MỤC LỤC
A. ĐẶT VẤN ĐỀ....................................................................................................1
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ....................................................................................1
I. Khái niệm...........................................................................................................1
II.
Căn cứ pháp lý................................................................................................2
III. Phân tích.........................................................................................................2
1. Bộ Luật dân sự năm 2005..................................................................................4
2. Bộ luật dân sự năm 2015...................................................................................5
IV.
Thực trạng ở Việt Nam..................................................................................8
V. Giải pháp..........................................................................................................10
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ......................................................................................10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................12
0
A.ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, chuyển đổi giới tính đang là một vấn đề nóng, nhất là sau khi
Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 được Quốc hội thông qua. Tính đến thời
điểm hiện tại, khi BLDS đã có hiệu lực, thì vẫn còn khá nhiều vấn đề bất
cập trong việc thực hiện quy định về việc chuyển đổi giới tính ở Việt Nam.
Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, trong phạm vi bài luận em xin chọn đề tài: “
Phân tích và đánh giá các quy định trong BLDS năm 2015 về việc chuyển
đổi giới tính của cá nhân.”.
B.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Khái niệm
- Giới: Đề cập đến những vai trò, hành vi, hoạt động và thuộc tính được
vun đắp trong môi trường xã hội mà một xã hội nhất định cho là phù hợp
với nam và nữ.1
- Giới tính sinh học: Đề cập đến các đặc điểm sinh học và tâm lí để xác
định nam giới và nữ giới.
- Chuyển giới: Thuật ngữ bao trùm dùng để chỉ người có bản dạng giới,
biểu hiện hay hành vi giới khác biệt với những biểu hiện, hành vi điển hình
gắn liền với giới tính được chỉ định khi người đó sinh ra. Không phải người
1 />
1
chuyển giới nào cũng có thể hoặc muốn trải qua trị liệu hóc môn hoặc giải
phẫu chuyển đổi giới tính.
- Chuyển đổi giới tính: Thuật ngữ chỉ những người đã thực hiện thay
đổi vĩnh viễn cơ thể của mình, hoặc sẽ làm điều đó thông qua can thiệp y
học nhằm đạt được các đặc điểm cơ thể của giới tính khác.
- Người chuyển giới: là người có giới tính mong muốn không trùng với
giới tính khi sinh ra, không phụ thuộc tình trạng cơ thể đã phẫu thuật hay
chưa.2
II.
Căn cứ pháp lý
Ngày 24 tháng 11 năm 2015, Quốc hội thông qua Bộ luật dân sự (sửa
đổi), trong đó có quy định về chuyển đổi giới tính và các quyền, nghĩa vụ
liên quan. Luật có hiệu lực thi hành từ đầu năm 2017.
Cụ thể, việc chuyển đổi giới tính của cá nhân được quy định rõ trong
Điều 37 BLDS năm 2015 như sau:
“ Việc chuyển đổi giới tính được thực hiện theo quy định của Luật. Cá
nhân đã chuyển đổi giới tính có quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch
theo quy định của pháp luật về hộ tịch; có quyền nhân thân phù hợp với
giới tính đã được chuyển đổi theo quy định của Bộ luật này và luật khác có
liên quan.”
Như vậy, đây là lần đầu tiên hệ thống pháp luật dân sự của Nhà nước ta
ghi nhận về (quyền) chuyển đổi giới tính của cá nhân. Quy định này đã bảo
đảm tốt hơn quyền con người, các quyền dân sự của cá nhân được ghi nhận
trong Hiến pháp năm 2013.
III.
Phân tích
Theo tài liệu của Viện ISEE:
“ - Người chuyển giới nữ là người sinh ra là nam và có giới tính tự
nhận, nghĩ rằng mình là nữ.
2 Theo tài liệu của Viện ISEE (Viện Nghiên cứu Xã hội- Kinh tế và Môi trường).
2
- Người chuyển giới nam là người sinh ra là nữ và có giới tính tự nhận,
nghĩ rằng mình là nam.”
Theo những định nghĩa này, việc xác định một cá nhân là người chuyển
giới chỉ phụ thuộc vào suy nghĩ, cảm nhận và sự tự nhận của chính họ,
không phụ thuộc vào các thủ tục y khoa và thủ tục pháp lý.
Hiện nay đang tồn tại nhiều cách hiểu, quan điểm khác nhau về người
chuyển đổi giới tính. Tuy nhiên, cần phải nhìn nhận một cách tổng thể,
chuyển đổi giới tính không chỉ bao gồm các thủ tục y khoa mà còn có cả
những thủ tục pháp lý, “trong đó thủ tục y khoa là tiền đề và là cơ sở để
tiến hành các tủ tục pháp lý. Những thủ tục y khoa ở đây có thể bao gồm
việc tiến hành xét nghiệm, kiểm tra, phẫu thuật, sử dụng nội tiết tố… để
thay đổi về mặt hình dạng theo đúng với giới tính mà họ mong muốn. Việc
thay đổi hình dáng cơ thể , bộ phận sinh dục chỉ mới giải quyết về mặt
“hình thức” bởi những cá nhân này cần phải tiến hành các thủ tục pháp lý
cần thiết để chính thức được thừa nhận, được tham gia vào những quan hệ
xã hội với tư cách của một chủ thể mới” 3 . Thủ tục pháp lý bao gồm việc
tiến hành thay đổi trên giấy tờ nhân thân và các giấy tờ liên quan tại các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền nhằm xác nhận một sự kiện pháp lý về thay
đổi giới tính ở họ.
Khái niệm chuyển đổi giới tính còn hay bị nhầm lẫn, đánh đồng với
khái niệm xác định lại giới tính. Điểm khác biệt cơ bản nhất giữa xác định
lại giới tính với chuyển đổi giới tính là xác định lại giới tính được thực hiện
trong trường hợp có khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa định hình chính xác về
giới tính. Những người này hoàn toàn nhận thức được giới tính đích thực
của mình là nam hay nữ. Đối với người chuyển đổi giới tính thì họ lại có
3 Nguyễn Thị Hồng Ngọc và Nguyễn Đức Long (2015), “Ghi nhận quyền chuyển đổi giới tính của người chuyển giới
trong BLDS Việt Nam”, Đề tài nghiên cứu khoa học, trường Đại học Luật Hà Nội.
3
cấu tạo sinh học hoàn chỉnh và việc chuyển đổi giới tính là xuất phát từ nhu
cầu sống đúng với cảm nhận, suy nghĩ và tình cảm của con người họ.
1.
Bộ Luật dân sự năm 2005
Văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền của người chuyển giới
rất ít. Bộ luật dân sự 2005 chỉ quy định quyền xác định lại giới tính là một
quyền nhân thân tại Điều 36, không quy định quyền chuyển đổi giới tính
của cá nhân.
“ Cá nhân có quyền được xác định lại giới tính.
Việc xác định lại giới tính của một người được thực hiện trong trường
hợp giới tính của người đó bị khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa định hình
chính xác mà cần có sự can thiệp của y học nhằm xác định rõ về giới tính.
Việc xác định lại giới tính được thực hiện theo quy định của pháp luật.”
Theo đó, việc xác định giới tính của một người được thực hiện trong
trường hợp giới tính của người đó bị khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa định
hình chính xác mà cần có sự can thiệp của y học nhằm xác định rõ về giới
tính. Để cụ thể hóa quy định này, ngày 05-08-2008, Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 88/2008/NĐ-CP về xác định lại giới tính cho người liên giới
tính (mà Nghị định gọi là “người có khuyết tật bẩm sinh về giới tính hoặc
giới tính chưa được định hình chính xác 4”). Như vậy, việc phẫu thuật của
người liên giới tính đã có quy định, quy trình, thủ tục rõ ràng ; những người
đã hoàn thiện về mặt giới tính không được phẫu thuật chuyển giới (Khoản 1
Điều 4). Quan điểm ngầm trong nghị định này là: “ nếu có khuyết tật bẩm
sinh thì mới được phẫu thuật, còn nếu chỉ là mong muốn thì cấm”. Điều đó
có nghĩa là, khác với người đồng tính/ song tính (pháp luật không có quy
định cấm), người chuyển giới bị cấm phẫu thuật chuyển giới để có thể sống
thật với bản thân mình.
Pháp luật ở thời điểm này cấm phẫu thuật chuyển đổi giới tính đối với
người đã hoàn thiện về mặt giới tính. Có thể thấy quy định này mới chỉ
4 Khoản 1 Điều 1 Nghị định 88/2008/NĐ-CP về việc xác định lại giới tính.
4
quan tâm đến vấn đề giới tính sinh học đã hoàn thiện, chưa bao quát được
sự đa dạng về bản dạng giới của con người.
Từ sự thiếu sót này, nhiều vấn đề đã xảy ra như: những cá nhân đã tự
chuyển đổi giới tính không thể thực hiện được thủ tục thay đổi các thông tin
nhân thân tương ứng; giới tính, hình thể thay đổi khác với giới tính trên
giấy tờ tùy thân gây cho người chuyển giới nhiều khó khăn trong giao dịch
như đi lại, đứng tên sở hữu tài sản, xin việc làm… Từ đó dẫn đến những
hậu quả nặng nề về tâm lý và đời sống của các cá nhân này.
Để có thể tiến hành việc chuyển đổi giới tính, người chuyển giới phải ra
nước ngoài tiến hành hoặc phẫu thuật chui trong nước với chi phí cao mà
không được đảm bảo về sự an toàn cho tính mạng, sức khỏe. Việc không
cho phép các cơ sở y tế trong nước thực hiện việc chuyển đổi giới tính
khiến cho những người có nhu cầu phẫu thuật chuyển đổi giới tính sang
nước ngoài thực hiện gây ra tình trạng thất thoát nguồn thu từ hoạt động
phẫu thuật, “chảy máu ngoại tệ” và làm gánh nặng tài chính cho người
phẫu thuật chuyển giới.
2.
Bộ luật dân sự năm 2015.
Bộ luật dân sự năm 2015 đã có một bước tiến lớn khi công nhận và hợp
pháp hóa việc chuyển đổi giới tính. Đây là văn bản pháp lý đầu tiên ghi
nhận chính thức việc chuyển đổi giới tính của cá nhân. Với sự ghi nhận này,
cơ hội để được sống thật với tâm tư, nguyện vọng của những người chuyển
giới được mở ra. Việc chuyển đổi giới tính là một quá trình phức tạp, ảnh
hưởng sâu sắc đến chính bản thân của người chuyển giới và gây ra những
hệ lụy phức tạp. Do đó, việc chuyển đổi giới tính phải được thực hiện theo
đúng quy định của pháp luật, với những điều kiện, thủ tục chặt chẽ. Thực
tiễn pháp luật của một số nước trên thế giới thường quy định về tuổi, tâm
sinh lý, sức khỏe, hồ sơ, thủ tục… khi tiến hành chuyển đổi giới tính.
5
Chuyển đổi giới tính là một vấn đề gây nhiều tranh luận trong thời gian
BLDS 2015 ở giai đoạn xây dựng dự thảo. Với quy định tại Điều 37, rõ
ràng, BLDS chưa ghi nhận việc chuyển đổi giới tính là quyền của cá nhân.
Thay vào đó, vấn đề này được quy định mở để tiếp tục điều chỉnh cụ thể
hơn trong các văn bản pháp luật liên quan. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có
một văn bản luật cụ thể nào được ban hành về vấn đề chuyển đổi giới tính:
“ TS Nguyễn Hữu Quang cho biết, trong chương trình xây dựng Luật của
nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV, Luật về chuyển đổi giới tính sẽ được đưa ra
xem xét, thông qua tại Quốc hội. Dự kiến, đến năm 2018 hoặc 2019, Luật
này mới có hiệu lực nếu được Quốc hội thông qua.”5.
Có thể thấy rằng, tuy Bộ luật sửa đổi có hiệu lực từ ngày 01-01-2017
nhưng không có nghĩa rằng từ ngày 01-01 người chuyển giới được thực
hiện ngay quyền này. Vì được thừa nhận quyền và thực hiện quyền là hai
bước khác nhau. Nên dù việc chuyển đổi giới tính đã được công nhận và có
hiệu lực pháp lý thì việc thực hiện chuyển đổi giới tính vẫn chưa được phép
do chưa có luật nào quy định về vấn đề chuyển giới.
Lý luận về việc luật không cấm và cũng không cho phép chuyển đổi
giới tính nói trên, sáng 25-11-2015, nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp, ông Hà
Hùng Cường phân tích: “ Bộ luật Dân sự là luật nền của tất cả những luật
liên quan đến quan hệ dân sự kinh tế, thương mại, gia đình nói chung. Lần
này Quốc hội biểu quyết thông qua là bước tiến vô cùng quan trọng nhưng
Bộ luật không thể đi giải quyết những vấn đề cụ thể như điều kiện, cách
thức chuyển giới, ai có quyền được chuyển giới, chăm sóc sức khỏe người
chuyển giới… Đó là cả vấn đề lớn, là đối tượng điều chỉnh của một luật
riêng.”6 .
5 />6 />
6
Một điểm mới nữa của BLDS 2015 về việc chuyển đổi giới tính đó là:
“Cá nhân đã chuyển đổi giới tính có quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ
tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch; ….”. Việc đăng kí hộ tịch của
những cá nhân này vừa được coi là quyền và vừa là nghĩa vụ. Bởi lẽ, việc
đăng kí hộ tịch của những cá nhân chuyển giới là mong mỏi, là điều kiện để
họ giải quyết các rắc rối pháp lý trong cuộc sống khi họ chưa được ghi nhận
quyền này. Đồng thời, những cá nhân đã chuyển giới có nghĩa vụ phải đăng
kí thay đổi hộ tịch để cơ quan nhà nước còn quản lý. Thay đổi hộ tịch là
việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký thay đổi những thông tin hộ
tịch của cá nhân khi có lý do chính đáng theo quy định của pháp luật dân
sự7. Với ghi nhận này, những cá nhân đã tiến hành chuyển đổi giới tính
trước ngày 01-01-2007 được quyền thay đổi giới tính trên các giấy tờ như:
giấy khai sinh, chứng minh thư nhân dân, sổ hộ khẩu… Đồng thời với việc
thay đổi giới tính trên các giấy tờ tùy thân, người chuyển giới tính thường
có nhu cầu thay đổi tên. Bởi vì tên của mỗi cá nhân thường được đặt phù
hợp với giới tính của mỗi cá nhân khi sinh ra.
Để đảm bảo cho cá nhân đã chuyển đổi giới tính, BLDS 2015 còn ghi
nhận cá nhân đã chuyển đổi giới tính “ có quyền nhân thân phù hợp với
giới tính đã được chuyển đổi theo quy định của Bộ luật này và luật khác có
liên quan.”. Điều này đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực lao động, việc làm.
Người lao động nữ và người lao động nam có những quyền lợi cũng như
chế độ khác nhau, nên việc ghi nhận này đã từng bước đảm bảo quyền lợi
của nhóm người chuyển đổi giới tính.
IV.
Thực trạng ở Việt Nam
7 Khoản 10 Điều 4 Luật hộ tịch năm 2014
7
Trước khi có BLDS năm 2015, ở Việt Nam, việc chuyển đổi giới tính
chưa được đề cập và ghi nhận một cách chính thức trong bất kì một văn bản
pháp lý nào. Nguyên nhân chính khiến cho quyền này chưa được ghi nhận
là các quan niệm truyền thống, định kiến xã hội đối với người chuyển đổi
giới tính còn rất lớn. Sự lên án từ xã hội, sự không ủng hộ từ phía gia đình
và sự tự ti của chính người chuyển giới đã ảnh hưởng đến việc ghi nhận
chính thức việc chuyển đổi giới tính trong luật. Bên cạnh đó, nhiều luồng
quan điểm e ngại việc chuyển đổi giới tính sẽ dẫn đến phát sinh các hệ lụy
tiêu cực trong xã hội khó kiểm soát được như: Nhiều người (đa số là nam)
sẽ chuyển đổi giới tính để trốn tránh nghĩa vụ quân sự, đặc biệt là khi đất
nước sắp có chiến tranh; Chuyển đổi giới tính để gian lận trong thể thao;
Chuyển đổi giới tính để trốn việc bị cơ quan điều tra truy nã; Chuyển đổi
giới tính để hoạt động mại dâm; Phẫu thuật chuyển giới dễ dẫn đến tai biến
do hàng loạt các cuộc phẫu thuật liên tiếp, dẫn tới các vụ kiện cáo sau
này…Tuy nhiên, khi xã hội ngày càng phát triển, tiến bộ và dân chủ hơn,
nhu cầu được công khai về giới và được sống thật với chính mình được đặt
ra và chú trọng nhiều hơn.
Trong một vài năm trở lại đây, vấn đề quyền của cộng đồng người
chuyển giới đã có thêm nhiều cơ hội được giải quyết tại Việt Nam. Năm
2015, Bộ Y tế Việt Nam cho biết đã nhận được gần 600 hồ sơ cá nhân đề
xuất sửa đổi giới tính mới sau khi họ đã thực hiện phẫu thuật chuyển giới.
Ngày 24 tháng 11 năm 2015, Quốc hội thông qua Bộ luật dân sự (sửa đổi),
trong đó có quy định về chuyển đổi giới tính và các quyền, nghĩa vụ liên
quan. Luật có hiệu lực thi hành từ đầu năm 2017.
Nghiên cứu của Viện nghiên cứu xã hội, kinh tế và môi trường (iSEE)
cho thấy cứ 5 người chuyển giới thì sẽ có khoảng 4 người có nhu cầu muốn
phẫu thuật chuyển đổi giới tính. Số còn lại không muốn vì các lí do: pháp
8
luật chưa cho phép (51,9%); điều kiện kinh tế chưa đủ (79,6%); sợ bị ảnh
hưởng sức khỏe (38,5%); sợ bị kì thị (17%); gia đình không cho phép
(42,7%).8
Nội dung điều 37 cho thấy, quyền lợi chỉ thuộc về những người đã phẫu
thuật chuyển giới. Trong khi đó, trong cộng đồng người chuyển giới có rất
nhiều người không có mong muốn hoặc không đủ điều kiện để phẫu thuật
chuyển giới, nhưng họ vẫn mong muốn được sống với giới tính thật sự của
mình và được khai họ tên, hưởng các quyền nhân thân theo đúng giới tính
đó. Tuy nhiên, Điều 37 BLDS năm 2015 vẫn chưa công nhận điều này.
Trên thực tế, có không ít người dù rằng ý thức được bản dạng giới của
mình nhưng ý chí không muốn phẫu thuật vì các lí do khác nhau. Ví dụ như
trường hợp của Nguyễn Ngọc Tú, là một người chuyển giới khá nổi tiếng
trong cộng đồng đồng tính, song tính và chuyển giới ở Việt Nam, với nick
name Tú Lơ Khơ.
Theo Tú, anh không có ý định phẫu thuật chuyển giới hoàn toàn vì cuộc
phẫu thuật bộ phận sinh dục từ nữ sang nam tốn rất nhiều tiền bạc và tỉ lệ
thành công ở mức thấp hơn từ nam sang nữ. Mặt khác, phẫu thuật chuyển
giới hoàn toàn đồng nghĩa với việc phải hy sinh nhiều năm tháng tuổi thọ
nên anh không muốn làm vì rủi ro quá lớn.
V.
Giải pháp
- Từ trường hợp cụ thể của Tú ở trên, có thể thấy trong các văn bản quy
phạm pháp luật sẽ được xây dựng, nhất thiết phải đề cập đến các vấn đề
như: Điều kiện được chuyển đổi giới tính, dựa về y tế để nhận biết người
nào cần chuyển đổi giới tính; Mức độ phẫu thuật chuyển giới để được pháp
luật thừa nhận quyền nhân thân theo giới tính…
8 />
9
- Việc chuyển đổi giới tính trực tiếp ảnh hưởng đến quyền nhân thân,
quyền mưu cầu hạnh phúc và các quyền khác về hôn nhân- gia đình nên các
văn bản quy phạm pháp luật cần làm rõ các vấn đề liên quan như:
Một người đã thực hiện chuyển đổi giới tính, sau một thời gian thấy
không phù hợp có được chuyển đổi trở lại giới tính khi sinh ra không;
Người đã có gia đình, con cái có được chuyển giới tính hay không vì theo
pháp luật Hôn nhân- gia đình điều này sẽ phá vỡ mô hình đã được luật định:
“ Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới
tính.”9; Người đã chuyển giới có quyền kết hôn hợp pháp hay không…
C.
KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Có thể thấy rằng, quy định về việc chuyển đổi giới tính đã đáp ứng nhu
cầu của một bộ phận trong xã hội, giúp cho vấn đề pháp lý của các ngành
luật khác có thể dễ dàng giải quyết hơn. Tuy nhiên, việc chuyển đổi giới
tính vẫn chưa phải là quyền của con người và tuy có hiệu lực nhưng vẫn
chưa được thực hiện vì cần một văn bản luật hoản chỉnh quy định cụ thể về
điều kiện và cách thức thực hiện. Đến đây, em xin kết thúc bài làm của
mình. Bài làm của em còn thiếu sót vì thế em rất mong nhận được những ý
kiến đóng góp quý báu của thầy cô.
9 Khoản 2 Điều 8 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014
10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
PGS.TS.Nguyễn Văn Cừ - PGS.TS Trần Thị Huệ (2016), Bình luận
khoa học bộ môn Luật dân sự năm 2015 của nước Cộng hòa xã hội
2.
3.
chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Công an Nhân dân.
Luật hộ tịch năm 2014.
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
4.
Nghị định 88/2008/NĐ-CP về việc xác định lại giới tính.
11
5.
Nguyễn Thị Hồng Ngọc và Nguyễn Đức Long (2015), “Ghi nhận
quyền chuyển đổi giới tính của người chuyển giới trong BLDS Việt
Nam”, Đề tài nghiên cứu khoa học, trường Đại học Luật Hà Nội.
6.
TS. Nguyễn Minh Tuấn (2016), Bình luận khoa học bộ môn Luật dân
sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015, Nxb. Tư
pháp.
7.
/>
8.
ItemID=1683
/>
9.
/>
10.
/>
11.
xay-dung-luat-chuyen-nganh-20151128120431614.htm
/>
12.
nhung-chua-duoc-thuc-hien/646621.antd
/>
12