ trương làm
tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng đê đi tới xã hội cộng sản:
 Về xã hội: Trong giai đoạn này xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa và nửa phong
kiến. Và tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản: Mâu thuẫn dân tộc, (giữa dân tộc ta với đế
quốc xâm lược mà lúc này là đế quốc Pháp) và mâu thuẫn giai cấp, giữa nhân dân
với địa chủ phong kiến chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến trong

đó cương lĩnh xác định mâu thuẫn dân tộc là cơ bản nhất quyền lợi dân tộc
giải phóng cao hơn hết.

2.1.

Phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam.

Xuất phát từ tình hình đó, cương lĩnh xác định chiến lược cách mạng của Đảng là
tiến hành cuộc “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản”. Đây là hai giai đoạn chính mà cách mạng Việt Nam phải trải qua.
Chánh cương vắn tắt cũng khẳng định đế quốc và phong kiến đều là đối tượng phải
đánh đổ trong cách mạng dân tộc dân chủ, nhưng hai nhiệm vụ này không thực
hiện đồng loạt. Nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc phải đặt lên hàng đầu,
còn nhiệm vụ chống phong kiến, đem lại ruộng đất cho dân cày sẽ thực hiện từng
bước, nhằm tập trung vào kẻ thù chính là bọn đế quốc xâm lược và bọn phong kiến
tay sai.

2.2.

Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng.

 Chánh cương vắn tắt chỉ rõ những nhiệm vự của cách mạng Việt Nam trong giai
đoạn tư sản dân quyền cách mạng trên các lĩnh vực và phương diện khác nhau:
 Về phương diện xã hội: dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ
thông giáo dục theo công nông hóa.
 Về phương diện chính trị: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm
cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập; lập chính phủ công nông binh, tổ chức
quân đội công nông.
 Về phương diện kinh tế: : thủ tiêu hết các thứ Quốc trái; tịch thu toàn bộ sản
nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng,…) của tư bản đế quốc chủ nghĩa

Pháp để giao cho chính phủ công nông binh quản lý; tịch thu toàn bộ ruộng đất của
3


Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam

bọn đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân
cày nghèo; mở mang công nghiệp và nông nghiệp; thi hành luật ngày làm 8giờ.
Các nhiệm vụ cách mạng nêu ra trên đây bao hàm hai nội dung: dân tộc và dân chủ,
chống đế quốc và phong kiến tay sai, trong đó nổi bật lên là nhiệm vụ dân tộc, mục
tiêu trước mắt là giành lấy độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc Việt Nam.

2.3.

Về lực lượng cách mạng Việt Nam.
Được đề ra trong “Sách lược vắn tắt”:

 Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai
cấp của mình, phải làm cho giai cấp của mình lãnh đạo được dân chúng.
 Đảng phải thu được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm
thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến.
 Đảng phải làm cho các đoàn thê thợ thuyền và dân cày (công hội, hợp tác xã) khỏi
ở dưới quyền lực và ảnh hưởng của bọn tư bản quốc gia.
 Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh Niên, Tân
Việt, vv. Đê kéo họ và phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu
địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu
mới cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào dã ra mặt phản các mạng (Đảng lập
Hiến,vv.) thì phải đánh đổ.
 Trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận,không khi nào nhượng bộ một
chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thỏa hiệp, trong khi tuyên truyền

khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với
bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp.
Lực lượng cách mạng chính là giai cấp công nhân và giai cấp nông dân, đây là quân
chủ lực của cách mạng, trong đó giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo.

2.4.

Lãnh đạo cánh mạng Việt Nam.

 Vai trò của Đảng không những được nêu rõ trong Sách lược vắn tắt mà còn được
nêu trong Chương trình tóm tắt của Đảng:
 Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm một số lớn của giai cấp công
nhân và làm cho họ đủ năng lực lãnh đạo quần chúng.
 Đảng tập hợp đa số quần chúng nông dân, chuẩn bị cách mạng thổ địa và lật đổ
bọn địa chủ và phong kiến.
 Đảng giải phóng công nhân và nông dân thoát khỏi ách tư sản.
4


Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam

 Đảng lôi kéo tiểu tư sản, tri thức và trung nông về phía giai cấp vô sản, Đảng tập
hợp hoặc lôi kéo phú nông, tư sản và tư sản bậc trung, đánh đổ các Đảng phản cách
mạng như Đảng Lập Hiến,vv.
 Không bao giờ Đảng lại hi sinh quyền lợi của giai cấp công nhân và nông dân cho
một giai cấp khác.
Ngoài ra Đảng còn phổ biến khẩu hiệu “ Việt Nam tự do” và đồng thời Đảng liên kết
với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới, nhất là với quần
chúng vô sản Pháp.


2.5.

Quan hệ quốc tế của cách mạng Việt Nam.

Về quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, cương lĩnh chỉ
rõ: Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới . Đảng phải liên kết
với các dân tộc bị áp bức và quần chúng lao động trên thế giới nhất là quần chúng vô
sản Pháp.

5


Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam

PHẦN II. SỰ VẬN DỤNG SÁNG TẠO CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
VÀO CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN
Lênin từng dạy rằng: “ Lý luận cách mạng không phải là giáo điều, nó là kim
chỉ nam cho hành động cách mạng, và lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc, nó
đầy tính chất sáng tạo. Lý luận luôn luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới
rút ra từ thực tiễn sinh động”. Vì vậy, việc vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin của Nguyễn
Ái Quốc không hề máy móc rập khuôn mà rất sáng tạo.

1. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo lý luận về cách mạng

vô sản của chủ nghĩa Mác-Lênin vào cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở
Việt Nam.
C.Mác nghiên cứu cho rằng: Cách mạng vô sản sẽ nổ ra và giành thắng lợi ở
những nước tư bản phát triển. Kế thừa và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác trong
thời đại CNTB chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, V.I.Lênin khẳng định: Cách
mạng vô sản có thể nổ ra và thắng lợi ở một số nước, thậm chí là một nước riêng lẻ

của chủ nghĩa đế quốc (một mắt xích trong sợi dây chuyền). Thời V.I.Lênin, cách
mạng giải phóng dân tộc đã trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản và ông cho
rằng cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở chính quốc cần phải liên minh với cuộc đấu
tranh của các dân tộc bị áp bức ở các thuộc địa. Trên góc độ của người thuộc địa, dân
tộc bị áp bức, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Muốn cứu nước và giải phóng dân
tộc không còn con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.
Lúc bấy giờ mâu thuẫn chủ yếu của Việt Nam là mâu thuẩn giữa dân tộc Việt
Nam với chủ nghĩa thực dân Pháp. Điều này hoàn toàn phù hợp với tình hình thực tiễn
của cách mạng Việt Nam. Đây chính là sự vận dụng một cách tài tình, sáng tạo chủ
nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cách mạng Việt Nam.

2. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo lý luận về cách mạng
không ngừng của chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc đề ra đường lối của cách
mạng Việt Nam.
Ngay trong Cương lĩnh 1930 đã khẳng định: Làm tư sản dân quyền, cách mạng
và thổ địa cách mạng rồi đi tới xã hội cộng sản. Điều đó có nghĩa là sau khi làm xong
tư sản dân quyền cách mạng đánh đổ thực dân Pháp xâm lược đem lại độc lập dân tộc.
Làm thổ địa cách mạng là đánh đổ bọn phong kiến, địa chủ đem lại ruộng đất cho dân
cày, là đi lên CNXH tức là đi vào giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản
6


Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam

chủ nghĩa. Đây là điều hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của cách mạng Việt Nam mà
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo lý luận về cách mạng không
ngừng của chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc đề ra đường lối của cách mạng Việt Nam.

3. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo tư tưởng liên minh
công - nông của chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn tình hình của cách

mạng Việt Nam.
Trong một nước nông nghiệp đại đa số dân cư là nông dân thì vấn đề giai cấp
công nhân liên minh với giai cấp nông dân là điều tất yếu. Vận dụng tư tưởng của các
nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin, trong tác phẩm Đường Kách Mệnh (viết năm
1927), cũng như việc soạn thảo Cương lĩnh năm 1930, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều
khẳng định: Công - nông là gốc của cách mạng, trí thức, học trò là bầu bạn của cách
mạng.
Người nhận thấy rằng, sự biệt về lực lượng: Bộ phận đông đảo nhất vẫn là liên
minh công-nông, bộ phận bị áp bức bóc lột nặng nề nhất trong xã hội giống chủ nghĩa
Mác-Lê nin. Tuy nhiên Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định lực lượng kháng
chiến là toàn dân, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân, gồm: bộ đội chủ
lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích làm nòng cốt. Để phát huy tối đa sức
mạnh của toàn dân tộc, Đảng tổ chức, động viên mọi tầng lớp nhân dân, không phân
biệt giai cấp, tôn giáo, đảng phái; đồng thời, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại. Những bộ phận trung lập như tiểu địa chủ và tư sản An Nam thì phải lôi kéo
họ vào lực lượng cách mạng, vì cơ bản họ đã có tinh thần yêu nước nhưng chưa ủng
hộ cách mạng vì chưa thấy sự khả quan của cuộc cách mạng đó. Nếu ta thực hiện một
số cuộc cách mạng thành công thì sẽ tạo được niềm tin, khiến bộ phận này nghiêng
hẳn về phe chống Pháp, giúp tăng lực lượng đáng kể. Ngoài ra Đảng còn xác định rõ
trong quá trình xây dựng lực lượng phải đi theo con đường chính thống, không được
nhượng bộ, thỏa hiệp.
Vì vậy có thể thấy rằng việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lê nin của
Nguyễn Ái Quốc cơ bản đã giải quyết được vấn đề cấp thiết lúc bấy giờ cho Việt Nam,
đó không phải mâu thuẫn giai cấp (công nhân-tư sản, nông dân-địa chủ) mà là mâu
thuẫn dân tộc (toàn thể dân tộc Việt Nam và thực dân Pháp). Việc đi theo phương
hướng này không chỉ giúp gia tăng lực lượng mà còn xây dựng sự đoàn kết của dân
tộc, tạo tiền đề để giải quyết mâu thuẫn giai cấp.

7



Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam

4. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo quan điểm về vai trò
quần chúng nhân dân của chủ nghĩa Mác-Lênin vào tình hình cách mạng
giải phóng dân tộc ở Việt Nam mà trọng tâm chính là khối đại đoàn kết dân
tộc.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, quần chúng nhân dân là những
người sáng tạo nên lịch sử. Quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất vật chất, sản
xuất các giá trị tinh thần, là lực lượng hùng hậu của các cuộc cách mạng xã hội.

5. Kết luận
Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo được
Hội nghị thống nhất nhất trí thông qua. Cương lĩnh tuy vắn tắt song đã nêu được
những vấn đề cơ bản về đường lối cách mạng Việt Nam, có nội dung cách mạng, khoa
học và sáng tạo phù hợp với nhu cầu khách quan của cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc ở Việt Nam, thuận chiều tiến hóa của thời đại. Cương lĩnh đã thể hiện một cách
nhuần nhuyễn quan điểm dân tộc với quan điểm giai cấp, quốc gia với quốc tế, trong
đó thấm đậm yếu tố dân tộc trên lập trường giai cấp công nhân – yếu tố quyết định
tính độc đáo của cách mạng thuộc địa. Với sự vận dụng sáng tạo, có khoa học trong
chủ nghĩa Mac-Lenin của Nguyễn Ái Quốc .Thực hiện chiến lược cách mạng giải
phóng dân tộc, dân chủ tiến lên theo định hướng xã hội cộng sản vì độc lập tự do là tư
tưởng cách mạng cốt lõi, là viên ngọc quý được khảm trong cương lĩnh đầu tiên của
Đảng.

8


Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam


PHẦN III. CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN SAU KHI RA ĐỜI
LẠI BỊ PHẢN ỨNG RẤT LỚN CỦA QUỐC TẾ CỘNG SẢN
QTCS do V.I.Lênin sáng lập không những chỉ ra con đường giải phóng dân tộc
cho nhân dân các nước bị áp bức, mà còn tích cực giúp đỡ họ trong cuộc đấu tranh vì
độc lập tự do. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố, khách quan và chủ quan, QTCS không tránh
khỏi những hạn chế về lý luận cũng như trong thực tiễn đã ảnh hưởng đến Đảng và Cách
mạng VN.
1. Trong Cương lĩnh và chương trình nghị sự, QTCS đã nêu vấn đề cách mạng thuộc
địa và coi việc giúp đỡ cách mạng thuộc địa là 1 trọng tâm trong sự nghiệp hoạt động
của mình. Nhưng trong thực tế, QTCS chưa coi trọng đúng mức loại hình cách mạng
này.
QTCS chỉ mới thấy mối liên hệ một chiều, sự chi phối của cách mạng vô sản ở
chính quốc đến cách mạng thuộc địa. Tư tưởng này đã làm giảm tính năng động cách
mạng của các phong trào ở thuộc địa, đã tạo ra tư tưởng trông chờ, ỷ lại, thụ động của
nhiều Đảng ở các nước thuộc địa. Tuy nhiên, Đảng ta hoàn toàn không bị chi phối bởi
quan điểm trên. Bởi vì, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã sớm nhìn thấy mối quan hệ biện
chứng giữa cách mạng vô sản và cách mạng thuộc địa. Người nhận thấy không những
cách mạng vô sản ảnh hưởng đến cách mạng thuộc địa mà cách mạng thuộc địa cũng tác
động đến cách mạng vô sản. Người đã dự báo cách mạng thuộc địa có thể thắng lợi
trước và đã vận dụng thành công…
2. Đại hội VI QTCS đã đánh giá chưa chính xác, có phần tả khuynh đối với giai cấp tư
sản, đặc biệt là giai cấp tư sản dân tộc, nhấn mạnh mặt dao động của họ.
Ở VN và Đông Dương, một thuộc địa lớn của Pháp, nền kinh tế chủ yếu là nông
nghiệp lạc hậu, nên đặc điểm của sự ra đời và phân hóa trong giai cấp tư sản khác rất
nhiều nước. Vì vậy, việc thực hiện chủ trương này của QTCS đã dẫn đến những biểu
hiện tả khuynh trong tập hợp lực lượng cách mạng.
Đầu 4/1931, Xứ ủy Trung Kỳ đã ra chỉ thị “thanh Đảng” và phổ biến xuống tận
cơ sở. Nội dung chính của chỉ thị thanh Đảng là đưa ra khỏi Đảng những ai xuất thân là
trí thức, giàu có hoặc con em các quan lại lớn nhỏ. Đặc biệt, trong Chỉ thị thanh Đảng
của Xứ ủy Trung Kỳ có những câu gay gắt: “Thanh trừ trí phú địa hào, đào tận gốc trốc

tận rễ”. Trong Chỉ thị truyền đạt của Tỉnh ủy Nghệ An cũng có những câu tương tự. Đây
là 1 biểu hiện tả khuynh. Điều đó gây ra sự hoang mang, tiêu cực trong những Đảng viên
xuất thân từ các giai cấp trên đã từ bỏ giai cấp mình, tích cực tham gia phong trào cách

9


Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam

mạng của công nông, làm cho phong trào đã khó khăn khi bị đàn áp lại càng khó khăn
hơn…
3. Là một tổ chức chính trị cao nhất của phong trào CS và công nhân quốc tế, nhưng do
áp dụng cơ chế tập trung quan liêu trong khi việc nắm thông tin, hiểu biết thực tiễn còn
bất cập…, nên QTCS không tránh khỏi có lúc cứng nhắc, chưa sát thực tế, đã áp đặt,
giáo điều trong việc xác định đường lối. Đối với Đảng CSVN và cách mạng VN, QTCS
cũng có những biểu hiện khó tránh khỏi này.
Việc thành lập Đảng CSVN cùng với việc thông qua Chính cương vắn tắt, Sách
lược vắn tắt thấm nhuần tư tưởng mácxít-lêninnít và không làm giảm tính giai cấp, phẩm
chất cách mạng của Đảng. Làm như vậy là phù hợp với lý luận Mác-Lênin về xây dựng
Đảng ở các nước, vừa phù hợp với thực tế cách mạng ở 3 nước Đông Dương lúc bấy
giờ. Giai cấp công nhân và đội tiền phong của nó mang bản chất quốc tế trong sáng,
song trước hết nó mang tính chất dân tộc-giai cấp và Đảng CS phải xây dựng trong một
quốc gia dân tộc cụ thể. Đảng phải ủng hộ quyền lợi chính đáng của các dân tộc trên thế
giới, song trước hết phải chịu trách nhiệm với giai cấp và dân tộc của mình. Việc lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc thành lập Đảng CSVN và cách giải quyết mối quan hệ giữa 3 dân tộc
Đông Dương trong khuôn khổ mỗi nước riêng biệt là phù hợp với lý luận và thực tiễn
cách mạng, thể hiện 1 quan điểm đúng đắn về việc vận dụng tính quốc tế và tính dân tộc
trong xây dựng Đảng. Đúng như Nguyễn Ái Quốc đã giải thích về vấn đề đặt tên Đảng
cho các đại biểu dự Hội nghị hợp nhất: “Cái từ Đông Dương rất rộng, và theo nguyên lý
của chủ nghĩa Lênin, vấn đề dân tộc là 1 vấn đề rất nghiêm túc, người ta không thể bắt

các dân tộc khác gia nhập Đảng, làm như thế là trái với nguyên lý chủ nghĩa Lênin. Còn
cái từ An Nam thì hẹp, vì An Nam chỉ là miền trung của nước VN mà thôi, và nước ta có
3 miền: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ. Do đó, từ VN hợp với cả 3 miền và không trái với
chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề dân tộc”…
Việc QTCS buộc Đảng CSVN phải đổi tên thành Đảng CS Đông Dương chứng tỏ
rằng QTCS chưa chú ý đến vấn đề dân tộc, chưa thấy hết đặc điểm lịch sử, chính trị của
mỗi nước và đã áp đặt như vậy. Lúc ấy, ở Lào và Campuchia chưa hình thành 1 nhóm
CS nào hoạt động độc lập như ở VN. Vì vậy, không có cơ sở nào để hợp nhất các nhóm
CS ở Đông Dương như QTCS yêu cầu…
Sáng tạo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong Hội nghị thành lập Đảng thể hiện
trong việc nêu mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng là đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên
hàng đầu, cả trong việc xác định lực lượng cách mạng, trong chủ trương thực hiện liên
minh công-nông, cả với tiểu tư sản, thực hiện liên hiệp với tư sản dân tộc, phân hóa và
cô lập địa chủ, thực hiện mặt trận thống nhất đoàn kết rộng rãi dân tộc, chĩa mũi nhọn
cách mạng vào kẻ thù chủ yếu là đế quốc và tay sai. Những sáng tạo đó của Người đã

10


Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam

không được QTCS coi là 1 đóng góp vào kho tàng lý luận Mác-Lênin, trái lại, bị coi là
biểu hiện của sự xa rời chủ nghĩa Mác-Lênin, xa rời lý tưởng CS…
Vì hiểu lầm và đánh giá không đúng về Nguyễn Ái Quốc, nên QTCS đã có thời
kỳ có phần dè dặt đối với Người. Trong thư gửi đại diện của Đảng CS Pháp ở QTCS,
Nguyễn Ái Quốc đã băn khoăn về vị trí của mình: “Lúc này tôi chưa biết rõ vị trí của tôi.
Tôi hiện là Đảng viên Đảng CS Pháp hay Đảng CSVN? Cho đến khi có lệnh mới, tôi
vẫn phải chỉ đạo công việc của Đảng CSVN. Nhưng với danh nghĩa gì?.. Sự ủy nhiệm
công tác của QTCS cho tôi đã hết hạn chưa? Nếu chưa, tôi vẫn tham gia Ban Phương
Đông ở đây? Tôi đề nghị các đ/c nhắc Ban Thường vụ QTCS cho quyết định về việc

này”.
Nguyễn Ái Quốc và Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Người soạn thảo
còn bị phê phán từ phía các đ/c của mình, là những đ/c bị ảnh hưởng của QTCS. Sau khi
đã tốt nghiệp Trường Đại học Phương Đông, 4/1930, QTCS cử Trần Phú về nước hoạt
động và bổ sung vào BCH Trung ương lâm thời. Trần Phú mang theo tinh thần của Đại
hội VI QTCS, trong đó nhấn mạnh vấn đề giai cấp và sách lược mặt trận công nhân
thống nhất. Chấp hành chỉ thị của QTCS về việc bổ sung một số vấn đề về đường lối và
nhiệm vụ của cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại và vấn đề đổi tên Đảng,
10/1930, Hội nghị BCH Trung ương Đảng họp tại Hồng Kông. Hội nghị đã thông qua
Luận cương chính trị của Đảng do đ/c Trần Phú soạn thảo, Điều lệ mới, án nghị quyết về
tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng, bầu BCH Trung ương
và cử đ/c Trần Phú làm Tổng bí thư của Đảng.
Luận cương nêu lên những vấn đề cơ bản của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân ở Đông Dương do giai cấp công nhân lãnh đạo. Nhưng do vận dụng máy móc
những luận điểm và sách lược mặt trận của QTCS, Luận cương chính trị xác định chưa
rõ nhiệm vụ hàng đầu là giải phóng dân tộc, đề cao nhiệm vụ phản phong. Vì bị ảnh
hưởng quan điểm của QTCS cho nên có những đánh giá sai về tư sản dân tộc, chưa thấy
hết khả năng phản đế của giai cấp tư sản dân tộc. Luận cương chính trị cũng như án nghị
quyết của Hội nghị đã không phản ánh được 1 thực tiễn sinh động, phong phú của phong
trào cách mạng ở trong nước là ngoài công nông ra, các tầng lớp trí thức và một số sĩ
phu, một số trung tiểu địa chủ lại có xu hướng cách mạng rõ ràng… Luận cương vẫn giữ
quan điểm là chỉ thấy sức mạnh của cách mạng tư sản dân quyền là “vô sản giai cấp”.
Hội nghị còn phê phán Hội nghị hợp nhất và Nguyễn Ái Quốc đã phạm nhiều sai
lầm rất nguy hiểm vì “chỉ lo việc hiệp các đoàn thể ấy lại làm một mà ít chú ý đến việc
bài trừ những tư tưởng và hành động biệt phái của các Đảng phải trước kia”, đặt tên
Đảng không đúng, hữu khuynh trong đường lối chính trị, “chỉ lo đến việc phản đế, mà
quên mất lợi ích giai cấp đấu tranh ấy là một sự rất nguy hiểm”. Nguyễn Ái Quốc bị phê
phán là hẹp hòi, là theo chủ nghĩa dân tộc. Hội nghị đã quyết định “thủ tiêu chính cương
11



Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam

sách lược và điều lệ cũ của Đảng, lấy kinh nghiệm trong thời kỳ vừa qua mà thực hành
công việc cho đúng như án nghị quyết và thơ chỉ thị của QTCS. Bỏ tên “Việt Nam Cộng
sản Đảng” mà lấy tên “Đông Dương Cộng sản Đảng”.
Trong Thư của Trung ương gửi cho các cấp Đảng bộ ngày 9/12/1930, Thường vụ
Trung ương đã phê phán những điều sai lầm của Hội nghị hợp nhất như: “chủ trương các
công việc rất sơ sài, mà có nhiều điều không đúng với chủ trương của Quốc tế”, “không
hợp nhất các phần tử CS chân chính nhất mà lại hợp nhất các tổ chức CS”, “không lấy 1
nền tư tưởng CS và những kế hoạch công tác CS làm căn bổn để chiêu tập Đảng, chỉ bàn
chuyện cần phải hiệp nhất mà thôi”, đặt tên Đảng CSVN không phù hợp, chính sách của
Đảng đối với địa chủ, tư sản không đúng: “Nói mập mờ về việc lợi dụng hoặc chủ
trương những việc làm cho bọn tư sản chưa phản cách mạng như trong Chánh cương
sách lược cũ là 1 điều sai lầm chánh trị rất lớn và rất nguy hiểm cho cách mạng”, khuyết
điểm về tổ chức…
Sự phê bình đối với những văn kiện của Hội nghị hợp nhất còn kéo dài đến tận
trước Đại hội VII QTCS. Trong thư của Ban Chỉ huy ở ngoài viết 31/3/35 gửi QTCS,
sau khi báo cáo tình hình diễn biến Đại hội I của Đảng, đã phê phán trực diện Nguyễn Ái
Quốc và tổ chức VN Cách mạng Thanh niên do Người sáng lập: “Ở Xiêm và Đông
Dương, các tổ chức CS đã tiến hành 1 cuộc đấu tranh công khai chống lại những tàn dư
của tư tưởng dân tộc cách mạng pha trộn với chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa duy tâm của
Đảng của các đ/c Hội VN Cách mạng Thanh niên và của đ/c Nguyễn Ái Quốc, những
tàn dư ấy rất mạnh và tạo thành 1 chướng ngại nghiêm trọng cho sự phát triển CNCS.
Cuộc đấu tranh không nhân nhượng chống những học thuyết cơ hội này của đ/c Quốc và
của Đảng Thanh niên là rất cần thiết. 2 Đảng CS Xiêm và Đông Dương đã viết 1 quyển
sách chống những khuynh hướng này. Chúng tôi đề nghị đ/c Lin viết một quyển sách để
tự phê bình về những khuyết điểm đã qua”…
… QTCS chỉ mời Nguyễn Ái Quốc dự Đại hội VII với tư cách là khách mời, và
trong thực tế, không chấp nhận Nguyễn Ái Quốc là đại diện của Đảng CS Đông Dương

vì đang bận học tập? Phải chăng đó là cách biểu hiện thái độ và xử lý của QTCS đối với
“sai lầm” của Nguyễn Ái Quốc.

12


Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam

PHẦN VI: TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Báo Điện tử Đảng Cộng Sản Việt:
http://123.30.190.43/tiengviet/tulieuvankien/tulieuvedang/details.asp?
topic=168&subtopic=463&leader_topic=981&id=BT2711553595
2. />
13



×