Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Tiểu luận Triết học: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn và vận dụng nguyên tắc trong quá trình học tập của sinh viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.9 KB, 13 trang )

BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TIỂU LUẬN
MÔN: TRIẾT HỌC

Đề tài: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn và
vận dụng nguyên tắc trong quá trình học tập của sinh viên

Giảng viên: PGS.TS. Trương Quốc Chính
TS. Lê Thị Hằng
Học viên: Cầm Bình Như
Lớp: HC21B8
Chuyên ngành: Quản lý công

Hà Nội, tháng 02/2017


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..........................................................................................................3
A – Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn...........................................4
I. Phạm trù thực tiễn và phạm trù lý luận..................................................................4
1. Phạm trù thực tiễn.................................................................................................4
2. Phạm trù lý luận....................................................................................................5
II. Những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.......5
1. Thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích và tiêu chuẩn của lý luận; lý luận
hình thành, phát triển phải xuất phát từ thực tiễn đáp ứng yêu cầu của thực tiễn...5
2. Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận; ngược lại lý luận phải được vận dụng
vào thực tiễn, tiếp tục bổ sung và phát triển trong thực tiễn....................................7
III – Bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều................................................................8
1. Bệnh kinh nghiệm..................................................................................................8


2. Bệnh giáo điều......................................................................................................9
3. Biện pháp khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều..................................9
B – Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong quá trình
học tập của sinh viên............................................................................................10
KẾT LUẬN.............................................................................................................12
Tài liệu tham khảo...................................................................................................13

2

2


LỜI MỞ ĐẦU
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nguyên
tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung và của Triết học Mác – Lênin nói
riêng. Đây không chỉ là nguyên tắc được đề xuất trong nhận thức luận mà còn là lý
luận của chủ nghĩa Mác – Lênin cho quá trình hình thành tri thức khoa học, tri thức
lý luận và phương pháp luận cho hoạt động cải tạo hiện thực khách quan vì mục
đích tiến bộ xã hội.
Lý luận và thực tiễn luôn song hành, bổ sung lẫn nhau. Lý luận phải luôn
bám sát thực tiễn, phản ánh được yêu cầu của thực tiễn, khái quát được những kinh
nghiệm của thực tiễn. Đồng thời, hoạt động thực tiễn phải lấy lý luận chỉ đạo, vận
dụng lý luận phải phù hợp với điều kiện lịch sử - cụ thể.
Tiểu luận nghiên cứu về nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn bao
gồm các nội dung sau: phạm trù lý luận, phạm trù thực tiễn; những yêu cầu cơ bản
của nguyên tắc; những căn bệnh do vi phạm nguyên tắ và cách khắc phục; vận
dụng nguyên tắc trong quá trình học tập của sinh viên.
Do sự hạn chế về thời gian cũng như khả năng vốn có của bản thân nên bài
tiểu luận của em chắc hẳn còn rất nhiều thiếu sót, em rất mong nhận được sự giúp
đỡ và ý kiến đóng góp của thầy, cô để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn.

Em xin chân thành cảm ơn!

3

3


A – Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
I. Phạm trù thực tiễn và phạm trù lý luận
1. Phạm trù thực tiễn
Thực tiễn là những hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã hội
của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người. Nếu con vật chỉ
hoạt động theo bản năng nhằm thích nghi một cách thụ động với thế giới bên ngoài,
thì con người, nhờ vào thực tiễn như là hoạt động có mục đích, có tính xã hội của
mình mà cải tạo thế giới để thoả mãn nhu cầu của mình, thích nghi một cách chủ
động, tích cực với thế giới và để làm chủ thế giới. Con người không thể thoả mãn
với những gì mà tự nhiên cung cấp cho mình dưới dạng có sẵn. Con người phải tiến
hành lao động sản xuất ra của cải vật chất để nuôi sống mình. Để lao động và lao
động có hiệu quả, con người phải chế tạo và sử dụng công cụ lao động. Bằng hoạt
động thực tiễn, trước hết là lao động sản xuất, con người tạo nên những vật phẩm
vốn không có sẵn trong tự nhiên. Không có hoạt động đó, con người và xã hội loài
người không thể tồn tại và phát triển được. Vì vậy, có thể nói rằng thực tiễn là
phương thức tồn tại cơ bản của con người và xã hội, là phương thức đ u tiên và chủ
yếu của mối quan h giữa con người và thế giới. Thực tiễn là cái xác định một cách
thực tế sự liên hệ giữa sự vật với những điểu cần thiết đối với con người.
Tuy trình độ và các hình thức hoạt động thực tiễn có thay đổi qua các giai
đoạn lịch sử khác nhau của xã hội, nhưng thực tiễn luôn luôn là dạng hoạt động cơ
bản và phổ biến của xã hội loài người. Hoạt động đó chỉ có thể được tiến hành
trong các quan hệ xã hội. Thực tiễn cũng có quá trình vận động và phát triển của

nó; trình độ phát triển của thực tiễn nói lên trình độ chinh phục giới tự nhiên và làm
chủ xã hội của con người. Do đó, về mặt nội dung cũng như về phương thức thực
hiện, thực tiễn có tính lịch sử - xã hội.
Thực tiễn bao gồm nhiều yêu tố và nhiều dạng hoạt động. Bất kỳ quá trình
hoạt động thực tiễn nào cũng gồm những yếu tố như nhu cầu, lợi ích, mục đích,
phương tiện và kết quả. Các yếu tố đó có liên hệ với nhau, quy định lẫn nhau mà
nếu thiếu chúng thì hoạt động thực tiễn không thể diễn ra được.
Các hình thức cơ bản của thực tiễn:
- Hoạt động sản xuất vật chất. Đây là dạng hoạt động thực tiễn nguyên thuy
nhất và cơ bản nhất vì nó quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người
và quyết định các dạng khác của hoạt động thực tiễn, nó tạo thành cơ sở của tất cả
các hình thức khác của hoạt động sống của con người, giúp con người thoát khỏi
giới hạn tồn tại của động vật.

4

4


+ Hoạt động chính trị - xã hội là loại hình thực tiễn nhằm biến đổi các quan
hệ xã hội, chế độ xã hội.
+ Hoạt động thực nghiệm khoa học (bao gồm cả thực nghiệm khoa học tự
nhiên và khoa học xã hội), đây là dạng hoạt động thực tiễn diễn ra trong những điều
kiện " nhân tạo" mà những kết quả của nó dù là thành công hay thất bại đều có ý
nghĩa quan trọng vì nó rút ngắn được quá trình nhận thức nhằm làm cho hoạt động
thực tiễn ngày càng hiệu quả.
2. Phạm trù lý luận
“Lý luận là kinh nghiệm đã được khái quát trong ý thức của con người, là
toàn bộ tri thức về thế giới khách quan, là hệ thống tương đối độc lập của các tri
thức có tác dụng tái hiện trong logic của các khái niệm cái logic khách quan của

các sự vật”.
Lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn, phản ánh
những mối liên hệ, bản chất, những quy luật của sự vật, hiện tượng. Chủ tịch Hồ
Chí Minh chỉ rõ: “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng
hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử”.
Lý luận có những cấp độ khác nhau tuỳ phạm vi phản ánh và vai trò phương
pháp luận của nó. Có thể phân chia thành lý luận ngành và lý luận triết học:
- Lý luận ngành là lý luận khái quát những quy luật hình thành và phát triển
của một ngành, nó là cơ sở để sang tạo tri thức cũng như phương pháp luận cho
hoạt động của ngành đó.
- Lý luận triết học là hệ thống những quan niệm chung về thế giới và con
người, là thế giới quan và phương pháp luận nhận thức và hoạt động của con người.
Lý luận có hai chức năng cơ bản là chức năng phản ánh hiện thực khách
quan và chức năng phương pháp luận cho hoạt động thực tiễn. Lý luận phản ánh
hiện thực khách quan bằng những quy luật chung hay chung nhất. Tri thức kinh
nghiệm cũng như tri thức lý luận đều phải phản ánh hiện thực khách quan ở những
phạm vi, lĩnh vực, trình độ khác nhau. Lý luận phản ánh trình độ khách quan để
II. Những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn
1. Thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích và tiêu chuẩn của lý luận;
lý luận hình thành, phát triển phải xuất phát từ thực tiễn đáp ứng yêu cầu của
thực tiễn
1.1 Thực tiễn là cơ sở lý luận
Thông qua thực tiễn được thể hiện ở hoạt động sản xuất vật chất, chính trị xã hội và thực nghiệm khoa học nhận thức của con người được hình thành và phát
triển. Đó cũng là quá trình con người tác động vào giới tự nhiên, xã hội làm giới tự
5

5



nhiên, xã hội bộc lộ những thuộc tính, những tính qui luật để cho con người nhận
thức. Cố nhiên, ban đầu con người chỉ thu nhận được những tài liệu cảm tính, sau
đó tiến hành so sánh, khái quát hoá, trừu tượng hoá…để phản ánh bản chất, qui luật
của các sự vật, hiện tượng, từ đó xây dựng thành các khoa học, lý luận. Theo đó,
thực tiễn là cơ sở của nhận thức của lý luận. Mọi tri thức dù trực tiếp hay gián tiếp
đối với các cá nhân và và cá thế hệ người, ở trình độ kinh nghiệm hay lý luận xét
đến cùng đều có nguồn gốc và bị quyết định bởi thực tiễn.
1.2 Thực tiễn là động lực của lý luận
Trong quá trình hoạt động thực tiễn biến đổi thế giới con người còn biến đổi
bản thân mình, phát triển năng lực trí tuệ của mình. Nhờ đó, con người ngày càng
có khả năng nhận thức, khám phá bí mật của thế giới, làm phong phú, sâu sắc hơn
tri thức của mình về thế giới. Cố nhiên, thực tiễn luôn đề ra nhu cầu nhiệm vụ và
phương hướng phát triển của nhận thức. Nhu cầu thực tiễn đòi hỏi phải có tri thức
mới, phải tổng kết kinh nghiệm, khái quát lý luận, nó thúc đẩy sự ra đời và phát
triển của các ngành khoa học. Các ngành khoa học ra đời chính vì chúng cần thiết
cho hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị - xã hội và thực nghiệm khoa
học của xã hội.
1.3 Thực tiễn là mục đích của lý luận
Nhận thức, lý luận không phải là sự phản ánh thụ động, đơn giản là giải thích
về thế giới về con người mà phải phục vụ thực tiễn, chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Sự
ra đời của các ngành khoa học và hệ thống lý luận của nó chỉ có ý nghĩa thật sự khi
tri thức của khoa học được vận dụng vào thực tiễn, biến đổi giới tự nhiên xã hội và
bản thân con người.
Ngày nay, công cuộc đổi mới xã hội với ở Việt Nam đang đặt ra nhiều vấn đề
mới và phức tạp trong việc chủ trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế, vận
động theo cơ chế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi lý luận phải đi
sâu nghiên cứu những vấn đề đó. Theo đó, vấn đề xã hội hoá giáo dục, y tế, văn hoá
và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay ở việt Nam cũng đòi
hỏi lý luận phải đi sâu nghiên cứu, để khẳng định tính tất yếu của quá trình đó trên
cơ sở phát triển kinh tế xã hội hiện nay ở Việt Nam.

1.4 Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý của lý luận
Tính chân lý của lý luận chính là sự phù hợp của lý luận với hiện thực khách
quan và được thực tiễn kiểm nghiệm. Do đó, mọi lý luận phải thông qua thực tiễn
để kiểm nghiệm. Vì vậy, C.Mác đã khẳng định: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của
con người có thể đạt đến chân lý khách quan hay không, hoàn toàn không phải là
vân đề lý luận mà là vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người đã chứng
minh chân lý”. Thông qua thực tiễn, những lý luận đạt đến chân lý sẽ được bổ sung
vào kho tàng tri thức của nhân loại; những những lý luận nào chưa phù hợp thực
tiễn sẽ tiếp tục điều chỉnh, bổ sung hoặc nhận thức lại.
6

6


Cần phải hiểu thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý một cách biện thứng; tiêu
chuẩn này vừa có tính tuyệt đối và tương đối. Tiêu chuẩn thực tiễn có tính tuyệt đối
vì thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan để kiểm nghiệm chân lý của lý luận khi thực
tiễn đạt đến tính toàn vẹn như một quá trình thống nhất của các giai đoạn của tính
lịch sử cụ thể của nó. Tiêu chuẩn thực tiễn có tính tương đối vì thực tiễn có nhiều
giai đoạn, tính lịch sử cụ thế phát triển khác nhau. Do đó, những lý luận mới chỉ
khái quát một giai đoạn lịch sử cụ thể náo đó của thực tiễn, thì lý luận đó có thể cơ
bản là đúng những vẫn còn những hạn chế, thiếu sót nhất định nên cần phải bổ sung
và phát triển thêm khi thực tiễn đạt đến tính toàn vẹn của nó.
Tiêu chuẩn thực tiễn không thể coi những tri thức của con người là chân lý
tuệt đích cuối cùng mà chân lý chỉ có tính tuyệt đối, tương đối và cụ thể. Bởi trong
quá trình phát triển của thực tiễn và nhận thức, những tri thức đạt được trước kia và
hiện nay vẫn thường xuyên được kiểm nghiệm bởi thực tiễn, nó vẫn được điều
chỉnh, bổ sung, phát triển va hoàn thiện hơn. Việc quán triệt tính biện chứng của
tiêu chuẩn thực thực tiễn đối với chân lý, với lý luận giúp chúng tránh những
khuynh hướng sai lầm của chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa chủ quan và chủ nghĩa

tương đối.
Nguyên tắc sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn không chỉ khẳng định
thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích và là tiêu chuẩn của lý luận mà yêu cầu là lý
luận hình thành, phát triển từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Phân tích vai trò của thực tiễn đối với lý luận yêu cầu chúng ta phải quán
triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất từ thực
tiễn, dựa trên cơ sở thực thực tiễn đáp ứng những yêu cầu của thực tiễn. Quá trình
hình thành và phát trỉen của nhận thức tất yếu dẫn đến sự hình thành và phát triển
của lý luận. Đó không chỉ là là sự tổng kết khái quát lịch sử nhận thức của con
người mà còn từ nhu cầu của thực tiễn. Nhu cầu của thực tiễn xét cho cùng là nhu
cầu những tri thức mới và sự vận dụng nó trong hoạt động sản xuất, hoạt động
chính trị - xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học làm biến đổi hiện thực khách
quan nhằm thoả mãn nhu cầu nói chung của con người.
2. Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận; ngược lại lý luận phải được
vận dụng vào thực tiễn, tiếp tục bổ sung và phát triển trong thực tiễn
Nguyên tắc sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn không chỉ khẳng định vai
trò của thực tiễn đối với lý luận mà còn thấy được vai trò của lý luận có ý nghĩa chỉ
đạo hoạt động thực tiễn.
Khi khẳng định tính thường lạc hậu hơn của ý thức xã hội so với sự vận động
phát triển của tồn tại xã hội, triết học Mác đồng thời thừa nhận rằng trong những
điều kiện khách quan nhất định, tư tưởng của con người, đặc biệt là tư tưởng khoa
học có thể vượt trước tồn tại xã hội. Theo đó, lý luận không chỉ có khả năng định
hướng mục tiêu, xác định lực lượng, biện pháp thực hiện mà còn có khả năng dự
7

7


báo xu hướng phát triển, những thành công, những rủi ro, những hạn chế có thể xảy
ra trong quá trình hoạt động của con người. Như vậy, lý luận tác dụng tổ chức, chỉ

đạo hoạt động thực tiễn của con người, hướng hoạt động đó vào việc giải quyết
những nhiệm vụ do sự phát triển chín muồi của đời sống vật chất của xã hội đặt ra.
Chính vì vậy, C.Mác đã cho rằng: “Vũ khí phê phán cố nhiên không thể thay thế
được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể đánh đổ bằng lực lượng
vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó xâm nhập
vào quần chúng”.
Chủ nghĩa Mác – Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân đã chỉ ra
những qui luật vận động tất yếu của xã hội loài người nói chung, của xã hội tư bản
nói riêng và tính tất yếu của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản. Học thuyết đó trang bị cho giai cấp công nhân và chính đảng cộng sản vũ khí
lý luận sâu sắc để xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Học thuyết
hình thái kinh tế - xã hội của Mác là cơ sở lý luận về thế giới quan duy vật và
phương pháp luận khoa học cho các ngành khoa học xã hội nghiên cứu xã hội như
là một quá trình lịch sử tự nhiên. Ngày nay, thực tiễn của lịch sử và tri thức về lịch
sử của nhân loại đã có nhiều bổ sung và phát triển mới so với khi học thuyết hình
thái kinh tế - xã hội ra đời. Tuy vậy, những cơ sở khoa học mà họa thuyết hình thái
kinh tế - xã hội của Mác đã đem đến khoa học xã hội thì vẫn có những giá trị đích
thực.
Giá trị của chân lý của lý luận không chỉ mang tính tuyệt đối, tính tương đối
mà còn có tính cụ thể. Do đó, khi vận dụng lý luận chúng ta cần phân tích một cách
cụ thể mỗi tình hình cụ thể. Nếu vận dụng máy móc, giáo điều kinh viện chẳng
những hiểu sai giá trị của lý luận mà còn làm phương hại đến kết quả của hoạt động
thực tiễn.
Sự hình thành và phát triển của lý luận là kết quả nhận thức lâu dài của con
người trên cơ sở thực tiễn. Mục đích của lý luận không chỉ là phương pháp, mà còn
là định hướng mục tiêu, mô hình và biện pháp giải quyết các mối quan hệ của hoạt
động thực tiễn. Hơn nữa, vận dụng lý luận vào thực tiễn và thông qua thực tiễn để
tiếp tục bổ sung và phát triển lý luận cho phù hợp với thực tiễn. Chính vì vậy, tính
năng động và sáng tạo của lý luận chính là điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn.
Về vấn đề này, Lênin đã nhận xét rằng: “Thực tiễn cao hơn nhận thức (lý luận), vì

nó có ưu điểm không những ở tính phổ biến, mà cả ở tính hiện thực trực tiếp”.
III – Bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều
1. Bệnh kinh nghiệm
Bệnh kinh nghiệm là sự cường điệu hoặc tuyệt đối hoá kinh nghiệm, coi kinh
nghiệm là "chìa khoá vạn năng" trong việc giải quyết những vấn đề của cuộc sống
đặt ra. Biểu hiện của những người mắc bệnh kinh nghiệm là đề cao kinh nghiệm
cảm tính (tri thức khinh nghiệm), coi thường tri thức lý luận, tri thức khoa học, vận
8

8


dụng kinh nghiệm để giải quyết những vấn đề thực tiễn một cách máy móc, dẫn
đến tình trạng áp đặt kinh nghiệm trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn. Tuy nhiên, tri thức kinh nghiệm thông thường góp phần tạo nên những thành
công nhất định, trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt trong nền
kinh tế truyền thống.
Nước ta là nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ khoa học và khoa học công
nghệ còn thấp. Đó là trực trạng một nền kinh tế truyền thống – nền kinh tế dựa chủ
yếu vào kinh nghiệm. Điều đó dẫn đến phong cách tư duy của con người Việt Nam
vốn mang đậm nét "tư duy kinh nghiệm". Truyền thống đó, là một trong những
nguyên nhân sâu xa của bệnh kinh nghiệm. cơ chế kế hoạch hoá, tập trung, bao cấp
thực hiện một thời gian dài ở nước ta đã triệt tiêu tính sáng tạo của người lao động
và tạo nên tâm lý y lại, bảo thủ, trì trệ làm ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh
tế xã hội. Hậu quả đó sẽ trở lên nghiêm trọng hơn khi bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa
đan kết chặt chẽ với bệnh chủ quan duy ý chí.
2. Bệnh giáo điều
Bệnh giáo điều là sự tuyệt đối hoá tri thức lý luận, tri thức khoa học, coi tri
thức đã là chân lý tuyệt đối và vận dụng một cách máy móc những tri thức đó vào
hoạt động nhận thức cũng như hoạt động cải tạo hiện thực mà không tính đến tính

lịch sử - cụ thể. Xét từ khía cạnh trình độ nhận thức thì bệnh giáo điều có nguồn
gốc từ sự yếu kém về tư duy lý luận. Do đó, dẫn đến hạn chế khả năng áp dụng tri
thức một cách linh hoạt, sáng tạo vào cuộc sống và không hiểu được tính biện
chứng của quá trình nhận thức cũng như biện chứng của lịch sử xã hội. Trong thực
tiễn, đôi khi bệnh giáo điều biểu hiện ở việc áp dụng cái chung vào cái riêng một
cách đơn giản, lấy cái phổ biến áp đặt cho cái riêng, cái đặc thù, hoặc áp dụng một
lý thuyết, một mô hình chưa được kiểm nghiệm thực sự bởi thực tiễn.
Trước đây chúng ta đã nhận thức giáo điều mô hình chủ nghĩa xã hội của
Liên Xô, bởi coi đó là kiểu mẫu duy nhất mà không tính đến điều kiện đặc thù của
Việt Nam. Nhưng khi phát hiện ra sai lầm, chúng ta đã chậm khắc phục, sửa chữa,
nên căn bệnh này vẫn còn tác động tiêu cực đến sự phát triển của đất nước. Đó là
một trong những nguyên nhân đưa nước ta vào tình trạng khủng hoảng nghiêm
trọng về kinh tế, xã hội những năm tám mươi của thế ky XX. Với tinh thần cách
mạng khoa học, Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện,
trong đó đổi mới tư duy lý luận được xem là cơ sở. Từ đó đến nay, chúng ta đã có
những bước tiên quan trọng trong việc khắc phục các khuynh hướng tư duy sai lẩm,
vận dụng một cách khoa học tư duy biện chứng duy vật trong việc giải quyết những
vấn đề do thực tiễn đặt ra. Tuy nhiên, vốn là những bệnh đã tồn tại khá lâu dài và
những cơ sở nảy sinh ra chúng chưa hoàn toàn mất đi, nên chúng chưa hoàn toàn bị
loại trừ. Ở mức độ nào đó, những căn bệnh này vẫn còn ảnh hưởng tiêu cực đến
công cuộc đổi mới của chúng ta.
9

9


3. Biện pháp khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều
Để khắc phục triệt để bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều, chúng ta cần phải
quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong triết học Mác –
Lênin. Cụ thể:

- Bám sát thực tiễn, lý luận phải gắn liền với thực tiễn, thường xuyên kiểm
tra trong thực tiễn và không ngừng phát triển cùng thực tiễn, tăng cường học tập
nâng cao trình độ lý luận, bổ sung, vận dụng lý luận phù hợp với thực tiễn.
- Phải coi trọng lý luận và công tác lý luận; nâng cao dân trí, đẩy mạnh sự
nghiệp giáo dục và đào tạo, phổ biến rộng rãi tri thức khoa học – công nghệ…
- Hoàn thiện cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì kinh tế thị
trường luôn vận động và biến đổi, đòi hỏi mọi thành phần, mọi chủ thể kinh tế phải
năng động, sáng tạo, phải thường xuyên bám sát thị trường để ứng phó cho phù
hợp.
- Phải đổi mới tư duy lý luận, khắc phục sự lạc hậu của lý luận, thu hẹp
khoảng cách giữa lý luận và thực tiễn bằng cách:
+ từ bỏ lối nghiên cứu kinh viện, tư biện;
+ thường xuyên đối chiếu lý luận với cuộc sống, vận dụng lý luận vào hoàn
cảnh thực tế của nước ta.
- Coi trọng và thường xuyên tổng kết thực tiễn, qua đó sửa đổi, phát triển lý
luận đã có, bổ sung hoàn chỉnh đường lối, chính sách, hình thành lý luận mới, quan
điểm mới để chỉ đạo sự nghiệm đổi mới xã hội.
B – Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong quá
trình học tập của sinh viên
Học là hoạt động tiếp thu những tri thức cơ bản của nhân loại đã được đúc
kết qua mấy ngàn năm lịch sử. Chúng ta có thể học ở trường qua sự truyền thụ của
thầy cô giáo; học ở bạn bè; tự học qua sách vở và thực tế đời sống. Mục đích của
việc học là để làm giàu tri thức, nâng cao trình độ hiểu biết về nhiều mặt để có thể
làm chủ bản thân, làm chủ công việc của mình, góp phần hữu ích vào việc xây
dựng sự nghiệp riêng và sự nghiệp chung.
Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong quá trình học
tập nói chung và quá trình học tập của sinh viên chính là việc “Học đi đôi với
hành”, đây chính là mối quan hệ giữa lí thuyết và thực tiễn. Để đạt được hiệu quả
cao, người học nên biết cân bằng giữa lí thuyết và thực tiễn sao cho hài hòa, hợp lí.
10


10


Giữa lí thuyết và thực hành có mối quan hệ hữu cơ, bổ trợ lẫn nhau. Như vậy, học
với hành giúp chúng ta vừa chuyên sâu kiến thức lại vừa thông thạo, hoàn thiện kĩ
năng làm việc.
Học đi đôi với hành không chỉ bó hẹp trong nhà trường, không chỉ là một
cách học để nắm vững kiến thức mà còn là sự vận dụng có hiệu quả những kiến
thức ấy khi ra ngoài xã hội. Những gì được học phải đem áp dụng vào cuộc sống,
chứ không phải học để biết rồi bỏ đó. Học đi đôi với hành là một phương châm
giáo dục đúng đắn và khoa học, đề cập đến một phạm vi khá rộng với những biểu
hiện phong phú, đa dạng. Việc kết hợp giữa lí thuyết và thực hành có thể được tiến
hành dưới nhiều hình thức khác nhau, ở những lĩnh vực khác nhau. Thông qua thực
hành, người học nắm chắc lí thuyết hơn vì lí thuyết ấy được biến thành việc làm và
được kiểm nghiệm trong thực tiễn.
Trên thực tế, nếu học mà không có hành thì việc học chưa trọn vẹn. Lí thuyết
mà không được đem ra thực hành thì đó chỉ là lí thuyết suông. Không có hành,
người học dường như chỉ nắm lí thuyết một cách máy móc, nửa vời, dẫn đến kết
quả là những kiến thức đó sẽ trở nên mơ hồ, không chắc chắn.
Một số đề xuất trong việc vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn trong quá trình học tập của sinh viên:
- Thay đổi suy nghĩ: Xác định việc học là lấy kiến thức, trưởng thành trong
suy nghĩ và kỹ năng sống là cơ sở sau này đi làm chứ không phải học để có tấm
bằng.
- Lập nhóm học tập: Việc học tập theo nhóm sẽ giúp sinh viên phát huy tính
tự lực, tích cực, trách nhiệm của sinh viên; phát triển năng lực cộng tác, làm việc;
hỗ trợ quá trình học tập mang tính xã hội; tăng cường sự tự tin cho sinh viên; năng
cao kết quả học tập; ngăn ngừa chủ nghĩa cá nhân, tạo thói quen làm việc tập thể…
- Tham gia các câu lạc bộ ngoại khóa: Tham gia câu lạc bộ (CLB) ngoại

khoá sinh viên không chỉ được nâng cao hiểu biết về vấn đề mình quan tâm mà còn
có cơ hội giao tiếp, thực hành những điều mình đã học. Tham gia vào các hoạt
động của CLB sinh viên có cơ hội được rèn luyện kĩ năng làm việc theo nhóm, dễ
dàng thích nghi với những khác biệt. Sau này ra trường có thể tự tin hòa nhập bất
kể môi trường nào mà không bị bỡ ngỡ.
- Tìm kiếm công việc làm thêm phù hợp với ngành học: Trong công việc, các
nhà tuyển dụng quan tâm đến hiệu suất công việc, đến sản phẩm bạn làm ra chứ
không phải những gì bạn nói trên lý thuyết. Khi đi làm thêm sinh viên sẽ tích lũy
được nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống, học hỏi được nhiều điều trong thực tế mà
trong trường học không có; trưởng thành hơn, đồng thời có cơ hội rèn luyện các kỹ
năng làm việc và tác phong tốt hơn cho bản than.
11

11


KẾT LUẬN
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, dựa trên cơ sở của thực tiễn,
đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn. Việc nghiên cứu lý
luận phải lien hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến
sai lầm của bệnh chủ quan, duy ý chý, giáo điều, máy móc, quan liêu. Ngược lại,
nếu tuyệt đối hoá vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng, kinh nghiệm
chủ nghĩa.
Như vậy, nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn phải là nguyên tắc
cơ bản trong hoạt động thực tiễn và hoạt động lý luận; lý luận mà không có thực
tiễn làm cơ sở và tiêu chuẩn để xác định chân lý chỉ là lý luận suông. Thực tiễn mà
không có lý luận khoa học cách mạng soi sang thì nhất định sẽ trở thành thực tiễn
mù quáng.

12


12


Tài liệu tham khảo:
1. Giáo trình Triết học – Nhà xuất bản lý luận chính trị;
2. Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin – Nhà xuất bản
chính trị quốc gia;
3. Bài giảng Triết học Mác – Lênin – Biên soạn: Nguyễn Thị Hồng Vân, Đỗ Minh
Sơn, Trần Thảo Nguyên

13

13



×