MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................................1
NỘI DUNG................................................................................................................1
I. Khái quát chung................................................................................................1
II. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về quyền và nghĩa vụ của
người bị hại.............................................................................................................2
1. Quy định về quyền của người bị hại..............................................................2
1.1. Đưa ra tài liệu, đồ vật yêu cầu...................................................................2
1.2. Quyền được thông báo về kết quả điều tra.................................................3
1.3. Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên
dịch 3
1.4. Đề nghị mức bồi thường và các biện pháp đảm bảo bồi thường...............3
1.5. Tham gia phiên tòa, trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa..................4
1.6. Khiếu nại quyết định, hành vi của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng, kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án về phần bồi thường
cũng như về hình phạt đối với bị cáo...................................................................4
1.7. Trình bày lời buộc tội tại phiên tòa............................................................6
1.8. Quyền đối với kết luận giám định...............................................................6
1.9. Quyền nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người khác bảo vệ
quyền lợi cho mình...............................................................................................7
1.10.
Quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự......................................................7
1.11.
Quyền rút yêu cầu khởi tố.......................................................................7
2. Quy định về nghĩa vụ của người bị hại..........................................................8
2.1. Có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan điều tra, Viên kiểm sát, Tòa án....8
2.2. Nghĩa vụ khai báo.......................................................................................8
III.
So sánh với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015........................8
1. Những điểm mới trong quy định về quyền của bị hại...................................8
2. Những điểm mới trong quy định về nghĩa vụ của bị hại.............................11
IV.
Đánh giá.......................................................................................................11
KẾT LUẬN..............................................................................................................12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................13
MỞ ĐẦU
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng nói
chung và người bị hại nói riêng là một trong những nội dung quan trọng trong định
hướng cải cách tư pháp và hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng hình sự (TTHS) ở
nước ta hiện nay. Bởi lẽ người bị hại là người mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ
bị xâm hại nặng nề nhất, là người chịu thiệt thòi nhiều nhất trong số những người
tham gia tố tụng. Vì vậy, người bị hại cần phải được bảo vệ kịp thời, thậm chí ngay
khi họ bị đe dọa gây thiệt hại. Thực tế cho thấy, vì nhiều lý do khác nhau mà quyền
và lợi ích hợp pháp của người bị hại chưa được bảo vệ tốt và kịp thời; trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự dường như cơ quan có thẩm quyền chưa xem người
bị hại như một bên của quá trình tố tụng để có sự quan tâm cần thiết, xem xét đến
vai trò, nghĩa vụ của họ trong vụ án. Những bất cập trên thực tiễn đã đặt ra vấn đề
cần phải làm rõ quyền và nghĩa vụ của người bị hại trong tố tụng hình sự nhằm
đưa ra những cải cách mới bảo vệ tốt hơn quyền lợi của họ, tạo nên sự thuận tiện
hơn cho quá trình tố tụng. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, em xin
phép lựa chọn đề số 2: “Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về quyền
và nghĩa vụ của người bị hại – So sánh với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015” để nghiên cứu và làm rõ.
NỘI DUNG
I.
Khái quát chung
Luật tố tụng hình sự 2003 chỉ coi người bị hại là công dân, pháp nhân hay tổ
chức xã hội không được coi là người bị hại. Người bị hại là con người cụ thể bị
hành vi phạm tội trực tiếp xâm hại. Thể chất, tinh thần, tài sản của họ phải là đối
tượng của tội phạm. Thiệt hại mà người bị hại phải chịu là thiệt hại thực tế, nếu thể
chất, tinh thần, tài sản của một người chưa bị thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra
thì người đó không được coi là người bị hại.
Xét về mặt hình thức, người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội
phạm gây ra chỉ trở thành người bị hại trong tố tụng hình sự khi họ được cơ quan
có thẩm quyền công nhận là người bị hại thông qua hành vi triệu tập họ đến khai
báo với tư cách người bị hại. Trong trường hợp hành vi phạm tội không bị phát hiện
và xử lý hoặc trường hợp không xác định được người bị thiệt hại mặc dù trên thực
tế có người bị hại về vật chất, tinh thần, tài sản do hành vi phạm tội gây ra thì người
đó cũng không trở thành người bị hại trong vụ án hình sự.
II.
Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về quyền và nghĩa vụ
của người bị hại
1.
Quy định về quyền của người bị hại
1.1.
Đưa ra tài liệu, đồ vật yêu cầu
Điểm a Khoản 2 Điều 51 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định người bị hại
hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền:
- Thứ nhất, đưa ra tài liệu đồ vật: người bị hại trong nhiều trường hợp là người
chứng kiến vụ việc xảy ra, biết các tình tiết liên quan đến hành vi phạm tội, cho nên
những tài liệu đồ vật mà người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ đưa ra
thường có độ chính xác, có ích trong quá trình giải quyết vụ án. Ví dụ: giấy khám
chữa bệnh, hóa đơn …
- Quyền yêu cầu: người bị hai có thể đưa ra những yêu cầu trong những giai
đoạn tố tụng khác nhau . Ví dụ: yêu cầu cơ quan điều tra thu thập thêm chứng cứ để
định tội, yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng, yêu cầu khởi vụ án trong một số
trường hợp …
Cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng quyền được đưa ra tài liệu, đồ vật,
yêu cầu của người bị hại. Sự đảm bảo này được luật hóa tại Điều 122
BLTTHS:”Khi người tham gia tố tụng có yêu cầu về những vấn đề có liên quan đến
vụ án thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong phạm vi trách nhiệm của mình, giải
quyết yêu cầu của họ và báo cho họ biết kết quả. Trong trường hợp không chấp
nhận yêu cầu thì Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát phải trả lời và nêu rõ lí do.”
Pháp luật quy định người bị hại có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu nhằm
đảm bảo nguyên tắc xác định sự thật của vụ án ( Điều 10 BLTTHS ) và nguyên tắc
Bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án ( Điều 19 BLTTHS ) qua đó góp phần giải
quyết nhanh chóng vụ án, bảo vệ quyền và lợi ích của người bị hại, thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
1.2. Quyền được thông báo về kết quả điều tra
Người bị hại có quyền được thông báo về kết quả điều tra theo Điểm b Khoản
2 Điều 51 BLTTHS. Tuy nhiên pháp luật chưa quy định rõ là cơ quan điều tra bắt
buộc phải thông báo kết quả điều tra cho người bị hại hay chỉ khi nào người bị hại
yêu cầu thì mới phải thông báo kết quả điều tra cho họ. Mặt khác việc thông báo
kết quả điều tra bằng hình thức nào cũng không được nhắc đến.
1.3.
Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người
phiên dịch
Khi có căn cứ cho rằng người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên
dịch không vô tư trong giải quyết vụ án thì người bị hại có quyền đề nghị thay đổi
họ theo Điều 42 BLTTHS. Điều 42 BLTTHS quy định về những trường hợp người
tiến hành tố tụng phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi. Các điều 44, 45 ,
46 ,47 BLTTHS quy định cụ thể những trường hợp thay đổi điều tra viên, thẩm
phán, hội thẩm, thư kí tòa án. Điều 60 61 BLTTHS quy định các trường hợp người
giám định, người phiên dịch phải từ chối tham gia tố tụng hình sự
Việc pháp luật quy định quyền này cho người bị hại trước hết do trong vụ án
hình sự, quyền lợi của người bị hại luôn đối lập với quyền lợi của người phạm tội
vì vậy họ rất cần người tiến hành tố tụng, phải vô tư khách quan. Mặt khác quyền
này chính là sự cụ thể hóa nguyên tắc đảm bảo vô tư khách quan của người tiến
hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng được quy định tại Điều 14 BLTTHS
2003.
1.4.
Đề nghị mức bồi thường và các biện pháp đảm bảo bồi thường
Người bị hại có quyền đề nghị mức bồi thường theo Điểm d Khoản 2 Điều 52
BLTTHS 2003. Tuy nhiên việc đưa ra mức bồi thường thế nào là thỏa đáng và Tòa
án chấp nhận hiện là một khó khăn cho người bị hại. Bên cạnh quyền được đề nghị
mức bồi thường thiệt hại thì người bị hại còn có quyền đề nghị cơ quan tiến hành tố
tụng áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo đảm bồi thường như : kê biên tài sản,
phong tỏa tài sản, tạm giữ tài sản ( Điều 146 BLTTHS 2003).
Người bị hại là người thiệt hại về tinh thần, thể chất , tài sản do hành vi phạm
tội gây ra, do đó việc bồi thường thiệt hại để bù đắp thiệt hại bị xâm phạm là rất cần
thiết.
1.5.
Tham gia phiên tòa, trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa
Theo Điểm đ khoản 2 điều 51 BLTTHS thì người bị hại, người đại diện hợp
pháp của người bị hại có quyền tham gia phiên tòa, trình bày ý kiến, tranh luận tại
phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Phiên tòa chính là nơi
kiểm tra công khai các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để làm sáng tỏ các tình tiết
của vụ án và các phán quyết đối với bị cáo. Người bị hại có quyền tham gia phiên
tòa để thực hiện các quyền của mình. Người bị hại có thể đưa ra các yêu cầu, các
tài liệu chứng minh cho thiệt hại là cơ sở để đề nghị mức bồi thường. Đồng thời
việc tham gia cũng đảm bảo cho người bị hại biết được các quyết định của tòa án
để xem có nên kháng cáo hay không. Tại phiên tòa họ có thể đề nghị thay đổi người
tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch, đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu
cầu, trình bày ý kiến, tham gia tranh tụng tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình. Tòa án phải trao giấy triệu tập cho người bị hại để họ có mặt
tại phiên tòa. Trong nhiều trường hợp việc có thể tham gia phiên tòa của người bị
hại hay không là căn cứ để hoãn phiên tòa. Quy định này là sự cụ thể hóa nguyên
tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án được quy định tại Điều 19 BLTTHS
2003.
1.6.
Khiếu nại quyết định, hành vi của cơ quan, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng, kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án về phần bồi thường
cũng như về hình phạt đối với bị cáo
Quyền này được ghi nhận tại Điểm e Khoản 2 Điều 51 BLTTHS 2003.
- Quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm
quyển tiến hành tố tụng: Trong quá trình tố tụng nếu người bị hại phát hiện thấy
quyết định hoặc hành vi của cơ quan, người có thẩm quyền tố tụng có những điểm
bất hợp lí, vi phạm pháp luật thì họ có quyền khiếu nại những quyết định, hành vi
tố tụng đó theo trình tự, thủ tục tại chương XXXV của BLTTHS. Thông tư liên tịch
02/2005/TTLT-VKSTC-TATC-BCA-BQP-Btp hướng dẫn thi hành Bộ luật Tố tụng
Hình sự về khiếu nại, tố cáo do Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân
tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp ban hành quy định:”Khiếu nại
trong tố tụng hình sự là việc cá nhân, cơ quan tổ chức đề nghị cơ quan, cá nhân có
thẩm quyền xem xét lại quyết định tố tụng, hành vi tố tụng khi có căn cứ cho rằng
quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của
mình”. BLTTHS cũng quy định chi tiết về quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại,
người bị khiếu nại. Thời hiện khiếu nại đối với quyết định, hành vi tố tụng mà
người bị hại cho là có vi phạm là 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc biết được quyết
định, hành vi tố tụng đó. Trong một số trường hợp do trở ngại khách quan mà
người bị hại không thự hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hiệu thì thời gian
có trở ngại đó không được tính vào thời hạn khiếu nại.
- Quyền kháng cáo: đây là một quyền quan trọng của người bị hại. Theo
hướng dẫn của hội đồng thẩm phán TANDTC trong Nghị quyết số 05/2005/nqHĐTP ban hành ngày 08/12/2005 của Hội đồngThẩm phán Tòa án Nhân dân Tối
cao về Hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ tư:”xét xử phúc thẩm”
của BLTTHS vê thành phần những chủ thể được quyền kháng cáo thì khồn chỉ
người bijhaij, đại diện hợp pháp của người bị hại mà còn có người được người bị
hại ủy quyền cũng có quyền kháng cáo. Khi tội phạm xảy ra, quan hệ pháp luật
hình sự xuất hiện là quan hệ giữa nhà nước và người phạm tội, còn mối quan hệ
giữa bị can, bị cáo và người bị hại chỉ là quan hệ dân sự trong việc bồi thường
những thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây ra. Những thiệt hại mà người bị hại
phải gánh chịu không chỉ về thể chất mà còn những thiệt hại về tinh thần vì vậy
ngoài phần kháng cáo về mức bồi thường, ngược lại bị hại còn có quyền kháng cáo
về phần hình phạt. về thời hạn kháng cáo bản án quyết định của tòa án là 15 ngày
(Điều 234 BLTTHS) kể từ ngày tuyên án, trường hợp đơn kháng cáo gửi qua bưu
điện thì ngày kháng cáo được căn cứ vào ngày bưu điện nơi gửi dấu ở phong bì.
Nếu có lý do chính đáng ( thiện tai,lũ lụt, tai nạn, bệnh tật…) thì việc kháng cáo
quá hạn vẫn có thể được chấp nhận. Việc kháng cáo được thực hiện dưới hình thức
là gửi đơn đến tòa án cấp sơ thẩm hay trình bày trực tiếp với tòa án đã xử sơ thẩm.
Hậu quả pháp lí của việc kháng cáo là những phần của bản án bị kháng cáo thì chưa
được đưa ra thi hành và tòa án cấp sơ thẩm phải gửi hồ sơ vụ án và kháng cáo cho
phúc thẩm trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo. Người bị hại
cũng có quyền rút kháng cáo theo quy định của BLTTHS.
Việc pháp luật quy định cho người bị hại có quyền khiếu nại là đảm bảo
nguyên tắc “Đảm bảo quyền khiếu nại, tố cáo trong TTHS” ( Điều 31 BLTTHS).
Đồng thời việc người bị hại có quyền kháng cáo chính là sự cụ thể hóa nguyên tắc
“Thực hiện chế độ hai cấp xét xử” (Điều 20 BLTTHS)
1.7.
Trình bày lời buộc tội tại phiên tòa
Theo Khoản 3 Điều 51 BLTTHS 2003 thì “Trong trường hợp vụ án được khởi
tố theo yêu cầu của người bị hại quy định tại Điều 105 của Bộ luật này thì người bị
hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội tại phiên toà”. Theo
đó, người bị hại có quyền trình bày lời buộc tội trước phiên tòa. BLTTHS 2003
không có quy định về thời điểm được thực hiện quyền này, tuy nhiên, mục 1.7 Nghị
quyết số 03/2004/NĐ-HĐTP ngày 02/10/2004 của HĐTP TANDTC hướng dẫn thi
hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTHS
2003 quy định: “Việc người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc
tội tại phiên tòa phải thực hiện đúng theo quy định chung của BLTTHS về phiên
tòa sơ thẩm, do đó việc người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của họ trình bày lời
buộc tội tại phiên tòa được thực hiện theo trình tự phát biểu sau khi tranh luận tại
phiên tòa theo quy định tại Điều 271 BLTTHS”.
Người bị hại là người phải chịu hậu quả do hành vi phạm tội gây ra nên pháp
luật đưa ra quy định này nhằm để cho người bị hại có quyền phán xét hành vi phạm
tội. Việc này thể hiện sự lắng nghe và quan tâm tới tâm tư, tình cảm, nguyện vọng
của người bị hại.
1.8.
Quyền đối với kết luận giám định
Cơ sở pháp lý của quyền này được quy định tại Khoản 1 Điều 158 BLTTHS
2003: “Bị can, những người tham gia tố tụng khác được trình bày ý kiến của mình
về kết luận giám định, yêu cầu giám định bổ sung hoặc giám định lại”. Người bị hại
chính là một trong những người tham gia tố tụng nên hoàn toàn có được quyền này.
Kết luận giám định là một trong những chứng cứ quan trọng giúp cơ quan tiến hành
tố tụng xác minh sự thật của vụ án. Nếu các kết quả giám định không chính xác sẽ
ảnh hưởng đến kết luận về vụ án và đặc biệt là lơi ích của người bị hại. Cho nên,
quy định này là cần thiết để đảm bảo quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người bị
hại.
1.9.
Quyền nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người khác bảo vệ quyền
lợi cho mình
Khoản 1 Điều 59 BLTTHS quy định “Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự có quyền nhờ luật
sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người khác bảo vệ quyền lợi cho mình ”. Pháp
luật cho phép người bị hại tự đứng ra bảo vệ quyền lợi cho mình hoặc nhờ luật sư,
bào chữa viên nhân dân hoặc người khác nhưng phải được cơ quan tiến hành tố
tụng chấp nhận. Quy định này đảm bảo nguyên tắc tôn trọng và đảm bảo quyền cơ
bản của công dân được quy định trong hiến pháp cũng như BLTTHS.
1.10.
Quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 105 BLTTHS 2003 thì “Những vụ án về các
tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113,
121, 122, 131 và 171 của Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của
người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa
thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất”. Yêu cầu khởi tố của
người bị hại có thể bằng văn bản hoặc trình bày tại cơ quan điều tra. Thời hạn yêu
cầu khởi tố là không quá 2 tháng, căn cứ theo Thông tư liên tịch 05/2005/TTLT-
VKSTC-BCA-BQP về quan hệ phối hợp giữa cơ quan điều tra và viện kiểm sát
trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS.
1.11.
Quyền rút yêu cầu khởi tố
Khoản 2 Điều 105 BLTTHS quy định: “Trong trường hợp người đã yêu cầu
khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ”.
Tuy nhiên quyền này cũng có giới hạn, chỉ khi người bị hại rút yêu cầu trước ngày
mở phiên toàn sơ thẩm thì vụ án mới bị đình chỉ. Cũng theo điều khoản này:
“Trong trường hợp có căn cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu
khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu
khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn có thể tiếp tục tiến
hành tố tụng đối với vụ án.”
Pháp luật quy định người bị hại có quyền yêu cầu khởi tố rồi lại có quyền tự
rút yêu cầu nhằm khuyến khích động viên các công dân tự hòa giải, thu xếp, tạo
quan hệ đoàn kết thân ái với nhau sau khi xảy ra mâu thuẫn.
2.
Quy định về nghĩa vụ của người bị hại
2.1. Có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan điều tra, Viên kiểm sát, Tòa án
Căn cứ Khoản 4 Điều 51 BLTTHS 2003: “Người bị hại phải có mặt theo
giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án; nếu từ chối khai báo mà
không có lý do chính đáng thì có thể phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 308
của Bộ luật hình sự.” Tại cơ quan điều tra, người bị hại phải khai báo hết các tình
tiết.
2.2.Nghĩa vụ khai báo
III. So sánh với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
1. Những điểm mới trong quy định về quyền của bị hại
- Quyền đưa ra chứng cứ của bị hại, bên cạnh quyền đưa ra tài liệu, đồ vật và
yêu cầu như trước đây, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 bổ sung thêm “bị hại có
quyền đưa ra chứng cứ”. Quy định này phù hợp với quy định mới về chứng cứ[4],
đồng thời mở rộng quyền của bị hại trong quá trình chứng minh người phạm tội,
hành vi của người phạm tội, chứng minh những thiệt hại của mình là do hành vi
phạm tội gây ra, thậm chí bị hại có thể chứng minh cả những tình tiết khác có ý
nghĩa trong việc giải quyết quyền lợi của mình như việc giải quyết bồi thường thiệt
hại.
- Quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo và những người tham gia phiên
tòa. Có thể nói đây là quyền rất đặc biệt đối với bị hại, nếu như trước đây, bị hại chỉ
tham gia phiên tòa một cách thụ động thể hiện qua quyền được trình bày ý kiến tại
phiên tòa và thực tế xét xử mà chúng tôi quan sát qua một số vụ, thì bị hại cũng chỉ
trình bày ý kiến khi chủ tọa phiên tòa hỏi, chủ tọa phiên tòa cũng chủ yếu hỏi về
phần thiệt hại và yêu cầu bị hại trình bày ý kiến về mức bồi thường. Với quy định
về quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo và những người tham gia phiên tòa,
Bộ luật Tố tụng hình sự đã trao quyền chủ động cho bị hại khi tham gia phiên tòa
và nâng cao vị thế tố tụng của bị hại trong quá trình tham gia tố tụng nói chung và
tham gia phiên tòa nói riêng. Đồng thời thông qua quyền này, bị hại có thể truy vấn
những vấn đề mà bị hại đặt ra hoặc những nội dung, tình tiết của vụ án mà bị hại
thấy rằng việc chứng minh còn chưa khách quan toàn diện ảnh hưởng đến lợi ích
của bị hại.
- Quyền nhờ người bảo vệ quyền lợi của mình. Bị hại là chủ thể bị hành vi của
người phạm tội gây ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài
sản, uy tín, vì vậy, quyền lợi trước tiên của bị hại khi tham gia tố tụng là được bồi
thường thiệt hại, được bù đắp những tổn thất tinh thần mà họ phải gánh chịu do
người phạm tội gây ra cho họ. Để bảo vệ được quyền lợi của mình (như quyền
được bồi thường, được bù đắp tổn thất, được xin lỗi, cải chính công khai…), bị hại
được tự tiến hành các hoạt động cụ thể như đưa ra mức bồi thường và chứng minh
thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho mình cũng như yêu cầu cơ quan tiến hành
tố tụng áp dụng các biện pháp bảo đảm việc bồi thường. Tuy nhiên, trên thực tế
việc tiến hành các hoạt động tự bảo vệ quyền lợi nói trên phải có các căn cứ và luận
chứng rõ ràng mà không phải chủ thể bị hại nào cũng tiến hành một cách hiệu quả
được, vì vậy, việc nhờ người khác có chuyên môn bảo vệ quyền lợi cho bị hại là
cần thiết. Thực tế, việc nhờ người khác bảo vệ quyền lợi cho bị hại đã được linh
hoạt thực hiện trong quá trình xét xử, nhưng về mặt quyền pháp lý thì Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2015 chính thức quy định đây là quyền của bị hại để họ có thể lựa
chọn hoặc là tự mình bảo vệ quyền lợi của mình hoặc là nhờ người khác bảo vệ
quyền lợi cho mình.
- Quyền được tham gia một số hoạt động tố tụng. Đây là quyền mới được bổ
sung đối với bị hại thể hiện vị trí và vai trò của bị hại khi họ tham gia tố tụng.
Những quy định về quyền của người bị hại trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003
phản ánh vai trò của bị hại chỉ thực sự được thể hiện trong giai đoạn xét xử, bởi khi
đó, bị hại mới thực hiện yêu cầu Tòa án giải quyết quyền lợi của mình và thực chất
vai trò này cũng tương đối mờ nhạt. Với quyền được tham gia một số hoạt động tố
tụng hình sự thì vai trò của bị hại đã được coi trọng hơn, theo quy định trên, họ có
thể được tham gia vào một số hoạt động điều tra của cơ quan điều tra (trước đây bị
hại chỉ có quyền được thông báo kết quả điều tra), bị hại cũng có thể tham gia vào
hoạt động tố tụng Tòa án như đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo và những người
tham gia phiên tòa (như chúng tôi đã phân tích ở phần trên). Trên cơ sở quyền được
tham gia một số hoạt động tố tụng, bị hại chủ động hơn trong việc bảo vệ quyền lợi
của mình như họ có được thông tin từ cơ quan điều tra mà không phải chờ đến khi
kết thúc điều tra, họ chủ động đưa ra câu hỏi và yêu cầu chủ tọa phiên tòa hỏi chứ
không phải chờ đến khi chủ tọa đề nghị cho biết ý kiến. Tuy nhiên, cũng cần phải
nhận thức rằng việc tham gia một số hoạt động tố tụng của bị hại phải tuân thủ
những điều kiện nhất định chẳng hạn như việc tham gia đó không ảnh hưởng đến
tính khách quan, không gây khó khăn và cản trở đến hoạt động của các cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng.
- Quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo vệ tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân khi bị đe dọa.
Bị hại trong tố tụng hình sự là chủ thể tham gia tố tụng có địa vị pháp lý độc lập, là
một bên có quyền cáo buộc đối với bị can, bị cáo. Quyền cáo buộc của họ mang
tính chất truy cứu trách nhiệm dân sự (trong trường hợp họ yêu cầu bồi thường thiệt
hại, bồi hoàn tài sản hoặc những yêu cầu dân sự khác), thậm chí mang tính chất
truy cứu trách nhiệm hình sự (trong trường hợp bị hại thực hiện quyền buộc tội
trong vụ án khởi tố theo yêu cầu của bị hại). Chính vì tính chất đối lập như vậy đối
với bị can, bị cáo, bị hại có nguy cơ bị đe dọa hoặc bị trực tiếp xâm hại về tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản trong quá trình tham gia tố tụng hình
sự. Để bảo đảm an toàn cho bị hại, Bộ luật Tố tụng hình sự quy định thêm quyền
rất thiết thực cho bị hại là họ được yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng phải thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo vệ cho họ và người thân của họ
khi họ nhận thấy thực sự có nguy cơ bị xâm hại hoặc có căn cứ cụ thể về những
hành vi đe dọa họ nhằm gây sức ép hoặc cản trở quyền tố tụng của họ.
Bên cạnh những điểm mới bổ sung về quyền của bị hại, Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2015 tiếp tục kế thừa và chỉnh lý một số quyền cơ bản khác để bảo vệ quyền
lợi chính đáng của bị hại và phù hợp với yêu cầu thực tế hiện nay. Chẳng hạn như
quyền đưa ra mức bồi thường và các biện pháp bảo đảm bồi thường, được chỉnh lý
thành quyền đề nghị hình phạt, đưa ra mức bồi thường, biện pháp bảo đảm bồi
thường; quyền yêu cầu khởi tố của bị hại, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 không
quy định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại đối với tội xâm phạm quyền
tác giả như Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003...
2. Những điểm mới trong quy định về nghĩa vụ của bị hại
Ngoài những điểm mới về quyền của bị hại, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
cũng sửa đổi một số nghĩa vụ của bị hại theo hướng mở rộng trách nhiệm của bị hại
trong quá trình tham gia tố tụng, đồng thời gắn liền với đó là các biện pháp cưỡng
chế để bảo đảm nghĩa vụ của bị hại phải được thực thi trên thực tế.
Nghĩa vụ phải chấp hành các quyết định tố tụng của cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng7 đòi hỏi bị hại phải có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu của các cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thể hiện trong các quyết định tố tụng. Với
quy định hiện nay, bị hại phải có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng; trường hợp cố ý vắng mặt hoặc có hành vi gây khó khăn, cản trở
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thì có thể bị dẫn giải; nếu bị hại từ chối hoặc trốn
tránh việc khai báo, giám định, cung cấp tài liệu mà không có lý do chính đáng thì
có thể phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự.
IV. Đánh giá
Bị hại là một trong những chủ thể tham gia tố tụng hình sự, việc tham gia tố
tụng của họ là nhằm bảo vệ, khôi phục những quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị
hành vi phạm tội xâm phạm. Mặt khác, sự tham gia của họ trong tố tụng hình sự là
nhân tố góp phần quan trọng trong việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của
hành vi phạm tội và xác định sự thật khách quan của vụ án. Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2015, có nhiều điểm mới về bị hại đặc biệt làm rõ các quyền và đưa ra chế tài
càn thiết cho việc bắt buộc thực hiện nghĩa vụ đối với bị hại, thể hiện tinh thần,
mục tiêu của cải cách tư pháp, đáp ứng nhu cầu sửa đổi nhằm khắc phục những bất
cập, hạn chế trong tố tụng hình sự, đồng thời đánh dấu một bước quan trọng về việc
bảo đảm nâng cao quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự phù hợp
với tinh thần của Hiến pháp năm 2013, là cơ sở pháp lý để giải quyết toàn diện vụ
án hình sự, kể cả các vấn đề dân sự phát sinh trong vụ án hình sự.
KẾT LUẬN
Một trong những mục tiêu của cải cách tư pháp hiện nay là hoàn thiện các thủ
tục tư pháp, đảm bảo tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, đặc biệt là tôn
trọng và bảo vệ quyền con người. Bảo đảm quyền lợi của bị hại, nguyên đơn dân sự
trong tố tụng hình sự chính là việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người của những
chủ thể bị người phạm tội gây ra những thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản và uy
tín. Những điểm mới trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về bị hại đã thể hiện
rất rõ tinh thần, mục tiêu của cải cách tư pháp, đáp ứng nhu cầu sửa đổi nhằm khắc
phục những bất cập, hạn chế trong tố tụng hình sự.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam,
NXB Tư pháp, Hà Nội – 2006.
2. Bộ luật tố tụng hình sự 2003
3. Bộ luật tố tụng hình sự 2015
4. Bộ luật hình sự 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009)
5. Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017)
6. Đinh Văn Quế, Pháp luật hình sự thực tiễn xét xử và án lệ, NXB LĐXH,
2005
7. PGS.TS. Nguyễn Hòa Bình (chủ biên); Những nội dung mới trong Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015, NXB Chính trị quốc gia.
8.
Vũ Gia Lâm “Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại trong tố
tụng hình sự Việt Nam” – Tạp chí Luật học số 11 năm 2011
9. Lê Nguyên Thanh “Người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong TTHS Việt
Nam”, Luận án Tiến sĩ luật học
10. Các trang web:
/> />option=com_content&view=article&catid=107:ctc20071&id=267:nbhttths&Item
id=110
/>