Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Hoàn thiện pháp luật về quyền chuyển đổi giới tính ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 118 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VŨ THỊ NGỌC ANH

HOµN THIÖN PH¸P LUËT VÒ QUYÒN CHUYÓN §æI GIíI TÝNH
ë VIÖT NAM HIÖN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VŨ THỊ NGỌC ANH

HOµN THIÖN PH¸P LUËT VÒ QUYÒN CHUYÓN §æI GIíI TÝNH
ë VIÖT NAM HIÖN NAY
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp - Luật Hành chính
Mã số: 60 38 01 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS VŨ CÔNG GIAO

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
QUYỀN CHUYỂN ĐỔI GIỚI TÍNH ........................................................6
1.1.

Khái niệm, đặc điểm của việc chuyển đổi giới tính ..................................6

1.1.1.

Khái niệm chuyển đổi giới tính và người chuyển giới ..................................6

1.1.2.


Đặc điểm của chuyển đổi giới tính................................................................8

1.2.

Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và sự cần thiết của việc thừa nhận
quyền chuyển đổi giới tính........................................................................12

1.2.1.

Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của quyền chuyển đổi giới tính ...................12

1.2.2.

Sự cần thiết của việc thừa nhận quyền chuyển đổi giới tính .......................16

1.3.

Điều kiện đảm bảo quyền chuyển đổi giới tính ......................................21

1.3.1.

Điều kiện chính trị .......................................................................................21

1.3.2.

Điều kiện kinh tế .........................................................................................22

1.3.3.


Điều kiện pháp lý ........................................................................................22

1.3.4.

Điều kiện văn hóa- xã hội ...........................................................................23

1.4.

Quyền chuyển đổi giới tính trong pháp luật quốc tế .............................23

1.5.

Quyền chuyển đổi giới tính trong pháp luật của một số quốc gia ........25

Kết luận chương 1 ...................................................................................................33
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CHUYỂN ĐỔI GIỚI
TÍNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ...................................................................34
2.1.

Khung chính sách, pháp luật hiện hành của Việt Nam liên quan
đến quyền chuyển đổi giới tính .................................................................34

2.1.1.

Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam liên quan đến
quyền chuyển đổi giới tính ...........................................................................34


2.1.2.


Thực trạng pháp luật liên quan đến quyền chuyển đổi giới tính ở Việt
Nam hiện nay ..............................................................................................35

2.2.

Tình hình thực thi pháp luật về quyền chuyển đổi giới tính ở Việt
Nam hiện nay .............................................................................................60

2.2.1.

Kết quả đạt được trong việc đảm bảo quyền chuyển đổi giới tính và
nguyên nhân ................................................................................................60

2.2.2.

Những hạn chế trong việc đảm bảo quyền chuyển đổi giới tính và
nguyên nhân ................................................................................................64

Kết luận chương 2 ...................................................................................................72
Chương 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
QUYỀN CHUYỂN ĐỔI GIỚI TÍNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .......73
3.1.

Quan điểm hoàn thiện pháp luật về quyền chuyển đổi giới tính ở Việt
Nam hiện nay ..............................................................................................73

3.2.

Giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền chuyển đổi giới tính ở
Việt Nam hiện nay .....................................................................................76


3.2.1.

Nhóm giải pháp hoàn thiện cơ chế, chính sách ...........................................76

3.2.2.

Nhóm giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật .....................................79

3.2.3.

Nhóm giải pháp về mặt xã hội ....................................................................82

3.2.4.

Góp ý cụ thể về xây dựng Luật chuyển đổi giới tính ..................................87

3.2.5.

Góp ý cụ thể về sửa đổi, bổ sung một số văn bản pháp luật khác liên
quan đến quyền chuyển đổi giới tính ..........................................................99

KẾT LUẬN ............................................................................................................106
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................108


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

AICHR


Ủy ban liên chính phủ về quyền con người ASEAN

BLDS

Bộ luật dân sự

CCIHP

Trung tâm sáng kiến sức khỏe và dân số

CHXHCN

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

ICCPR

Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị

ICESCR

Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa

ICS

Tổ chức xã hội dân sự của người đồng tính, song tính và chuyển giới

ISEE

Viện nghiên cứu xã hội, kinh tế và môi trường


LGBT

Cộng đồng người đồng tính, song tính và chuyển giới

LHQ

Liên hợp quốc

UDHP

Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người

UNDP

Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc

UPR

Đánh giá định kỳ toàn cầu


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền chuyển đổi giới tính (hay còn gọi là “quyền chuyển giới”) là một
quyền nhân thân đặc biệt của con người. Cùng với các quyền khác của nhóm những
người đồng tính, song tính, chuyển giới (LGBT), quyền chuyển đổi giới tính đã
được ghi nhận trong luật nhân quyền quốc tế và pháp luật của nhiều quốc gia.
Ở Việt Nam, phong trào vận động cho các quyền của nhóm LGBT nổi lên rất
mạnh trong khoảng một thập kỷ gần đây. Ngày càng có nhiều người chuyển giới
công khai hoá bản dạng giới và xu hướng tính dục của mình, tác động lớn đến nhận

thức của xã hội. Chuyển đổi giới tính hiện đã được thừa nhận như là một nhu cầu
của một nhóm trong xã hội – những người có xu hướng tình dục khác biệt và muốn
sống, thể hiện đúng với giới tính mà họ cảm nhận chứ không phải là với vỏ bọc
hình thể bên ngoài.
Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013 đã có những quy định bổ
sung rất tiến bộ về quyền con người, trong đó khẳng định nhà nước tôn trọng, bảo
vệ và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế,
văn hóa, xã hội (Điều 14), và quyền của mọi người được bình đẳng trước pháp luật,
không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã
hội (Điều 16). Thêm vào đó, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã bổ sung quy định tại Điều
36 và Điều 37, trong đó khẳng định cá nhân có quyền xác định lại giới tính và việc
chuyển đổi giới tính được thực hiện theo quy định của luật. Cá nhân đã chuyển đổi
giới tính có quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật về
hộ tịch; có quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được chuyển đổi theo quy định
của Bộ luật này và luật khác có liên quan.
Mặc dù vậy, pháp luật của Việt Nam vẫn thiếu nhiều quy định cụ thể để bảo
đảm thực hiện quyền được chuyển đổi giới tính. Vì vậy, giống như ở nhiều quốc gia
khác trên thế giới, trong thực tế ở nước ta những người chuyển giới vẫn thường bị
phân biệt đối xử, cả bên ngoài xã hội, ở nơi làm việc và trong gia đình. Thực trạng

1


đó đặt ra yêu cầu cần phải nghiên cứu hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về quyền
chuyển đổi giới tính ở nước ta.
Trong thời gian qua ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề
quyền của LGBT nhưng vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu và toàn
diện về vấn đề quyền chuyển đổi giới tính. Vì vậy, học viên quyết định lựa chọn đề
tài “Hoàn thiện pháp luật về quyền chuyển đổi giới tính ở Việt Nam hiện nay” để
thực hiện luận văn thạc sỹ của mình, với mong muốn góp phần thúc đẩy quyền này

ở nước ta trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm vừa qua tại Việt Nam đã có khá nhiều nghiên cứu liên
quan đến vấn đề quyền được chuyển đổi giới tính được thực hiện, trong đó tiêu biểu
có thể kể như:
- Nghiên cứu về tình hình nhóm LGBT trong đó có người chuyển giới, bao
gồm: Nghiên cứu trực tuyến đặc điểm nhân khẩu, xã hội của nam giới có quan hệ
đồng giới ở Việt Nam của Nguyễn Cường Quốc thực hiện năm 2009; Tình dục trong
xã hội Việt Nam đương đại của Khuất Thu Hồng, Lê Bạch Dương, Nguyễn Ngọc
Hưởng năm 2009; Sống trong một xã hội dị tính: Câu chuyện từ 40 người nữ yêu nữ
do Nguyễn Quỳnh Trang, Nguyễn Thu Thủy, Nguyễn Thu Nam, Lê Quang Bình
thực hiện năm 2010; Thực trạng trẻ em đường phố LGBT của Nguyễn Thu Hương,
Nguyễn Thị Thu Nam, ICS và Tổ chức cứu trợ trẻ em quốc tế thực hiện năm 2012;
Gender Crossing in Viet Nam: Yesterday and Today của Nguyễn Thu Hương năm
2012... Những nghiên cứu này đã phác họa nên bức tranh tổng quát về cộng đồng
người chuyển giới tại Việt Nam về cơ cấu độ tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp
cũng như quá trình nhận thức xu hướng tính dục; những nhu cầu cơ bản trong cuộc
sống, tình yêu, tình dục... Kết quả nghiên cứu đã đóng góp một phần không nhỏ
trong việc nâng cao nhận thức của cộng đồng, xóa bỏ những định kiến và kỳ thị đối
với nhóm người yếu thế, dễ tổn thương này.
-Nghiên cứu về những khó khăn, thách thức và nguy cơ đối với nhóm người
chuyển giới, bao gồm: Tổng quan về kỳ thị với người LGBT của Vũ Hồng Phong

2


năm 2010; Khảo sát hình ảnh LGBT trên báo chí do Viện nghiên cứu kinh tế, xã hội
và môi trường iSEE (Viện iSEE) hợp tác với Học viện báo chí thực hiện năm 2011;
Kỳ thị và phân biệt đối xử của nhân viên y tế qua cung cấp dịch vụ y tế cho nam
quan hệ tình dục đồng giới của nhóm tác giả Trần Thành Nam năm 2011; Khảo sát

thái độ xã hội đối với người đồng tính của nhóm tác giả Nguyễn Thị Thu Nam năm
2012; Bạo lực với những người đồng tính nam và chuyển giới do CCIHP và
UNAIDS thực hiện năm 2011; Bạo lực và phân biệt đối xử với LGBT trong trường
học của CCIHP năm 2012; Khát vọng được là chính mình: Những vấn đề thực tiễn
và pháp lý với người chuyển giới của nhóm tác giả Phạm Quỳnh Phương thực hiện
năm 2012... Những công trình này đã chỉ ra những hình thức bạo lực dựa trên xu
hướng tính dục và bản dạng giới, phổ biến nhất là bạo lực thể xác, bạo lực tâm lý,
bạo lực tình dục và các hình thức ép người chuyển giới đi chữa bệnh tâm thần.
-Nghiên cứu về pháp luật về chuyển đổi giới tính: Những nghiên cứu theo
hướng này hiện mới rất ít. Một công trình toàn diện, trực tiếp nhất là cuốn kỷ yếu
hội thảo khoa học Pháp luật về chuyển đổi giới tính trên thế giới và kinh nghiệm
cho Việt Nam do Khoa Luật ĐHQG tổ chức năm 2016. Cuốn kỷ yếu này bao gồm
12 bài viết đề cập đến các vấn đề khác nhau của quyền chuyển giới ở trên thế giới
và ở Việt Nam. Các bài viết này đã tiếp cận vấn đề quyền chuyển đổi giới tính từ
nhiều góc độ và đã làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền chuyển đổi
giới tính. Đây là nguồn tư liệu hữu ích nhất cho học viên triển khai nghiên cứu đề
tài luận văn này.
Tuy nhiên, hiện vẫn còn rất nhiều khía cạnh về quyền chuyển đổi giới tính
chưa được làm rõ ở Việt Nam. Những nghiên cứu trực tiếp về vấn đề này hiện còn
rất ít, và kết quả nghiên cứu mới chỉ là những phát hiện, phân tích ban đầu. Vì vậy,
luận văn này sẽ góp phần bổ sung, làm sâu sắc thêm cơ sở lý luận khoa học về vấn
đề quyền chuyển đổi giới tính ở Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn có mục tiêu tổng quát là phân tích thực trạng pháp luật, xây dựng

3


luận cứ khoa học và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về

quyền chuyển đổi giới tính, qua đó thúc đẩy sự bảo đảm quyền nhân thân quan
trọng này của người chuyển giới ở Việt Nam trong những năm tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nêu trên đề ra, luận văn có nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa, phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và cơ sở pháp lý
quốc tế, quốc gia về quyền chuyển đổi giới tính.
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam và thực tiễn thực hiện
quyền chuyển đổi giới tính ở nước ta. Xác định nguyên nhân của những thành tựu,
hạn chế trong vấn đề này.
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về quyền
chuyển đổi giới tính ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và khuôn khổ
pháp luật về quyền chuyển đổi giới tính ở Việt Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp
lý về quyền chuyển đổi giới tính, không mở rộng sang quyền khác của nhóm LGBT.
Về không gian, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu quyền chuyển đổi giới tính
trong pháp luật Việt Nam. Việc đề cập đến luật quốc tế và pháp luật của các quốc
gia khác chỉ nhằm so sánh, tham khảo.
Về thời gian, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những thay đổi trong pháp
luật liên quan đến quyền chuyển đổi giới tính ở Việt Nam trong thời gian 5 năm gần
đây (2011-2017). Đây là khoảng thời gian mà vấn đề quyền con người của nhóm
LGBT được quan tâm và có những phát triển quan trọng ở nước ta.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng các phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Liên hợp
quốc và của Đảng, Nhà nước Việt Nam về quyền con người, quyền công dân.


4


Luận văn kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu phổ biến của khoa
học xã hội để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, cụ thể như sau:
- Các phương pháp tổng hợp, phân tích các công trình nghiên cứu hiện có và
các tài liệu khác để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về quyền chuyển đổi giới tính
ở nước ta hiện nay (ở Chương 1).
- Các phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh các tài liệu, báo
cáo chuyên môn của các cơ quan, tổ chức có liên quan để đánh giá thực trạng và
những thay đổi trong pháp luật về quyền chuyển đổi giới tính ở nước ta trong 5 năm
gần đây (ở Chương 2).
- Các phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh để đề xuất các quan điểm,
giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền chuyển đổi giới tính ở nước ta trong
thời gian tới (ở Chương 3).
6. Tính mới và những đóng góp về lý luận, thực tiễn của đề tài
Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên có tính toàn diện, chuyên sâu về
pháp luật về quyền chuyển đổi giới tính ở nước ta trong những năm gần đây. Luận
văn cũng là một trong số rất ít công trình nghiên cứu về phương diện pháp lý của
việc bảo đảm các quyền con người của nhóm LGBT ở nước ta từ trước đến nay.
Vì vậy, luận văn cung cấp những kiến thức, thông tin, luận điểm và đề xuất
mới có giá trị tham khảo với các cơ quan nhà nước trong việc hoàn thiện pháp luật
về quyền chuyển đổi giới tính ở nước ta trong thời gian tới.
Bên cạnh đó, luận văn có thể được sử dụng là nguồn tài liệu tham khảo cho
việc giảng dạy, nghiên cứu về nhân quyền ở Khoa Luật ĐHQG Hà Nội và các cơ sở
đào tạo khác của nước ta.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung luận văn chia làm 3 chương.
Chương 1. Những vấn đề lý luận về quyền chuyển đổi giới tính

Chương 2. Thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về quyền chuyển đổi
giới tính ở Việt Nam hiện nay
Chương 3. Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền chuyển
đổi giới tính ở Việt Nam hiện nay.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CHUYỂN ĐỔI GIỚI TÍNH
1.1. Khái niệm, đặc điểm của việc chuyển đổi giới tính
1.1.1. Khái niệm chuyển đổi giới tính và người chuyển giới
Sự cải thiện, nâng cao về chất lượng cuộc sống kéo theo sự quan tâm ngày
càng sâu sắc của toàn xã hội đến các quyền nhân thân của con người, đặc biệt là các
quyền liên quan đến giới tính. Giới tính là những khác biệt về mặt sinh học và biểu
hiện xã hội giữa những người mang giới tính nam và giới tính nữ [42]. Sự khác biệt
về mặt sinh học giữa nam giới và nữ giới thể hiện qua cơ quan sinh dục, khuôn mặt,
hình dáng cơ thể, hoóc-môn (kích thích tố giới tính) và nhiễm sắc thể [42].
Thuật ngữ giới tính hay bị nhầm lẫn với thuật ngữ giới [42]. Giới là sự khác
biệt về mặt xã hội giữa nữ giới và nam giới, ví dụ như: Vai trò, thái độ, hành vi ứng
xử và các giá trị. Vai trò giới được biết đến thông qua quá trình dạy dỗ, học tập và
có sự khác nhau theo từng nền văn hóa, từng thời kỳ; do vậy, giới có thể thay đổi
được; ví dụ, nữ thường để tóc dài, nam thường để tóc ngắn. Như vậy, giới là yếu tố
thuộc cảm nhận, mong muốn của mỗi cá nhân, suy nghĩ của người đó về mình là
nam hay nữ; còn giới tính là sự thể hiện bên ngoài của giới thông qua các cấu tạo bộ
phận trên cơ thể [13]. Sự biểu hiện của giới tính so với giới có thể thống nhất hoặc
khác biệt. Khi giới và giới tính không thống nhất, cá nhân thường có mong muốn
được chuyển đổi giới tính, tức là thay đổi cấu tạo, hình dáng các bộ phận trên cơ thể
cho phù hợp với cảm nhận, suy nghĩ của mình [13].

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc có những người đến một thời điểm nào
đó tự nhận giới tính của mình khác với giới tính khi sinh ra, bao gồm các yếu tố
sinh học như ảnh hưởng bởi gien, mức độ nội tiết trước khi mang thai, những trải
nghiệm trong thời niên thiếu hay khi trưởng thành... [12]. Nhiều nghiên cứu cho
thấy, một người chuyển giới thường có cảm nhận về giới tính của bản thân mình từ
khá sớm, từ 3-5 tuổi, song việc công khai nhận mình là giới tính khác còn phụ thuộc
vào kiến thức của từng cá nhân cũng như sự cởi mở của mỗi xã hội [12].

6


Chuyển đổi giới tính (chuyển giới), theo nghĩa giản dị nhất, chỉ quá trình mà
một con người hay động vật thay đổi từ giới tính đang được mặc định sang giới tính
mới. Đây là quá trình xảy ra một cách tự nhiên ở một số loài, song ở con người thì
thường phải thông qua một quy trình với các biện pháp can thiệp khác nhau và
thường là diễn biến theo từng phần cho đến sự thay đổi hoàn toàn. Các biện pháp
can thiệp quan trọng nhất bao gồm tiêm/sử dụng hormone (hormone replacement
therapy) và phẫu thuật chuyển đổi giới tính (sex reassignment surgery) [12]. Phẫu
thuật chuyển đổi giới tính là bắt buộc đối với những người có bản dạng giới khác
với giới tính sinh học để có thể có một cơ thể hoàn toàn phù hợp với giới tính mong
muốn của mình.
Chuyển giới không đồng nhất với đồng tính mặc dù thường bị xem là một [12].
Người chuyển giới là người có giới tính mong muốn khác với giới tính lúc sinh ra,
ví dụ như sinh ra là nam và nghĩ mình là nữ hoặc sinh ra là nữ và nghĩ mình là
nam [34, tr.1]. Chuyển giới liên quan tới cảm nhận về giới tính (“nghĩ mình là ai”),
còn đồng tính là khái niệm chỉ sự hấp dẫn tình cảm (“cảm thấy yêu ai”), vì vậy
chuyển giới và đồng tính là khác nhau [34, tr.1]. Về mặt biểu hiện, không phải người
chuyển giới nào cũng thể hiện ra bên ngoài đúng như giới tính mình mong muốn (ví
dụ: nam ăn mặc và hành xử như nữ, hay nữ ăn mặc và hành xử như nam) [29, tr.1].
Chuyển giới cũng không gắn liền với sự bất thường của bộ phận sinh dục,

mặc dù các yếu tố sinh học có ảnh hưởng nhiều tới người chuyển giới, đa phần họ
vẫn hoàn chỉnh về mặt bộ phận sinh dục [29, tr.2]. Trong y học, những người sinh
ra với tình trạng bộ phận sinh dục không xác định rõ là nam hay nữ được gọi là
người liên giới tính. Chính vì vậy, người chuyển giới không nhất thiết là người phải
trải qua phẫu thuật. Định nghĩa về chuyển giới chỉ là cảm nhận bên trong về giới
tính của họ, còn việc phẫu thuật hay chưa phụ thuộc nhiều vào điều kiện kinh tế,
sức khỏe, nhu cầu cá nhân của từng người [29, tr.1].
Người chuyển giới (transgender) còn được gọi là người hoán tính. Khái
niệm người chuyển giới chỉ trạng thái tâm lý giới tính của một người không phù
hợp với giới tính của cơ thể, chẳng hạn, một người sinh ra với cơ thể nam nhưng

7


cảm nhận giới tính mình là nữ hoặc một người sinh ra với cơ thể nữ nhưng lại cảm
nhận giới tính của mình là nam. Cảm nhận này không phụ thuộc vào việc người đó
có làm phẫu thuật chuyển đổi giới tính hay chưa. Trong trường hợp người chuyển
giới mà thực hiện phẫu thuật theo giới tính mình mong muốn gọi là người chuyển
giới đã phẫu thuật [29, tr.1] người chuyển giới hoàn toàn độc lập với thiên hướng
tình dục. Họ có thể thuộc xu hướng tình dục dị tính, đồng tính hoặc song tính luyến
ái...một số khác có thể xem xét định hướng tình dục thông thường không đầy đủ
hoặc không áp dụng đối với họ [12].
Trong tài liệu của Viện iSEE, tổ chức này định nghĩa: “Người chuyển giới là
người có giới tính mong muốn không trùng với giới tính khi sinh ra, không phụ thuộc
tình trạng cơ thể đã phẫu thuật hay chưa” [13]. Bên cạnh đó, tổ chức này cũng đưa ra
khái niệm cụ thể về người chuyển giới nữ và người chuyển giới nam, theo đó:
“Người chuyển giới nữ là người sinh ra là nam và có giới tính tự nhận, nghĩ rằng
mình là nữ” [13]; “Người chuyển giới nam là người sinh ra là nữ và có giới tính tự
nhận, nghĩ rằng mình là nam” [14]. Theo những định nghĩa này, việc xác định một cá
nhân là người chuyển giới chỉ phụ thuộc vào suy nghĩ, cảm nhận và sự tự nhận của

chính họ, không phụ thuộc vào các thủ tục y khoa và thủ tục pháp lý [12].
Những người chuyển giới được mô tả là những người khi sinh ra đã mang sẵn
một giới tính sinh học (dựa vào cơ quan sinh dục để phân biệt), nhưng tâm lý của
những người này cảm nhận rằng giới tính của họ không giống với giới tính mà thể
xác của họ đang có. Không phải tất cả những người chuyển giới đều muốn thay đổi
cơ thể họ, mặc dù một số khác thì cảm thấy mong muốn điều này. Tuy nhiên, hầu hết
những người chuyển giới đều mong muốn thiết lập một vai trò xã hội phù hợp với
giới tính mà tâm lý của họ tự xác định [30, tr.2]. Tóm lại, có thể hiểu người chuyển
giới là một khái niệm rộng, dùng để chỉ tất cả những người có bản dạng giới, thể hiện
giới không giống với những chuẩn mực tương ứng với giới tính sinh học của họ.
1.1.2. Đặc điểm của chuyển đổi giới tính
Chuyển đổi giới tính là một vấn đề phức tạp và là quyết định rất khó khăn
đối với những người chuyển giới.

8


Nhận thức thông thường trong xã hộ nhấn mạnh đến yếu tố phẫu thuật để
chuyển đổi giới tính: “Chuyển đổi giới tính chỉ những thủ tục y khoa dùng để thay
đổi giới tính của một người trong đó có thể bao gồm phẫu thuật chuyển đổi giới tính
hay không” [28]. Hiểu theo quan điểm này, việc chuyển đổi giới tính chỉ đơn thuần
là sự tác động về mặt y học vào cơ thể con người, sau khi kết thúc các thủ tục đó họ
sẽ được thừa nhận là người chuyển đổi giới tính mà không cần bất cứ một sự ghi
nhận nào từ phía Nhà nước. Cách hiểu này là chưa chính xác, vì mỗi cá nhân trong
xã hội đều là chủ thể tham gia vào các quan hệ pháp luật nên việc chỉ bao gồm các
thủ tục y khoa là chưa đầy đủ. Việc các cá nhân đã tiến hành phẫu thuật chuyển đổi
giới tính mà chưa được thực hiện các thủ tục pháp lý sẽ làm mất đi ý nghĩa của các
thủ tục y khoa vì họ sẽ không thể tham gia vào các quan hệ xã hội với tư cách mới.
Theo quan điểm tác giả, cần phải nhìn nhận một cách tổng thể, chuyển đổi
giới tính không chỉ bao gồm các thủ tục y khoa mà còn có cả những thủ tục pháp lý,

trong đó thủ tục y khoa là tiền đề và là cơ sở để tiến hành các thủ tục pháp lý.
Những thủ tục y khoa ở đây có thể bao gồm việc tiến hành xét nghiệm, kiểm tra,
phẫu thuật, sử dụng nội tiết tố... để thay đổi về mặt hình dạng theo đúng giới tính
mà họ mong muốn. Việc thay đổi hình dáng cơ thể, bộ phận sinh dục chỉ mới giải
quyết về mặt “hình thức” bởi những cá nhân này cần phải tiến hành các thủ tục pháp
lý cần thiết để chính thức được thừa nhận, được tham gia vào những quan hệ xã hội
với tư cách của một chủ thể mới. Thủ tục pháp lý bao gồm thay đổi trên giấy tờ
nhân thân và các giấy tờ liên quan tại các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm
xác nhận một sự kiện pháp lý về thay đổi giới tính của họ.
Khái niệm chuyển đổi giới tính còn hay bị nhầm lẫn, đánh đồng với khái
niệm xác định lại giới tính. Xác định lại giới tính là một quyền nhân thân được quy
định tại Điều 36 Bộ luật Dân sự năm 2015, cụ thể: “... Việc xác định lại giới tính
của một người được thực hiện trong trường hợp người đó bị khuyết tật bẩm sinh
hoặc chưa định hình chính xác mà cần có sự can thiệp của y học nhằm xác định rõ
về giới tính”. Trong đó, khuyết tật bẩm sinh về giới tính là những bất thường ở bộ
phận sinh dục của một người ngay từ khi mới sinh ra, biểu hiện ở một trong các

9


dạng như nữ lưỡng giới giả nam, nam lưỡng giới giả nữ hoặc lưỡng giới thật; còn
giới tính chưa được định hình chính xác là những trường hợp chưa thể phân biệt
được một người là nam hay nữ xét cả về bộ phận sinh dục và nhiễm sắc thể giới tính
(khoản 1,2 Điều 2 Nghị định số 88/2008/NĐ-CP ngày 05/8/2008 của Chính phủ về
xác định lại giới tính). Pháp luật hiện hành chỉ cho phép xác định lại giới tính trong
các trường hợp có khuyết tật bẩm sinh hoặc giới tính chưa được định hình chính
xác. Đối với các cá nhân đã hoàn thiện về giới tính thì không được quyền xác định
lại giới tính (khoản 1 Điều 4 Nghị định số 88/2008/NĐ-CP nêu trên).
Điểm khác biệt cơ bản nhất giữa xác định lại giới tính với chuyển đổi giới
tính là xác định lại giới tính được thực hiện trong trường hợp có khuyết tật bẩm sinh

hoặc chưa định hình chính xác về giới tính. Những người này hoàn toàn nhận thức
được giới tính đích thực của mình là nam hay nữ. Đối với người chuyển đổi giới
tính thì họ lại có cấu tạo sinh học hoàn chỉnh và việc chuyển đổi giới tính là xuất
phát từ nhu cầu sống với đúng cảm nhận, suy nghĩ và tình cảm của con người họ.
Ở nước ta trước đây, trong bối cảnh khó khăn về kinh tế và quan niệm xã hội
khắt khe về chuẩn mực khiến rất nhiều người đồng tính, người song tính, người
chuyển giới không dám công khai xu hướng tính dục của mình. Nói cách khác, trước
đây các vấn đề thuộc về cá nhân, trong đó có xu hướng tính dục và bản dạng giới, bị
che khuất hoặc lu mờ đi trước những đòi hỏi khắc nghiệt của cuộc sống [28, tr.11].
Mặc dù thời gian gần đây, cùng với sự phát triển nhanh của cuộc cách mạng công
nghệ thông tin, cũng như sự giao lưu với văn hoá phương Tây đã dẫn tới sự biến đổi
mạnh mẽ trong thái độ và hành vi của người dân đối với nhiều vấn đề xã hội, trong
đó có quyền được sống thật với giới tính của mình, tuy nhiên, những gì mà xã hội
biết về người đồng tính, song tính, chuyển giới hầu như chỉ giới hạn trong những
phóng sự, bài viết hoặc bản tin có tính chất “phát hiện” được đăng tải trên các
phương tiện truyền thông. Trong một số trường hợp, mục đích của những sản phẩm
truyền thông là nhằm làm thoả mãn tính hiếu kỳ của độc giả, hơn là hướng họ tới sự
hiểu biết nghiêm túc và nhân văn về người đồng tính [33, tr.2]. Vì vậy, thái độ của
xã hội đối với người đồng tính, người song tính, người chuyển giới diễn ra khá đa

10


dạng dưới nhiều hình thức và hoàn cảnh khác nhau. Điều này tạo ra rất nhiều trở
ngại, thách thức về tâm lý đối với người chuyển giới.
Trước hết là trong gia đình, nhiều người chuyển giới thường gặp khó khăn
trong việc công khai với gia đình về giới tính của mình vì sợ người thân trong gia
đình thất vọng và có cái nhìn khác về nhân cách của họ. Trên thực tế, các bậc cha
mẹ khi phát hiện con mình là người đồng tính hay chuyển giới thường cảm thấy bị
sốc và nhiều người có những phản ứng gay gắt dẫn đến những hành động sai lầm.

Những phản ứng đó tuy thường xuất phát từ tình thương con, song trong nhiều
trường hợp xuất phát từ sự kì vọng mà cha mẹ đặt quá lớn vào con cái mình. Mặc
dù vậy, trong mọi trường hợp đều có điểm chung là những hạn chế về mặt kiến thức
liên quan đến người chuyển giới [25, tr.3].
Hơn nữa, việc pháp luật nước ta hiện nay chỉ thừa nhận trong xã hội chỉ có
hai nhóm giới tính (nam và nữ) đã dẫn đến những hậu quả là những người có bản
dạng giới và xu hướng tính dục khác biệt có cảm giác bị bỏ rơi, không được tôn
trọng. Việc này cũng dẫn tới những trường hợp các bậc cha mẹ vì lo lắng cho con
mình nên có thể có những hành vi cấm đoán hoặc kiểm soát dẫn đến đánh đập, xích,
nhốt, hoặc cấm đoán khác [25, tr.71]. Những hành vi bạo lực để lại những hậu quả
nghiêm trọng về tâm lý như trầm cảm, lo sợ thậm chí là có ý định tự tử hoặc hành vi
tự tử. Những người cho rằng đồng tính và chuyển giới là bệnh, bị “ma ám” thì
thường tìm cách chữa bệnh. Một số khác thì giam lỏng con mình không cho tiếp
xúc với người cùng giới và ép con mình cưới người khác giới. Một số khác thì gay
gắt đánh đập, chửi bới và thậm chí là đuổi con ra khỏi nhà vì cho là nó làm ảnh
hưởng đến danh dự gia đình, dòng họ [25, tr.7].
Sự phân biệt đối xử và kì thị trong cộng đồng với người chuyển giới diễn ra
dưới nhiều hình thức khác nhau nhất là về việc làm, chăm sóc y tế, giáo dục, bảo trợ
xã hội… làm cho họ có thể không được tuyển dụng, thăng tiến và trả thù lao bình
đẳng như những người bình thường. Về giáo dục, y tế, họ thường nhận thái độ cư
xử kỳ thị như dè bỉu, mỉa mai, dùng những lời nói cai nghiệt làm nhục, những
trường hợp nặng hơn là trêu ghẹo thậm chí có thể là bạo hành [25, tr.9].

11


Một trong những nguyên nhân của định kiến xã hội về người chuyển giới
nằm ở thông điệp truyền thông, bởi hầu như mọi cá nhân trong xã hội đều tiếp
nhận thông tin qua các phương tiện truyền thông và chịu ảnh hưởng của các thông
điệp truyền thông đến việc hình thành thế giới quan. Những thông điệp mang định

kiến hoặc thiếu tính khoa học về người chuyển giới có thể tạo ra hay củng cố
những nhận thức sai lệch và thái độ kỳ thị. Một số tác phẩm báo chí trên các
phương tiện truyền thông đã góp phần phác họa nên những hình ảnh sai lệch,
phiến diện và định kiến v người chuyển giới. Họ sử dụng ngôn ngữ làm tăng định
kiến với nhóm đồng tính, song tính và chuyển giới như: pêđê, bóng, xăng pha
nhớt, bệnh hoạn, lại gái, ô môi [25, tr.9].
Người chuyển giới là một nhóm người có xu hướng tính dục thiểu số trong
xã hội. Họ không bị bệnh nên không thể chữa trị và xu hướng tính dục này không
thể lây lan. Họ là người bình thường và xu hướng tính dục của họ tồn tại một cách
tự nhiên ngay từ khi sinh ra; môi trường sống, giáo dục không ảnh hưởng đến sự
hình thành và phát triển của người chuyển giới trong xã hội. Tuy nhiên, vì xu hướng
tính dục của họ khác phần lớn mọi người trong xã hội nên hiện nay họ đang bị xã
hội kỳ thị, không tôn trọng cũng như không được đảm bảo các quyền con người tối
thiểu (như kết hôn, bình đẳng trong công việc, được hưởng thừa kế khi bạn đời
mình chết…). Vì vậy, pháp luật cần có những quy định cụ thể để họ có cơ hội bình
đẳng như những người khác trong xã hội, quyền lợi của họ được bảo vệ.
1.2. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và sự cần thiết của việc thừa nhận
quyền chuyển đổi giới tính
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của quyền chuyển đổi giới tính
Quyền chuyển đổi giới tính là một quyền con người dành cho một nhóm xã
hội đặc biệt, đó là những người chuyển giới. Đây là những nhu cầu tự nhiên, chính
đáng mà những người chuyển giới được hưởng, được làm, được các chủ thể khác,
bao gồm nhà nước, xã hội, gia đình… tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm.
Từ định nghĩa trên, có thể thấy đặc điểm cơ bản nhất của quyền chuyển đổi
giới tính đó là: đây vừa là một quyền của cá nhân những người được chuyển giới,

12


vừa là một quyền chung (quyền tập thể) của nhóm xã hội đặc biệt gồm những

người chuyển giới.
Là một quyền cá nhân có nghĩa là bất cứ người chuyển giới nào cũng có thể
tự mình thực hành quyền này, còn với tư cách là một quyền của nhóm, để bảo đảm
thực hiện hiệu quả quyền này, đặc biệt là trong việc đạt được sự công nhận của xã
hội, nhà nước và được pháp điển hoá trong pháp luật, những người chuyển giới cần
có những hành động vận động tập thể.
Giống như các quyền con người khác, quyền chuyển đổi giới tính là những
giá trị tự nhiên, vốn có mà mỗi thành viên của cộng đồng nhân loại đều được
hưởng. Là thành viên của cộng đồng nhân loại, những người chuyển giới cũng phải
được nhà nước, xã hội bảo vệ và tôn trọng, cho dù họ có những đặc điểm khác biệt
về bản dạng giới và xu hướng tính dục.
Từ lý thuyết về quyền tự nhiên, có thể thấy người chuyển giới là người bình
thường như mọi cá nhân khác trong xã hội, có khả năng thực hiện các nghĩa vụ và
được quyền hưởng các quyền bình đẳng, ngang bằng như những người khác. Một
trong những quyền quan trọng nhất là quyền được công nhận và tôn trọng. Vì thế,
xã hội cần nhìn nhận người chuyển giới như người bình thường với đầy đủ các
nghĩa vụ, không được phép miệt thị, xúc phạm hay coi họ như những bệnh nhân
lệch lạc về tâm thần.
Quyền tự nhiên cho rằng “con người sinh ra tự do”, trong đó, theo John
Locke, “tự do là khả năng con người có thể làm bất cứ điều gì mà mình mong muốn
mà không gặp bất kỳ cản trở nào”. Như vậy, quyền chuyển đổi giới tính là một phần
của tự do. Tự do được xem như một giá trị tự thân của con người. Người chuyển
giới chuyển đổi giới tính để có thể được tự do là chính mình, theo đúng bản năng tự
nhiên của cơ thể. Về vấn đề này, Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ có đề cập: “Tất cả mọi người sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho
họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền đó có quyền
được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Tuyên ngôn nhân quyền và
dân quyền năm 1789 của Pháp cũng khẳng định: “Người ta sinh ra tự do và bình

13



đẳng về quyền lợi; và phải luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Chủ tịch Hồ
Chí Minh trong Tuyên ngôn độc lập năm 1945 từng nhắc lại hai lập luận trên và tái
khẳng định các quyền sống, quyền sung sướng, quyền tự do của một dân tộc cũng
như của mỗi con người.
Trước những phân tích trên, có thể thấy rõ ràng là thừa nhận quyền chuyển
đổi giới tính và bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng của người chuyển giới chính là
một trong những vấn đề bảo đảm công bằng, bình đẳng trong xã hội [27, tr.31].
Trong thực tế ở trên thế giới và ở Việt Nam, trước đây, những người thuộc
nhóm LGBT nói chung và người chuyển giới nói riêng ít nhận được sự cảm thông
và thường bị kỳ thị trong xã hội. Vì vậy, họ thường sống khép kín, không dám thổ
lộ giới tính thực của bản thân mình để tránh sự kỳ thị từ chính người thân trong gia
đình, trong xã hội mà họ đang sống. Tuy nhiên trong khoảng hơn ba mươi năm trở
lại đây đã có nhiều công trình nghiên cứu về giới tính thứ ba, về cuộc sống, tâm
sinh lý của người chuyển giới nói riêng và nhóm LGBT nói chung. Vì vậy, các xã
hội đã bắt đầu nhìn nhận lại vấn đề này và nhiều nước đã công nhận và cho phép
người chuyển giới sống đúng với giới tính và tâm lý thật của mình. Đây cũng là ước
muốn của tất cả những người trong nhóm LGBT nói chung và của người chuyển
giới nói riêng trên thế giới.
Quyền chuyển đổi giới tính ngày càng được thừa nhận và ghi nhận trong các
văn kiện quốc tế khẳng định nhận phẩm, giá trị vốn có và quyền bình đẳng của các
thành viên trong xã hội. Điều này thể hiện rõ trong các văn kiện quốc tế về quyền
của nhóm LGBT đó là “Tôn trọng sự khác biệt và chấp nhận người chuyển giới như
một phần của sự đa dạng nhân loại và văn hóa” [25, tr.7].
Quyền chuyển giới tính gắn liền với những khía cạnh cơ bản của quyền con
người. Đầu tiên, nó có mối liên hệ với sự tự do, tức là việc một người có thể thực
hiện được điều mình muốn mà không bị cản trở. Tự do được xem như một giá trị tự
thân của con người. Chính Rousseau trong chương đầu tiên của tác phẩm kinh điển
Bàn về khế ước xã hội đã khẳng định: "Con người sinh ra tự do" [25, tr.13]. Vậy

chuyển đổi giới tính có thể coi là một cách thức để một người có thể tự do được là

14


chính mình, theo đúng bản năng tự nhiên của cơ thể. Thứ hai, nó có mối liên hệ với
sự bình đẳng, tức là việc được đối xử ngang hàng với người khác mà không có bất
kỳ sự phân biệt nào. Sự thay đổi giới tính sinh học cho phù hợp với bản dạng giới
chính là một cách thức để những biểu hiện khác về giới của người chuyển giới trở
nên phù hợp với cơ thể sinh học mới, do đó giảm bớt sự phân biệt đối xử vốn vẫn
xảy ra đối với những người chưa thực hiện chuyển giới. Vì vậy, tác giả Peter Ubel
trong một bài viết với tựa đề tương tự trên tạp chí Forbes đã đặt câu hỏi Liệu phẫu
thuật chuyển đổi giới tính có phải là một quyền con người cơ bản? Và dù không
khẳng định nhưng ông đưa ra kết luận: "Chúng ta không nên cho phép những quan
niệm lỗi thời về giới để từ chối một cách thô bạo những sự chăm sóc y tế quan trọng
với những người mà bởi những hoàn cảnh tự nhiên nằm ngoài sự kiểm soát của họ,
đã không ăn khớp với những bản dạng thông thường" [25, tr.13,14].
Thêm vào đó, quyền chuyển đổi giới tính gắn liền với những quyền dân sự
(civil right) cơ bản của người chuyển giới. Mặc dù Công ước quốc tế về quyền dân
sự và chính trị (ICCPR) cũng như Công ước quốc tế về quyền kinh tế, văn hóa, xã
hội (ICESCR) không đề cập cụ thể đến khía cạnh chuyển giới do hoàn cảnh lịch sử
của nó, nhưng dưới góc độ quyền chuyển đổi giới tính với tư cách một bộ phận của
nhóm những người dễ bị tổn thương (vulnerable group), quyền của họ gắn với
quyền được đối xử nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm của những người bị tước tự do
theo Điều 10 ICCPR. Đối với người đã hoàn thiện chuyển đổi giới tính về sinh học
nhưng chưa hoàn tất về pháp lý, sự đối xử với họ trong hoàn cảnh bị tước tự do bởi
nhà nước mà điển hình là giam giữ có thể gây tổn hại quyền của những người này.
Cuối cùng, thừa nhận quyền chuyển giới là một xu thế tất yếu và luôn song
hành với sự phát triển của nhân loại. Điều đó bắt nguồn từ một yếu tố khách quan
đó là tỉ lệ người chuyển giới trong xã hội thường dao động trong khoảng 0.1% đến

0.5% [25, tr.14]. Như vậy, cùng với sự tăng lên của dân số, số lượng người chuyển giới
trong xã hội ngày càng tăng, sự quan tâm của xã hội đến đối tượng này cũng sẽ lớn dần
theo, đặc biệt là khi vị trí, vai trò và cống hiến của những người thuộc nhóm này dần
dần trở nên đáng kể đối với sự phát triển chung của toàn xã hội [25, tr.14-15]. Vì vậy,

15


về mặt thực tiễn có thể khẳng định rằng, việc đòi hỏi các quyền chuyển đổi giới tính
là một xu thế khách quan trong điều kiện vẫn còn rất nhiều sự chia rẽ giữa các nước,
các nền văn hóa xung quanh vấn đề nhạy cảm này [25, tr.15]. Trong bối cảnh quyền
con người ngày càng được tôn trọng; bình đẳng, chống phân biệt, kỳ thị đang là
trọng tâm trong những hành xử pháp lý của con người, việc xem xét vấn đề chuyển
đổi giới tính dưới góc độ quyền con người là điều hết sức cần thiết.
1.2.2. Sự cần thiết của việc thừa nhận quyền chuyển đổi giới tính
Ở Việt Nam cũng như ở nhiều quốc gia khác có những ý kiến trái chiều về
việc ghi nhận quyền chuyển đổi giới tính trong pháp luật.
Những ý kiến phản đối và ủng hộ dựa trên những lập luận chủ yếu sau đây:
Về góc độ tự nhiên.
Những người phản đối cho rằng theo lý thuyết của triết học phương Đông,
mọi vật trong vũ trụ đều cấu thành từ hai thực thể đối lập nhau là âm và dương.
Ngoài ra, tín ngưỡng phồn thực (thờ cơ quan sinh dục nam và nữ) ở Việt Nam và
một số quốc gia khác đã cho chúng ta thấy được quy luật phồn sinh của mọi loài
phải có âm và dương. Âm dương có giao hòa thì mọi vật mới phát triển. Như
vậy, theo cách tiếp cận này, việc một người đàn ông hoặc phụ nữ chuyển đổi giới
tính là ngược với quy luật tự nhiên, có thể tác động tiêu cực đến bản thân người
đó và cộng đồng.
Tuy nhiên, những người ủng hộ cho rằng, quyền chuyển đổi giới tính là
quyền tự nhiên của con người. Về sự công bằng trong quyền được sống và được tự
do, người chuyển giới là người bình thường như mọi cá nhân khác trong xã hội có

khả năng thực hiện các nghĩa vụ và được quyền hưởng các quyền bình đẳng, ngang
bằng như những người khác. Một trong những quyền quan trọng nhất là quyền được
công nhận và tôn trọng. Xã hội cần nhìn nhận người chuyển giới như người bình
thường với đầy đủ các quyền và nghĩa vụ, không được phép miệt thị, xúc phạm
hoặc coi họ như những bệnh nhân lệch lạc về tâm thần. Quyền tự nhiên cho rằng
“con người sinh ra tự do”, trong đó, theo John Locke “tự do là khả năng con người
có thể làm bất cứ điều gì mà mình mong muốn mà không gặp bất kì cản trở nào”.

16


Như vậy, quyền được công khai xu hướng tính dục, bản dạng giới của mình và sống
theo bản năng của xu hướng tính dục, bản dạng giới đó là một phần của tự do. Quan
trọng hơn, nếu xét điều đó đối với đòi hỏi được công khai và được xã hội công nhận
thì đòi hỏi này của người chuyển giới hoàn toàn không ảnh hưởng hay đe dọa đến
bất kì lợi ích hợp pháp chung nào cả.
Thực tế cho thấy, người chuyển đổi giới tính sẽ không thay đổi được nhiễm
sắc thể cũ của mình và sẽ không còn khả năng sinh sản. Tuy vậy, việc chuyển đổi
giới tính hay không là do họ quyết định. Một khi đã thực hiện quy trình, nếu thành
công thì bản thân họ đã xác định phải chịu những tác động tiêu cực do việc chuyển
đổi giới tính gây ra. Điều quan trọng hơn là họ phải có quyền chính đáng mà họ cần
có, để họ có thể có cơ sở thực hiện quyền tự nhiên của mình. Việc có sử dụng quyền
đó hay không là quyền của họ.
Bản chất của yếu tố văn hóa, truyền thống mang tính bối cảnh, mang tính
chính trị và vì vậy luôn biến đổi không ngừng. Chính vì vậy, không thể dùng truyền
thống, văn hóa để biện minh cho sự kỳ thị, phân biệt đối xử đối với người chuyển
giới. Việc thừa nhận vấn để chuyển giới cho thấy các nhà lập pháp đã nhìn nhận vấn
đề dưới góc độ toàn diện và nhân văn hơn; tích cực hơn trong việc thừa nhận những
yếu tố mới trong quá trình phát triển của quyền con người.
Mặt khác, chuyển đổi giới tính là quyền nhân thân. Quyền nhân thân là thuật

ngữ pháp lý để chỉ những quyền gắn liền với bản thân của mỗi người, gắn liền với
đời sống riêng tư của mỗi cá nhân, ví dụ: Quyền thay đổi họ, quyền thay đổi tên,
quyền của cá nhân đối với hình ảnh... Dưới góc độ pháp luật dân sự, quyền nhân
thân là tiền đề hình thành nên quan hệ nhân thân. Quan hệ nhân thân là quan hệ giữa
người với người về một giá trị nhân thân của cá nhân, tổ chức...Việc quy định
chuyển đổi giới tính là một quyền nhân thân nhằm tạo cơ chế pháp lý chống phân
biệt đối xử với người chuyển đổi giới tính, bảo đảm họ có địa vị pháp lý bình đẳng
như cá nhân khác và sự minh bạch trong thực hiện các quyền nhân thân, tài sản
trong các quan hệ dân sự.

17


Về góc độ xã hội.
Những người phản đối cho rằng chuyển đổi giới tính dẫn đến nhiều hệ lụy
xấu trong xã hội khó kiểm soát được, cụ thể như việc lợi dụng chuyển đổi giới tính
để trốn tránh nghĩa vụ quân sự, để gian lận trong thể thao; trốn việc bị tòa án truy
nã; hoạt động mại dâm; chuyển đổi giới tính (từ nữ sang nam) nhằm kéo dài tuổi lao
động... Thậm chí, việc chuyển đổi giới tính có thể gây ảnh hưởng xấu tới giới trẻ,
tạo ra trào lưu chuyển giới gây khó khăn trong việc xác định nhân thân, kiểm soát
giấy tờ, thủ tục hành chính.
Mặt khác, người tiến hành chuyển giới sẽ phải chịu sự phản đối của gia đình
cũng như khó tìm việc làm, dễ dẫn tới các hành vi tiêu cực, làm tăng tỷ lệ phạm tội
và bất ổn xã hội.
Không những thế, phẫu thuật chuyển giới dễ dẫn tới tai biến do hàng loạt các
cuộc phẫu thuật liên tiếp, dẫn đến các vụ kiện cáo sau này; một số người sau khi
chuyển đổi giới tính, chưa kịp thích nghi với nhiều thứ thay đổi, dẫn đến trầm cảm,
thậm chí là tự sát; phải tiêm hoóc-môn liên tục, trong suốt cuộc đời khiến người
chuyển giới mắc nhiều tác dụng phụ, bị ung thư, sức khỏe suy giảm và bị giảm đáng
kể tuổi thọ, tạo ra gánh nặng cho gia đình, hệ thống y tế và an sinh xã hội.

Đặc biệt, việc cho phép người chuyển giới kết hôn sẽ gián tiếp thừa nhận kết
hôn đồng tính – vấn đề vốn không được luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thừa
nhận. Người chuyển đổi giới tính sẽ không bao giờ có con về mặt quan hệ thông
thường. Nếu có bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì có thể gặp phải các vướng mắc
trong xác định là cha hay mẹ.
Tuy nhiên, những người ủng hộ cho rằng xét về góc độ xã hội, những lo ngại
trên là không chính xác bởi các lý do sau đây:
- Mặc dù có nhiều quy định pháp luật, chính sách theo hướng ưu đãi cho một
giới nào đó, ví dụ như nữ giới không thực hiện nghĩa vụ quân sự bắt buộc, hoặc
nam giới có điểm chuẩn xét tuyển vào trường hệ quân đội thấp hơn nữ giới, hay độ
tuổi nghỉ hưu, cách tính thành tích thể thao của nam và nữ là khác nhau, vì thế sẽ
khó thể xảy ra tình trạng chuyển giới để trốn tránh hay hưởng ưu đãi nhất định từ
việc có giới tính mới.

18


Quan điểm về khả năng lợi dụng quyền chuyển giới chưa tính đến sự khó
khăn của quá trình chuyển giới. Chuyển đổi giới tính là một dạng dịch vụ có điều
kiện, được giám sát bởi nhiều chủ thể, là quyết định cần sự trưởng thành, không thể
hoàn lại, tốn nhiều thời gian, tiền bạc, chịu nhiều áp lực từ sự kỳ thị, tổn hại sức
khỏe cao, thậm chí quá trình chuyển đổi giới tính là một thử thách không nhỏ đối
với ngay cả người chuyển giới. Quy trình tư vấn tâm lý, kiểm tra đời sống thực
(sống thử như với giới tính mong muốn), phẫu thuật, điều trị hoóc-môn đã làm
không ít người chuyển giới trên thế giới bỏ cuộc. Bên cạnh đó, sẽ chỉ có một số ít
cơ sở y tế được cho phép tiến hành phẫu thuật chuyển đổi giới tính cho người
chuyển giới. Do đó, các cơ sở phẫu thuật “chui” khác nếu có tiến hành cũng không
có giá trị. Thực tế, việc phẫu thuật chuyển đổi giới tính không thay đổi khuôn mặt
(chỉ thay đổi nếu phẫu thuật thẩm mỹ). Một điểm rất quan trọng là dấu vân tay của
người đó không thể thay đổi được. So sánh về thiệt hơn thì không người nào lại đi

chuyển giới với mục đích chính là để hưởng ưu đãi từ giới tính mới. Do vậy, lo ngại
việc lạm dụng quyền chuyển đổi giới tính tràn lan là không có cơ sở.
Trên thực tế, việc không thừa nhận quyền xác định lại giới tính của người
chuyển giới gây ra nhiều hệ luỵ xấu cho xã hội hơn là việc hợp pháp hóa nó. Nhiều
người chuyển giới không có giấy tờ tùy thân, hoặc không khớp với thể hiện bên
ngoài đã gây ra những phức tạp không nhỏ về mặt quản lý nhà nước.
- Theo tinh thần của Bộ luật Dân sự năm 2015, người chuyển giới phải tiến
hành chuyển đổi giới tính mới được thay đổi hộ tịch, có các quyền nhân thân theo
giới tính mới. Như vậy, có thể hiểu họ phải qua phẫu thuật thì mới được công nhận
giới tính mới. Do đó, nếu một người đã chuyển đổi giới tính, được công nhận giới
tính mới thì việc họ kết hôn với một người có cùng giới tính cũ (nhưng khác với
hiện tại) không phải là hôn nhân đồng giới. Khi đó, hôn nhân của họ là hôn nhân
khác giới, như bao cặp đôi dị tính khác. Bản thân họ đã được thừa nhận giới tính
mới nên họ hoàn toàn có các quyền mà pháp luật đang ghi nhận.
Tác giả luận văn này tán thành những ý kiến ủng hộ quyền được chuyển đổi
giới tính đã nêu trên. Ngoài ra, theo tác giả, cần công nhận quyền này bởi các lý do
khác sau đây:

19


×