Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tieu luan (Nhung nguyen ly co ban cua CNXH KH)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.29 KB, 17 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU.
Bước vào thế kỷ XXI, khi mà cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển
như vũ bảo, cùng với vấn đề hòa bình, toàn cầu hóa, bảo vệ môi trường…ở một
diện rộng, khắp nơi trên thế giới đang nổi lên vấn đề con người, trí tuệ con người
và nguồn lực con người. Con người đang là trung tâm trong chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội của nhiều nước, trong đó có Việt Nam. Ngày 07 tháng 11 năm
2006 sau 11 năm đàm phán khó khăn, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên
của WTO, sự kiện trọng đại này mở ra cho chúng ta thêm nhiều cơ hội và thách
thức mới, và nguồn lực chính là yếu tố hàng đầu để quyết định thành công cho đất
nước ta trên một sân chơi đầy khó khăn.
Để phù hợp với đặc điểm phát triển của thời kỳ lịch sử đặc biệt này Đảng và
Nhà nước ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường có tác động rất to lớn; làm tăng trường kinh tế nhanh và nâng
cao đời sống , thúc đẩy cách mạng khoa học và công nghệ, cải tiến quản lý kinh tế.
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa định hướng nền kinh tế tri thức thế kỷ
XXI. Vì vậy, phát triển nguồn nhân lực là tương xứng với yêu cầu đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang là vấn đề trung tâm, là khâu đột phá và
phải đi trước một bước như Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng
định: “Nguồn lực con người – yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh
tế nhanh, bền vững, con người là nguồn nhân lực, là yếu tố quyết định sự phát triển
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
B. PHẦN NỘI DUNG.
I. QUAN NIỆM VỀ CON NGƯỜI, NGUỒN LỰC CON NGƯỜI.
1.1 Về con người.
Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, con người vừa là thực thể tự nhiên, vừa là
thực thể xã hội, đồng thời là chủ thể cải tạo hoàn cảnh.
Con người là một thực thể "song trùng" tự nhiên và xã hội, là sự kết hợp cái
tự nhiên (sinh học) và cái xã hội. Hai yếu tố này gắn kết với nhau, đan quyện vào
nhau, trong cái tự nhiên chứa đựng tính xã hội và cũng không có cái xã hội tách rời
cái tự nhiên.



Con người trong quá trình tồn tại không chỉ tác động vào tự nhiên, làm biến
đổi thế giới tự nhiên mà con người còn quan hệ với nhau tạo nên bản chất người,
làm cho con người khác với con vật. "Bản chất con người không phải là một cái
trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hoà những quan hệ xã hội"
Con người không thể tồn tại được một khi tách khỏi xã hội. Chỉ trong xã hội
con người mới có thể trao đổi lao động, thông qua đó mà thoả mãn những nhu cầu
trong cuộc sống, như ăn, ở, đi lại v.v.. Trong xã hội thông qua quan hệ với người
khác mà mỗi người nhận thức về mình một cách đầy đủ hơn, trên cơ sở đó mà rèn
luyện, phấn đấu vươn lên về mọi mặt, từng bước hoàn thiện nhân cách.
Quan niệm về con người xã hội chủ nghĩa:
Con người xã hội chủ nghĩa bao gồm cả những con người từ xã hội cũ để lại
và cả những con người sinh ra trong xã hội mới. Con người sống dưới chế độ xã
hội chủ nghĩa mang những nét đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, song vẫn còn chịu
ảnh hưởng không ít những tư tưởng, tác phong, thói quen của xã hội cũ. Cho nên,
quá trình xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa là quá trình diễn ra cuộc đấu
tranh gay go, quyết liệt giữa cái cũ và cái mới, cái tiến bộ và cái lạc hậu.
Con người xã hội chủ nghĩa vừa là chủ thể trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội, vừa là sản phẩm của quá trình đó.
Một mặt, trong lao động sản xuất, đấu tranh xã hội, con người tạo ra những
điều kiện cơ sở vật chất ngày một tốt hơn, phục vụ con người ngày một chu đáo
hơn, cuộc sống của con người ngày càng đầy đủ hơn, môi trường xã hội ngày càng
trong sạch, ngày càng nhân văn hơn, do vậy, càng có những điều kiện để xây dựng
nên những phẩm chất của con người xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, cũng chính trong
quá trình lao động cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội mà con người cải tạo chính bản
thân mình, tự rèn luyện khắc phục những hạn chế, thiếu sót của bản thân.
Mỗi thời kỳ lịch sử, trên cơ sở của sự phát triển lực lượng sản xuất, của trình
độ phát triển xã hội, cần phải xác định mô hình con người cần xây dựng. Toàn bộ
mọi hoạt động của xã hội, hệ thống luật pháp, những chính sách kinh tế - xã hội,

mục tiêu của giáo dục - đào tạo phải hướng vào mục tiêu đó, hình thành những
phẩm chất con người theo bản chất, mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Một khi con người


đã hình thành với những phẩm chất tốt đẹp đó lại trở thành chủ thể tự giác để phát
triển xã hội theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa.
Dựa trên lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tiếp thu những giá trị truyền thống
của dân tộc, căn cứ vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, những đặc trưng con người
xã hội chủ nghĩa mà chúng ta phấn đấu xây dựng là:
+ Con người xã hội chủ nghĩa là con người có ý thức, trình độ và năng lực
làm chủ. Đồng thời xã hội tạo ra những điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội, v.v.
để con người thực hiện được quyền làm chủ đó.
+ Con người xã hội chủ nghĩa là con người lao động mới, có tri thức sâu sắc
về công việc mà mình đang đảm nhận, lao động có ý thức kỷ luật, có tinh thần hợp
tác với đồng nghiệp, biết đánh giá chất lượng lao động, hiệu quả lao động của bản
thân.
+ Con người xã hội chủ nghĩa là con người sống có văn hoá, có tình nghĩa
với anh em, bạn bè, mọi người xung quanh, biết được vị trí của mình trong từng
mối quan hệ xã hội và giải quyết đúng đắn được những mối quan hệ đó; thường
xuyên có ý thức nâng cao trình độ tri thức về mọi mặt, ra sức rèn luyện sức khoẻ,
bảo đảm phát triển toàn diện cá nhân.
+ Con người xã hội chủ nghĩa là con người giàu lòng yêu nước, thương dân,
có tình thương yêu giai cấp, thương yêu đồng loại, sống nhân văn, nhân đạo, có ý
thức và kiên quyết đấu tranh bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ những thành
quả cách mạng; kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu chống phá của kẻ
thù.
2. Về nguồn lực con người.
Trong các nguồn lực có thể khai thác như nguồn lực tự nhiên, nguồn lực
khoa học - công nghệ, nguồn vốn, nguồn lực con người thì nguồn lực con người là
quyết định nhất, bởi lẽ những nguồn lực khác chỉ có thể khai thác có hiệu quả khi

nguồn lực con người được phát huy. Chúng ta biết rằng, điều kiện tự nhiên, khí
hậu, địa lý, nguồn vốn có vai trò rất lớn trong sự phát triển của một quốc gia. Song
những yếu tố đó ở dưới dạng tiềm năng, tự chúng là những khách thể bất động.
Chúng chỉ trở thành nhân tố "khởi động", và phát huy tác dụng khi kết hợp với
nguồn lực con người. Những nguồn lực khác ngày càng cạn kiệt, ngược lại nguồn


lực con người ngày càng đa dạng và phong phú và có khả năng nội sinh không bao
giờ cạn. Ngược lại nguồn lực con người càng được sử dụng, lại càng được nâng
cao chất lượng và hiệu quả.
Các lĩnh vực khoa học khác nhau, có thể hiểu nguồn lực theo những cách
khác nhau, nhưng chung nhất nguồn lực là một hệ thống các nhân tố mà mỗi nhân
tố đó có vai trò riêng nhưng có mối quan hệ với nhau tạo nên sự phát triển của một
sự vật, hiện tượng nào đó.
Từ cách hiểu như vậy, nguồn lực con người là những yếu tố ở trong con
người có thể huy động, sử dụng để thúc đẩy sự phát triển xã hội.
Hiện nay có nhiều khái niệm khác nhau về nguồn lực con người. Ngân hàng
Thế giới cho rằng: nguồn nhân lực là toàn bộ vốn người (thể lực, trí lực, kỹ năng,
nghề nghiệp, v.v.) mà mỗi cá nhân sở hữu, có thể huy động được trong quá trình
sản xuất, kinh doanh, hay trong một hoạt động nào đó.
Qua các ý kiến khác nhau có thể hiểu, nguồn lực con người là tổng thể
những yếu tố thuộc về thể chất, tinh thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ tri thức, vị
thế xã hội, v.v. tạo nên năng lực của con người, của cộng đồng người có thể sử
dụng, phát huy trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và trong
những hoạt động xã hội.
Khi chúng ta nói tới nguồn lực con người là ta nói tới con người với tư cách
là chủ thể hoạt động sáng tạo tham gia cải tạo tự nhiên, làm biến đổi xã hội.
Nói tới nguồn lực con người là nói tới số lượng và chất lượng nguồn nhân
lực.
Số lượng nguồn lực con người được xác định trên quy mô dân số, cơ cấu độ

tuổi, sự tiếp nối các thế hệ, giới tính và sự phân bố dân cư giữa các vùng, các miền
của đất nước, giữa các ngành kinh tế, giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Chất lượng nguồn lực con người là một khái niệm tổng hợp bao gồm những
nét đặc trưng về thể lực, trí lực, tay nghề, năng lực quản lý, mức độ thành thạo
trong công việc, phẩm chất đạo đức, tình yêu quê hương đất nước, ý thức giai cấp,
ý thức về trách nhiệm cá nhân với công việc, với gia đình và xã hội, giác ngộ và
bản lĩnh chính trị, v.v. và sự kết hợp các yếu tố đó. Trong các yếu tố trên thì phẩm


chất đạo đức và trình độ học vấn là quan trọng nhất, nó nói lên mức trưởng thành
của con người, quy định phương pháp tư duy, nhân cách, lối sống của mỗi con
người.
Số lượng và chất lượng nguồn lực con người có quan hệ với nhau một cách
chặt chẽ. Nếu số lượng nguồn lực con người quá ít sẽ gây khó khăn cho phân công
lao động xã hội và do vậy, chất lượng lao động cũng bị hạn chế. Chất lượng nguồn
lực con người nâng cao sẽ góp phần làm giảm số lượng người hoạt động trong một
đơn vị sản xuất, kinh doanh hay giảm số người hoạt động trong một tổ chức xã hội,
đồng thời cũng tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động của một tập thể người
trong lao động sản xuất, hoạt động xã hội.
Xã hội muốn phát triển nhanh và bền vững phải quan tâm đào tạo nguồn lực
con người có chất lượng ngày càng cao. Muốn thực hiện được điều đó, cần có sự
quan tâm ngay trong quá trình đào tạo, trong quá trình sử dụng và phân công lao
động xã hội.
II. VAI TRÒ CỦA CON NGƯỜI VÀ VẤN ĐỀ PHÁT HUY NGUỒN
LỰC CON NGƯỜI TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM.
Hiện nay, phát triển bền vững được xác định là chiến lược ưu tiên hàng đầu
của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Một trong những cơ sở, nền tảng quan trọng
nhất để thực hiện chiến lược phát triển đó là nguồn lực con người. Lịch sử phát
triển xã hội đã chứng minh rằng, trong mọi giai đoạn, con người là yếu tố đóng vai
trò quyết định sự phát triển theo chiều hướng tiến bộ của xã hội. Các nhà kinh điển

của chủ nghĩa Mác đã hoàn toàn đúng khi khẳng định rằng, sự phát triển của xã hội
không phải do bất kỳ một lực lượng siêu nhiên nào, mà chính con người đã sáng
tạo nên lịch sử của mình - lịch sử xã hội loài người. Nhận thức rõ vai trò to lớn
của nguồn lực con người, trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa vì "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh", Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhấn mạnh đến nguồn lực con nguời, coi đó
là nguồn lực nội sinh quan trọng nhất cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất
nước.
Với sự ra đời của triết học Mác, vấn đề con người đã được nhìn nhận, đánh
giá và lý giải một cách sâu sắc, khoa học và toàn diện. Đặc biệt, triết học Mác đã
có những phân tích hết sức đúng đắn và khoa học về vị trí, vai trò của con người
đối với sự phát triển xã hội. Vai trò quan trọng không thể thay thế của con người
trong tiến trình phát triển lịch sử thể hiện tập trung trên một số điểm cơ bản sau:


Trước hết, bằng hoạt động cải biến tự nhiên theo nhu cầu mục đích của
mình, đối tượng hoá lực lượng bản chất của mình thông qua thực tiễn, con người
đã tự khẳng định và thể hiện vai trò động lực đối với sự phát triển của xã hội. Nhờ
hoạt động lao động, con người không chỉ tạo nên bước chuyển quan trọng của
mình, “tách” khỏi thế giới động vật để trở thành con người theo đúng nghĩa của từ
này, mà còn "tự nhân đôi mình lên một cách tích cực, một cách hiện thực” như
C.Mác đã khẳng định. V.I. Lênin cũng chỉ rõ rằng, con người là nhân tố quyết định,
làm biến đổi thế giới bằng chính những hành động thực tiễn của mình. Trên cơ sở
thực tiễn, nhận thức của con người về hiện thực khách quan ngày càng đầy đủ hơn,
sâu sắc hơn, tiếp cận gần hơn bản chất của khách thể bằng cách sáng tạo hệ thống
những khái niệm, phạm trù và sử dụng chúng như những phương tiện nhận thức
thế giới. Quá trình vươn lên không ngừng trong nhận thức, phản ánh thế giới khách
quan cũng chính là quá trình con người tích cực hoá năng lực tư duy của mình
thông qua sự trừu tượng hoá, khái quát hoá, suy lý lôgíc để nắm bắt những quy luật
vận động, phát triển của thế giới.

Trên cơ sở đó, con người vận dụng những hiểu biết, tri thức về thế giới vào
hoạt động thực tiễn nhằm cải biến thế giới, phục vụ lợi ích của mình. Chính con
người từng bước nhận thức, khám phá những thuộc tính, bản chất, quy luật, sức
mạnh của tự nhiên và đã vận dụng, sử dụng chúng để cải biến tự nhiên theo mục
đích của mình. Nhờ con người mà tự nhiên hoang sơ đã trở thành tự nhiên nhân
tạo, thành thế giới tự nhiên mang tính người với những đặc tính hoàn toàn mới; đến
lượt nó, giới tự nhiên đã hoà nhập vào đời sống xã hội của con người như một
thành tố không thể thiếu. Đồng thời, trong quá trình tác động vào giới tự nhiên, con
người có thể hoàn thiện mọi tố chất: thể chất, trí tuệ, tình cảm, tâm lý của mình để
ngày càng thể hiện đầy đủ tư cách một thực thể thống nhất giữa cái tự nhiên - sinh
học với cái xã hội - văn hoá.
Thứ hai, do có năng lực nhận thức và cải tạo thế giới, con người đóng vai trò
là chủ thể hoạt động sáng tạo lịch sử, làm cho lịch sử vận động theo hướng tiến bộ.
Lịch sử nhân loại chính là lịch sử hoạt động của con người. Con người là chủ thể
tích cực trong quá trình phát triển xã hội và sáng tạo ra lịch sử của chính mình. Họ
là chủ thể của các quan hệ kinh tế - xã hội và mọi giá trị tinh thần của xã hội. Theo
quan niệm duy vật về lịch sử, sự phát triển của xã hội loài người từ trước đến nay
(và tiếp tục sau này), suy cho cùng, được quyết định bởi sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Trong cấu trúc của lực lượng sản xuất, con người không chỉ là một
bộ phận cấu thành cơ bản mà hơn thế, còn đóng vai trò đặc biệt quan trọng - kết
nối các yếu tố khác với nhau để chúng phát huy tác dụng. Với tính cách một thành
tố của lực lượng sản xuất, con người vừa là chủ thể sáng tạo và “tiêu dùng” sản
phẩm của sản xuất, vừa là một nguồn lực đặc biệt của quá trình sản xuất. V.I.Lênin
hoàn toàn đúng khi ông coi "lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là


công nhân, là người lao động". Thực tế cho thấy, lao động của con người không
chỉ cải biến tự nhiên, mà còn cải biến chính bản thân con người và các quan hệ
giữa con người với con người. Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Lao động là điều kiện
cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người”. Như vậy, con người và xã hội

loài người tồn tại, phát triển được không phải là nhờ vào một sức mạnh thần bí, vô
hình nào từ bên ngoài, mà chính là do hoạt động sản xuất vật chất. Đồng thời, đây
cũng là cơ sở cho các hoạt động trong đời sống tinh thần của con người.
Con người sử dụng sức lao động của mình (cả cơ bắp lẫn trí tuệ) kết hợp với
các công cụ, phương tiện sản xuất khác để tác động vào tự nhiên, cải biến tự nhiên
nhằm thoả mãn các nhu cầu của bản thân và xã hội. Trong quá trình đó, con người
còn không ngừng sáng tạo nên những công cụ lao động mới, thay đổi cách thức sản
xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Lực lượng sản xuất phát triển đòi hỏi
phải thay đổi quan hệ sản xuất lỗi thời và lúc đó, chính con người - với tư cách chủ
thể các quan hệ sản xuất - bằng hoạt động thực tiễn cách mạng của mình tạo lập
nên quan hệ sản xuất mới, phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất; theo đó,
tạo nên bước phát triển mới của phương thức sản xuất và của xã hội. Trong các
cuộc cách mạng xã hội, con người luôn đứng ở vị trí trung tâm, là lực lượng tiến
hành cuộc đấu tranh đưa xã hội sang một giai đoạn phát triển mới, tiến bộ hơn. Đó
chính là vai trò tích cực của nhân tố con người trong phát triển lịch sử thông qua
quá trình thay thế hợp quy luật hình thái kinh tế - xã hội này bằng hình thái kinh tế
- xã hội khác cao hơn. Nói cách khác, thông qua quá trình đó, con người đã sáng
tạo, "viết nên" lịch sử của mình, của xã hội loài người.
Thứ ba, trong quan hệ so sánh với các nguồn lực khác của sự phát triển xã
hội, con người đóng vai trò nguồn lực trọng yếu nhất; hơn thế, còn là nguồn lực vô
tận, có thể khai thác không bao giờ cạn. Như chúng ta đã biết, sự phát triển xã hội
luôn cần đến một hệ thống các nguồn lực khác nhau, như tài nguyên thiên nhiên,
vốn, lao động,... Trong đó, con người thể hiện như một nguồn tài nguyên quý giá
nhất. Các nguồn lực vật chất ngoài con người đương nhiên là cần thiết cho sự phát
triển, song chúng là những nguồn lực hữu hạn, nghĩa là có thể bị cạn kiệt và một số
trong đó là không thể tái tạo được; hơn nữa, chúng cũng chỉ thực sự phát huy giá
trị khi được kết hợp với nguồn lực con người. Trong khi đó, nguồn lực con người
có những tiềm năng nổi trội hơn hẳn. Đặc biệt, trong điều kiện cách mạng khoa
học và công nghệ phát triển mạnh như ngày nay, trí tuệ được coi là nguồn tài
nguyên vô hạn; đồng thời, lao động trí tuệ của con người có ảnh hưởng quyết định

đối với năng suất, chất lượng lao động và do vậy, con người trở thành nguồn lực
nội sinh quan trọng nhất đối với sự phát triển bền vững.
Như vậy, có thể thấy nhân tố con người đóng vai trò cực kỳ to lớn trong lịch
sử phát triển của nhân loại. Một mặt, trong toàn bộ các nhân tố hợp thành cơ thể xã


hội, con người luôn đứng ở vị trí trung tâm; mặt khác, trong hệ thống động lực thúc
đẩy lịch sử xã hội phát triển, con người là động lực cơ bản, quan trọng nhất và
đóng vai trò quyết định.
Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, cũng đã có nhiều nhà tư tưởng lớn sớm
nhận rõ và luôn đề cao vai trò của con người, của quần chúng nhân dân. Chẳng
hạn, Nguyễn Trãi đã từng ví sức dân như nước, đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền
cũng là dân. Vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và kế thừa
những giá trị tinh hoa trong truyền thống tư tưởng của dân tộc về con người, trong
suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới
và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam
luôn coi con người là vốn quý nhất. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng
định rằng, trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không gì
mạnh bằng lực lượng đoàn kết của toàn dân. Quan điểm đó thể hiện sự tin tưởng
của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào sức mạnh vô địch, tuyệt đối của quần
chúng nhân dân - những người làm nên lịch sử của dân tộc. Thực tế cho thấy,
những thắng lợi to lớn, những thành tựu vẻ vang của cách mạng Việt Nam giành
được trong công cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa luôn gắn liền với vai trò của quần chúng nhân dân, với phương thức phát huy, sử dụng nguồn lực con người một cách đúng đắn và hiệu quả
của Đảng.
Bước vào công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, một lần nữa, vai trò quan
trọng của nguồn lực con người tiếp tục được Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định
và phát huy. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, Đảng ta đã chỉ rõ rằng, con người là nguồn lực quan trọng nhất của
sự phát triển xã hội; rằng, phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn

dân tộc là nhiệm vụ chiến lược của Đảng nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, một trong những yếu tố
quyết định việc chúng ta có tranh thủ, tận dụng thành công những thuận lợi, cơ hội
và vượt qua những thách thức, khó khăn mà quá trình đó đặt ra hay không phụ
thuộc đáng kể vào con người - nguồn lực nội sinh đóng vai trò quan trọng và quyết
định nhất. Đương nhiên, nguồn lực nội sinh này cần được bồi dưỡng, phát triển về
mặt chất lượng và sử dụng một cách hợp lý mới phát huy được tiềm năng, hiệu quả
to lớn của nó. Song, để làm được như vậy, cần có sự đánh giá một cách đúng đắn,
toàn diện và khách quan thực trạng nguồn nhân lực của nước ta hiện nay; từ đó, có
những giải pháp mang tính khả thi nhằm phát huy sức mạnh của nguồn lực này.
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ đưa ra đánh giá khái quát về phương


diện những hạn chế của nguồn lực con người, cụ thể là chất lượng lao
động và việc khai thác, sử dụng lao động ở nước ta hiện nay.
Như chúng ta đã biết, Việt Nam là quốc gia có dân số đông trong khu vực.
Xét về mặt lượng, có thể khẳng định nguồn nhân lực nói chung, lực lượng lao động
nói riêng của chúng ta rất dồi dào. Điều này là một thuận lợi nếu chúng ta biết khai
thác triệt để và sử dụng một cách hợp lý, hiệu quả; song đó cũng là một khó khăn,
một sức ép lớn có thể kìm hãm quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Nhìn chung, trong điều kiện hiện nay, đông đảo về lượng không còn là một ưu thế
của lực lượng lao động. Xét về mặt chất lượng, ngoài những phẩm chất như cần cù,
khéo léo..., nguồn nhân lực nói chung và lực lượng lao động nói riêng của nước ta
còn khá nhiều hạn chế, bất cập. Điều này thể hiện trên một số khía cạnh cơ bản,
như thể chất, trí lực, trình độ chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng,... Hiện nay, mặt bằng
dân trí ở nước ta đã được cải thiện và nâng cao một bước; cụ thể là, tính đến năm
2005, cả nước đã có trên 30 tỉnh, thành phố hoàn thành chương trình phổ cập trung
học cơ sở. Tuy nhiên, chất lượng trí lực của nhân tố con người không chỉ thể hiện ở
trình độ học vấn, quan trọng hơn là ở trình độ chuyên môn kỹ thuật được phản ánh

thông qua các chỉ số về số lượng và chất lượng lao động đã qua đào tạo. Theo số
liệu điều tra thực trạng lao động - việc làm năm 2004, tỷ lệ lao động chưa qua đào
tạo ở nước ta còn rất lớn: 72%. Số lao động được đào tạo và được cấp bằng từ công
nhân kỹ thuật trở lên chiếm tỷ trọng thấp: 16,65%. Xét về lực lượng trí thức, tính
đến tháng 7 năm 2005, nước ta có 2.339.091 người có trình độ cao đẳng và đại học
trở lên, trong đó có hơn 18.000 thạc sĩ, gần 16.000 tiến sĩ và tiến sĩ khoa học đang
hoạt động ở tất cả các ngành, lĩnh vực, địa phương. Trí thức khoa học và công nghệ
tập trung chủ yếu trong khu vực sự nghiệp (71%), khu vực hành chính (gần 22%)
và khu vực doanh nghiệp gần 7%.
Nếu phân tích sâu hơn sẽ thấy những bất hợp lý khác, chẳng hạn, cơ cấu lao
động đã qua đào tạo ở các trình độ lại phân bổ không đồng đều giữa các vùng nông
thôn và thành thị, trung ương và địa phương, miền núi và đồng bằng. Thực tế cho
thấy, lực lượng lao động đã qua đào tạo, đặc biệt là số lao động có trình độ cao tập
trung chủ yếu ở các cơ quan trung ương, các thành phố hoặc trung tâm kinh tế lớn,
như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh... Đặc biệt, có sự mất cân đối trầm trọng về
lực lượng trí thức có trình độ tiến sĩ trở lên ở các vùng, miền; vùng đồng bằng sông
Hồng và vùng Đông Nam Bộ chiếm gần 90% số tiến sĩ cả nước (trong đó, thành
phố Hà Nội chiếm 63,82% và thành phố Hồ Chí Minh chiếm 19,33%). Ở 6 vùng
còn lại, vùng cao nhất cũng chỉ chiếm chưa đến 4%. Tổng số tiến sĩ của hai vùng
Tây Bắc và Tây Nguyên chỉ đạt 1% tổng số tiến sĩ của cả nước.
Mặt khác, trong số lao động đã qua đào tạo không phải ai cũng làm việc
đúng ngành nghề chuyên môn; tình trạng làm trái ngành, trái nghề không phải là cá


biệt. Có thể nói, việc sử dụng không hợp lý lao động nói chung đã là một sự lãng
phí, song sử dụng không hợp lý lao động đã qua đào tạo thì mức độ lãng phí còn
lớn hơn nhiều.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, đối với nước ta, để phát huy nguồn lực con
người một cách hợp lý, hiệu quả cần phải có một hệ thống các biện pháp đồng bộ;
trong đó, cần tập trung vào một số biện pháp chủ yếu sau:

Thứ nhất, phát triển mạnh mẽ giáo dục - đào tạo và khoa học - công
nghệ nhằm, một mặt, phục vụ trực tiếp sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước; mặt khác, xây dựng tiềm lực trí tuệ - cốt lõi của nguồn nhân lực chất lượng
cao. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: một dân tộc dốt là một dân tộc yếu và
“vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”.
Trí tuệ là một trong những chỉ số quan trọng nhất của chất lượng nhân tố con
người, nhất là trong thời đại cách mạng khoa học và công nghệ có những bước
phát triển nhảy vọt, khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và sự xuất
hiện của kinh tế tri thức hiện nay. Bên cạnh đó, cần phải chú trọng công tác giáo
dục đạo đức, lối sống cho con người, trước hết là với các thế hệ trẻ - những chủ
nhân tương lai của đất nước. Bởi vì, xã hội hiện đại không chỉ cần có những con
người chuyên gia, mà còn rất cần những con người công dân, có nhân cách và
trách nhiệm cao đối với cộng đồng và xã hội. Do đó, quan điểm của Đảng về “giáo
dục - đào tạo và khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu” phải trở thành tư
tưởng chỉ đạo, được tất cả các cấp, các ngành, gia đình và xã hội quán triệt sâu
rộng và thực thi nghiêm túc nhằm đào tạo những con người Việt Nam phát triển
toàn diện, có đủ cả đức lẫn tài, cả sức khoẻ dồi dào lẫn đời sống tinh thần phong
phú,... tạo nền tảng đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững. Mặt khác, để phát
huy vai trò của giáo dục - đào tạo trong sự nghiệp đổi mới, cần giải quyết tốt mối
quan hệ giữa đào tạo và sử dụng hợp lý, hiệu quả lực lượng lao động. Đồng thời,
cần kết hợp giữa nâng cao trình độ dân trí và phát triển nguồn nhân lực đồng đều ở
các vùng miền, các cộng đồng xã hội; gắn chiến lược phát triển khoa học công
nghệ với nâng cao hàm lượng trí tuệ trong nhân tố con người. Từ chỗ có nguồn lực
con người bảo đảm về chất lượng, cần xây dựng và thực hiện những phương thức,
cơ chế phát huy nguồn lực đó.
Thứ hai, cần quan tâm giải quyết hài hoà các quan hệ lợi ích theo phương
châm bảo đảm công bằng xã hội trong từng chính sách, từng bước phát triển. Lợi
ích chính là điểm mấu chốt, là một trong những động lực hàng đầu nhằm phát huy
nhân tố con người. Trong thực tiễn cách mạng trước đây, do nhu cầu giải phóng
dân tộc nổi lên hàng đầu nên lợi ích toàn dân tộc phải được đặt lên trên hết trong

giải quyết mọi mối quan hệ lợi ích. Tuy nhiên, khi đất nước hoà bình, các nhu cầu


và lợi ích chính đáng của người dân cần được tôn trọng và bảo đảm ngày càng tốt
hơn. Theo đó, để phát huy vai trò của nguồn lực con người trong sự nghiệp đổi mới
đất nước, không thể không đặt ra vấn đề giải quyết hài hoà giữa lợi ích cá nhân với
lợi ích cộng đồng và lợi ích toàn xã hội, giữa lợi ích trực tiếp trước mắt với lợi ích
lâu dài, giữa lợi ích vật chất với lợi ích tinh thần... Bên cạnh đó, cần coi trọng và
thực hiện tốt hệ thống chính sách xã hội theo hướng lấy con người là trung tâm.
Đặc biệt, Đảng và Nhà nước cần có chính sách bảo đảm công bằng xã hội, tạo điều
kiện cho tất cả mọi người đều được hưởng lợi từ sự tăng trưởng của nền kinh tế, có
cơ hội bình đẳng trong việc tiếp cận các dịch vụ liên quan đến phát triển con người.
Đó chính là quá trình tích luỹ về lượng để có những biến đổi về chất và trong
trường hợp mà chúng ta đang xem xét, là sự cống hiến ở mức cao nhất năng lực cá
nhân của mỗi con người cho cộng đồng, xã hội.
Thứ ba, cần xây dựng và thực hiện một cơ chế dân chủ hoá mọi mặt đời
sống xã hội nhằm tạo môi trường, điều kiện thiết yếu để phát huy vai trò của nguồn
lực con người trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhân tố con người chỉ được
khai thác và phát huy tối đa khi con người thực sự làm chủ tự nhiên, làm chủ xã
hội và làm chủ chính mình. Để phát huy tính tích cực, tự giác, sáng tạo của con
người trong mọi hoạt động thì nhất thiết phải xây dựng và thực hiện một cơ chế
dân chủ, trong đó ngày càng quan tâm đến dân chủ trực tiếp nhằm hiện thực hoá
những giá trị dân chủ xã hội chủ nghĩa trong đời sống xã hội. Việc phát huy dân
chủ không chỉ tạo cơ hội thuận lợi cho tất cả mọi người có thể cống hiến năng lực
của mình cho xã hội, mà còn có ý nghĩa tạo điều kiện cho việc thực hiện cơ chế
phản biện xã hội với tinh thần lành mạnh, xây dựng và phát huy trách nhiệm công
dân. Nói cách khác, thông qua quá trình dân chủ hoá, trí tuệ của toàn dân được huy
động và đóng góp vào sự phát triển chung của xã hội. Đó cũng là lý do tại sao Hồ
Chí Minh coi dân chủ là chìa khoá vạn năng để giải quyết mọi vấn đề mà thực tiễn
cách mạng đặt ra.

Tuy nhiên, thực hiện dân chủ phải đi đôi với tăng cường kỷ cương pháp luật,
pháp chế xã hội chủ nghĩa; khắc phục mọi biểu hiện dân chủ cực đoan hoặc lợi
dụng “dân chủ” để chia rẽ khối đại đoàn kết, làm rạn nứt sự đồng thuận xã hội. Lấy
dân chủ trong Đảng, trong bộ máy Nhà nước làm nòng cốt để thực hiện tốt quy chế
dân chủ ở cơ sở, tăng cường dân chủ nhằm giải phóng mọi năng lực sáng tạo của
quần chúng nhân dân, góp phần ổn định chính trị - xã hội, tạo điều kiện cho sự
nghiệp đổi mới thắng lợi.
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, cha ông ta đã sáng suốt
khi dựa vào nhân tố con người để đạt đến mọi thành công. Ngày nay, trong bối
cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, việc luôn nhận thức sâu sắc vai trò to lớn
của nguồn lực con người và lấy đó làm điểm tựa vững chắc là điều kiện để chúng


ta đưa sự nghiệp đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
đến thắng lợi. Phát huy nguồn lực con người để phát triển xã hội, đó là một vấn đề
có tính quy luật.
III. PHƯƠNG HƯỚNG CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY NGUỒN LỰC
CON NGƯỜI TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM.
Một là, tiếp tục thực hiện nhất quán phát triển kinh tế nhiều thành phần theo
định hướng xã hội chủ nghĩa và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Qua đó, giữ vững tăng trưởng kinh tế là điều kiện, nền tảng quan trọng để xây
dựng con người hiện nay. Thực hiện nhất quán nền kinh tế nhiều thành phần định
hướng XHCN hiện nay, nội dung chủ yếu là tiếp tục thực hiện thể chế kinh tế thị
trường, trong đó bao gồm: nắm vững kinh tế XHCN trong nền kinh tế ấy; nâng cao
vai trò và thực hiện quản lý kinh tế của Nhà nước; phát triển đồng bộ và quản lý có
hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh;
phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh.
Đẩy mạnh CNH, HĐH là giải pháp giải quyết nâng cao chất lượng lực lượng
sản xuất mà trong đó con người là bộ phận hàng đầu. Đẩy mạnh CNH, HĐH hiệnn
nay ở nước ta là tập trung vào: lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn; phát triển kinh

tế biển, chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ; bảo vệ và sử dụng có hiệu
quả tài nguyên quốc gia, cải thiện môi trường tự nhiên.
Hai là, đổi mới hệ thống chính trị ở cơ sở, thực hiện tốt hơn pháp lệnh thực
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Các dạng cơ sở nhất là xã, phường, thị trấn là nơi
tuyệt đại bộ phận Nhân dân cư trú, sinh sống. Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò
to lớn trong xây dựng con người ở việc tổ chức và vận động Nhân dân thực hiện
đường lối chính sách pháp luật, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền
làm chủ của Nhân dân, huy động mọi khả năng của Nhân dân vào phát triển kinh
tế-xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư . Cho nên, đổi mới hệ thống
chính trị ở cơ sở là trực tiếp tác động xây dựng con người. Hiện nay, hệ thống
chính trị ở cơ sở còn yếu kém. Để nâng cao chất lượng hoạt động cần phải: Đổi
mới nội dung và phương thức lãnh đạo của tổ chức Đảng ở cơ sở; đổi mới và nâng
cao hiệu lực của chính quyền ở cơ sở; đổi mới công tác của Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể của Nhân dân.


Thực hiện dân chủ cơ sở là thể hiện sự tôn trọng con người; động viên
nguồn lực cả vật chất, tinh thần của Nhân dân vào xây dựng cơ sở, do đó, góp phần
phát triển đất nước. Qua đó, người dân trưởng thành về chính trị thông qua thực
hiện phương châm cơ bản nhất của dân chủ ở cơ sở là: dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra. Thực hiện tốt pháp lệnh thực hiện dân chủ ở cơ sở là giải pháp thực
hiện phát huy nhân tố con người.
Ba là, tiếp tục đổi mới giáo dục và đào tạo có kết quả hơn, phát triển khoa
học và công nghệ có bước tiến bộ hơn nữa. Đây là giải pháp cách bách nhất trong
xây dựng con người hiện nay. Để đạt kết quả giáo dục, đào tạo ta cần tiếp tục đổi
mới trên cơ sở đồng bộ, sáng tạo những biện pháp chủ yếu sau:
+ Đổi mới mục tiêu, nội dung chương trình giáo dục;
+ Phát triển đội ngủ nhà giáo, đổi mới phương pháp giáo dục;
+ Đổi mới quản lý giáo dục;
+ Tiếp tục hoàn thiện cơ cấu gệ thống giáo dục quốc dân, phát triển mạnh

mẽ mạng lưới trường lớp, cơ sở giáo dục;
+ Tăng cường nguồn tài chính, cơ sở vật chất cho giáo dục;
+ Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục;
+ Đẩy mạnh hợp tác Quốc tế về giáo dục.
Cũng như vậy, để đạt kết quả tiến bộ hơn trong phát triển khoa học và công
nghệ cần thực hiện, đồng bộ sáng tạo những giải pháp sau:
+ Đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ;
+ Phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ;
+ Xây dựng và phát triển thị trường khoa học và công nghệ;
+ Đẩy mạnh hội nghập kinh tế quốc tế và khoa học và công nghệ.
Bốn là, Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng đời sống tinh thần lành mạnh thông qua
việc xây dựng và phát huy nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Ba trụ cột ở nước ta được xác định là: Kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng


Đảng là nhiệm vụ then chốt, đồng thời, phát triển văn hóa xây dựng đời sống tinh
thần của Nhân dân. Thế nhưng, trụ cột ba lại phát triển chậm hơn, không tương
xứng với hai trụ cột còn lại.
Năm là, nâng cao chất lượng công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe Nhân
dân. Hiện nay, để nâng cao chất lượng bảo vệ và chăm sóc sức khỏe, trước hết tăng
đầu tư của nhà nước và chuyển biến mạnh mẽ trong việc nâng cấp mạng lướng y tế
cơ sở, y tế dự phòng, các bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh, huyện, các trung tâm y tế
vùng, các cơ sở y tế chuyên sâu. Thực hiện tốt phong trào vệ sinh, phòng bệnh và
các biện pháp kiểm soát vệ sinh, an toàn thực phẩm; nâng cao năng lực giám sát,
phát hiện và khống chế dịch bệnh, đặc biệt là HIV/AIDS và các dịch bệnh mới phát
sinh. Trang bị kiến thức và kỷ năng để mỗi người dân có khả năng chủ động phòng
bệnh có rèn luyện nâng cao sức khỏe.
Khuyến khích phát triển các cơ sở y tế thuộc nhiều hình thức sở hữu, kể cả
đầu tư nước ngoài. Hoàn thiện và củng cố mạng lưới y học cổ truyền. Đổi mới
quản lý các bệnh viện công lập, nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của bệnh

viện. Sửa đổi chế độ viện phí theo nguyên tắc xác định đầy đủ chi phí khám, chữa
bệnh và chia sẻ hợp lý trách nhiệm chi trả giữa nhà nước, xã hội và người bệnh.
Phát triển và nâng cao chất lượng bảo hiểm y tế.
Phát triển mạnh công nghiệp dược, nâng cao năng lực sản xuất thuốc trong
nước. Phát huy vai trò và hiệu quả kết hợp quân – dân y trong bảo vệ, chăm sóc và
nâng cao sức khỏe Nhân dân và các lực lượng vũ trang, nhất là ở các vùng sâu,
vùng xa, biên giới, hải đảo. Kết hợp chặt chẽ các ngành y tế, thể dục, thể thao, giáo
dục lực lượng vũ trang, các đoàn thể nhân dân trong việc thực hiện và xây dựng
chương trình nâng cao năng lực thể chất và tầm vóc con người Việt Nam, đặc biệt
là thiếu niên, thanh niên.
Sáu là, hoàn thiện và thực hiện tốt hơn hệ thống chính sách xã hội. Hệ thống
chính sách xã hội tác động mạnh mẽ đến động viên, nâng đỡ con người. Hoàn thiện
và thực hiện tốt hơn chính sách xã hội trên cơ sở quán triệt các quan điểm sau đây:
Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng
bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bẳng xã hội phải thể hiện hiện ở cả
khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, ở
việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng sản xuất, ở


việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực
của mình. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao
động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp
các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối thong qua phúc
lợi xã hội, đi đôi với chính sách điều tiết hợp lý, bảo hộ quyền lợi của người lao
động. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo.
Thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển, về mức sống giữa các vùng, các
dân tộc, các tầng lớp dân cư. Phát huy truyền thống tốt đẹp giữa các dân tộc “Uống
nước nhớ nguồn nước”, “Đền ơn đáp nghĩa”, nhân hậu, thủy chung. Các vấn đề
chính sách xã hội đều giải quyết theo tinh thần xã hội hóa. Nhà nước giữ vai trò
nòng cốt đồng thời động viên mỗi người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội,

phòng chống tệ nạn xã hội, đảm bảo trật tự an toàn giao thông, bảo vệ môi trường
sinh thái…
Sau nữa, tiếp tục củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc làm cho con người
Việt Nam đồng thuận, hài hòa giữa cá nhân với cộng đồng tạo nên sức mạnh tổng
hợp. Để thực hiện được cần chú ý đến các chính đối với các giai cấp và tầng lớp
mà Đảng ta đã nêu ra trong Đại hội X. Các chính sách này như là những giải pháp
cơ bản để xây dựng và phát huy vai trò con người Việt Nam với tích cách là các
giai cấp, tầng lớp quan trọng nhất trong cơ cấu xã hội Việt Nam (giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân, đội ngủ tri thức, doanh nhân, thế hệ trẻ, phụ nữ, cựu chiến
binh, người cao tuổi, đồng bào các dân tộc, đồng bào các tôn giáo, đồng bào định
cư ở nước người).
C. PHẦN KẾT LUẬN.
Nguồn nhân lực là một nguồn lực vô cùng quan trọng ở tất cả mọi quốc gia,
là nguồn lực quyết định đến sự phát triển của đất nước và ở Việt Nam nguồn lực
này lại càng cần thiết. Việt Nam là đất nước đang phát triển với nhiều tiềm năng to
lớn và đặc biệt là tiềm năng con người với những đặc tính vô cùng quý báo của
người lao động Việt Nam từ xưa đến nay.
Việc gia nhập WTO đã mở cho Việt Nam thêm nhiều cơ hội cũng như thách
thức mới vì vậy chúng ta cần phải chuẩn bị thật tốt về mọi mặt cho cuộc chơi đầy
khó khăn này. Cần phải chuẩn bị về mặt “chất” cho nguồn lực để họ tiếp thu thêm


nhiều thành tựu mới trên thế giới, phát triển đất nước thực hiện thành công những
nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước đã đề ra trong thời gian tới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tập bài giảng môn học Chủ nghĩa xã hội khoa học.


2.Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nhà xuất bản Chính trị Quốc

Gia Hà Nội năm 2014.
3. Chủ nghĩa Mác-Lê Nin về con người và phát huy nguồn lực con
người trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam, PGS, TS Phan Thanh Khôi.
4. Quan điểm của Đảng về phát triển nguồn nhân lực trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạp chí cộng sản tháng 4/2017.



×