Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tieu luan cong tac can bo cua Dang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.6 KB, 21 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận
mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ; cán bộ và công tác cán bộ là khâu then
chốt trong công tác xây dựng Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã dày
công đào tạo, huấn luyện, xây dựng được một đội ngũ cán bộ tận tụy, kiên
cường, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ qua các giai đoạn cách mạng.
C.Mác và Ph.Ăngghen là những người đặt nền móng cho vấn đề cán bộ
của giai cấp vô sản, Hai ông không chỉ là những người sáng lập ra chủ nghĩa xã
hội khoa học mà còn là những người đem lý luận khoa học kết hợp với phong
trào công nhân, lập nên tổ chức cộng sản đầu tiên trên thế giới. Giai cấp vô sản
và chính đảng của mình muốn giành chính quyền thì phải xây dựng được một
đội ngũ cán bộ trung thành và tài năng, đáp ứng được nhiệm vụ cách mạng. Các
ông cho rằng: Mỗi thời đại xã hội đều cần có con người vĩ đại và nếu không có
những con người như thế thì, như Henvêxinxơ nói: thời đại sẽ sáng tạo ra con
người như thế. Trong tác phẩm: Gia đình thần thánh Mác đã khẳng định: "Muốn
thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn" 1.
Trong điều kiện lịch sử cụ thể của cách mạng, Đảng chưa nắm chính
quyền, C.Mác và Ph.Ăngghen chưa có thực tế để bàn nhiều về vấn đề cán bộ và
công tác cán bộ, nhưng hai ông rất quan tâm đến việc xây dựng một đội ngũ
những nhà tuyên truyền, cổ động, truyền bá tư tưởng cộng sản; lãnh đạo, tổ chức
các phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản, trên cơ sở đó, kết hợp với phong
trào công nhân để lập ra chính đảng của giai cấp công nhân.
V.I.Lênin, kế thừa và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác, đã đặc biệt coi
trọng đội ngũ những nhà cách mạng chuyên nghiệp cho phong trào vô sản. Đó
là những cán bộ nòng cốt đầu tiên của Đảng cộng sản (b) Nga, những người
giúp Đảng “...đảo ngược nước Nga lên” 2, “những nhà chính trị của giai cấp
thực sự của mình, những nhà chính trị vô sản và không thua kém các nhà chính
trị của giai cấp tư sản” 3.
Vận dụng quan điểm của Mác – Ăngghen và Lênin; trong tác phẩm Sửa đổi
lối làm việc, Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Cán bộ là những người đem chính sách
của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu và thi hành. Đồng thời đem


tình hình báo cáo cho Đảng và Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng" 4. Hồ
Chí Minh đặt cán bộ và công tác cán bộ ở vị trí có tính quyết định đối với quá trình
tổ chức thực hiện chính sách của Đảng và Chính phủ.
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa; nhiệm vụ chính trị mới rất nặng nề, khó khăn và phức tạp, đòi hỏi Đảng ta
phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ ngang tầm, coi đó là khâu then chốt,
C.Mác - Ph.Ăngghen toàn tập, NXBCTQG, H.1995, tập 2, tr.181
Lênin toàn tập, NXB tiến bộ, M.1975, tập 6, tr.162
3
Sđd, t.41, tr 80-81
4
Hồ Chí Minh, toàn tập, NXB CTQG, H, 2002, t.5, tr 269
1
2

1


khâu quyết định để tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng; góp phần thực hiện
hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Qua nghiên cứu môn học, tác giả xin phép chọn chủ đề “Vị trí, vai trò của
cán bộ và công tác cán bộ; sự vận dụng của Đảng ta trong xây dựng đội ngũ
cán bộ giai đoạn hiện nay” làm tiểu luận. Tiểu luận chỉ giới hạn làm tài liệu
tham khảo, nghiên cứu bổ sung nội dung học tập, là cơ sở nghiên cứu các lĩnh
vực liên quan đồng thời tạo tiền đề cho bản thân nghiên cứu rộng hơn, sâu hơn
trên lĩnh vực này về sau.

2



Chương 1
TƯ TƯỞNG CỦA V.I.LÊNIN VÀ HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ VÀ
CÔNG TÁC CÁN BỘ
1.1. Quan điểm của Lênin về vị trí, vai trò của cán bộ
và công tác cán bộ:
Theo Lênin, Đảng cộng sản lãnh đạo là nhân tố cơ bản quyết định mọi
thằng lợi của sự nghiệp cách mạng “...thông thường, trong phần nhiều các
trường hợp, hay ít ra trong những nước văn minh hiện nay thì các giai cấp đều
do các chính đảng lãnh đạo; rằng thông thường thì các chính đảng đều nằm dưới
quyền lãnh đạo của những nhóm ít nhiều có tính chất ổn định, gồm những người
có uy tín nhất, có ảnh hưởng nhất, có kinh nghiệm nhất, được bầu ra giữ những
trách nhiệm trọng yếu nhất và người ta gọi đó là các lãnh tụ” 5. Như vậy, Lênin
đã gắn chặt đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ với vai trò lãnh đạo của Đảng.
Không có đội ngũ cán bộ vững mạnh thì Đảng không thể duy trì, giữ vững được
sự lãnh đạo của mình. Không nhận thức đầy đủ, khoa học về mối quan hệ này sẽ
không thấy được thực chất sự lãnh đạo chính trị của giai cấp công nhân trong
thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Người giải thích, sự
lãnh đạo của Đảng trước hết thông qua đường lối chính trị, đồng thời phải thông
qua con người, bộ máy tổ chức. Người viết: “sự lãnh đạo chính trị sẽ là gì chứ?
Ai lãnh đạo nếu không phải là những con người, lãnh đạo cách nào, nếu không
phải là phân phối lực lượng” 6.
Trong bất kỳ giai đoạn nào của cách mạng, cán bộ luôn luôn giữ vai trò
đặc biệt quan trọng, bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách
mạng vô sản. “Người cộng sản lãnh đạo chỉ có một cách duy nhất để chứng
minh quyền lãnh đạo của mình, đó là tìm cho mình được nhiều, càng ngày càng
nhiều, những người phụ tá..., biết giúp đỡ họ làm việc, biết đề bạt họ, biết giới
thiệu và chú ý đến kinh nghiệm của họ” 7.
Cán bộ có vai trò rất quan trọng với tổ chức, tổ chức mạnh sẽ duy trì được
phong trào cách mạng, tổ chức sẽ thu hút được đông đảo quần chúng tham gia
phong trào, cán bộ là người lãnh đạo tổ chức, đưa phong trào đấu tranh của quần

chúng từ tự phát thành đấu tranh trong tổ chức. Cán bộ phải làm cốt công việc
của mình, không ngừng làm tốt công tác tổ chức. Do đó, cán bộ phải lấy hoạt
động cách mạng làm nghề nghiệp của mình...
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Sức mạnh của Đảng chính là sức
mạnh của quần chúng. Đảng chỉ mạnh khi được quần chúng ủng hộ. Chính vì
vậy, cán bộ phải là nguời luôn quan hệ mật thiết với quần chúng, trực tiếp hoạt
động trong phong trào quần chúng, đi vào tất cả các giai cấp và tầng lớp hướng
dẫn tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ cách mạng cho quần chúng, tổ chức quần
chúng làm cách mạng. Cán bộ là "những người phát sách báo truyền đơn, những
Lênin toàn tập, NXB tiến bộ, M.1977, tập 41, tr.30
Sđd, t.40, tr.306
7
Lênin toàn tập, NXB tiến bộ, M.1977, tập 42, tr.407
5
6

3


người tổ chức các tiểu tổ và nhóm công nhân". Chính từ phong trào quần chúng
mà nảy sinh ra đội ngũ cán bộ và rèn luyện đội ngũ cán bộ "Quần chúng sẽ sản
sinh ra ngày càng nhiều những người cách mạng chuyên nghiệp ấy" 8. Được tôi
luyện trong phong trào cách mạng của quần chúng, cán bộ được coi là một nghề;
và phải luôn rèn luyện mình để phục vụ phong trào quần chúng: "Muốn "phục
vụ" một phong trào quần chúng thì cần phải có những người đặc biệt chuyên và
hoàn toàn chuyên về hoạt động dân chủ - xã hội và phải bền bỉ, kiên quyết tự rèn
luyện mình thành những người cách mạng chuyên nghiệp" 9.
Cán bộ phải vừa là nhà chiến lược, vừa là nhà chiến thuật, biết đề ra chính
sách đúng phản ánh mục tiêu của giai cấp mình phù hợp với xu thế của dân tộc
và nhân loại; xác định rõ mục tiêu và con đường đi tới, những lực lượng thực

hiện, những giải pháp cơ bản. Cán bộ phải là người có đạo đức cao cả, có tri
thức văn hoá sâu rộng, có trí tuệ và trực giác chính trị nhạy bén, ý thức được
sứ mệnh chính trị, đồng thời có tài tổ chức và nghệ thuật lãnh đạo chính trị.
Họ là người có uy tín nhất, có ảnh hưởng nhất, có kinh nghiệm nhất, giữ trách
nhiệm trọng yếu nhất. Những phẩm chất của người cán bộ lãnh đạo giúp họ
có thể tập hợp được xung quanh mình đội ngũ tinh hoa của giai cấp, những
người cách mạng tiêu biểu cho lương tâm, danh dự của dân tộc và nhân loại.
* Về tiêu chuẩn cán bộ: Trước hết, cán bộ phải có lý tưởng cách mạng.
Lý tưởng cách mạng là xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xây dựng chủ nghĩa
cộng sản. Nhiệm vụ của cán bộ là giúp đỡ quần chúng lao động thắng được chế
độ cũ và xây dựng chế độ mới không còn giai cấp bóc lột. Cách mạng là sáng
tạo ra cái mới, tiến bộ, hợp với nhân loại. Cách mạng là xoá bỏ những gì lỗi thời
song phải kế thừa những gì hợp với xã hội mới; giữ gìn, tôn trọng những giá trị
vật chất và tinh thần mà loài người đã tạo ra. Thứ hai, cán bộ phải hành động vì
lợi ích chung. Cán bộ là người giác ngộ nhất, kiên quyết nhất của Đảng Cộng
sản, của giai cấp công nhân, đặt lợi ích chung lên trên hết. Đây là điểm phân biệt
người cộng sản với các đảng viên đảng vô sản khác. Cán bộ phải luôn ý thức
được mình là đầy tớ phục vụ Nhân dân. Người cán bộ phải là tấm gương để mọi
người học tập và noi theo, phải dành được tín nhiệm, tin yêu quần chúng. Thứ
ba, cán bộ phải là người có trách nhiệm. Với lý tưởng cách mạng cao cả, người
cán bộ phải hết khả năng, sức lực của mình để cống hiến cho Tổ quốc và Nhân
dân. Người cán bộ lãnh đạo phải có tinh thần trách nhiệm cao, biết chịu trách
nhiệm về sự lãnh đạo của mình. Theo Lênin: "Cần phải nhiệt tình hơn nữa trong
việc phổ biến trong quần chúng cái ý thức ngày càng sáng rõ đã đạt được bằng
cách đó và phải củng cố ngày càng mạnh mẽ tổ chức của Đảng" 10. Thứ tư,
người cán bộ phải hội tụ được phẩm chất đạo đức khác như: Trung thực, có bản
lĩnh chính trị vững vàng, tự chủ, tự tin, có chính kiến và dám bảo vệ chính kiến
của mình. Không được "lấy tự phát của phong trào quần chúng để biện hộ cho
tinh thần uỷ mị của mình" 11.
Lênin toàn tập, NXB tiến bộ, M.1975, tập 6, tr.160

Lênin toàn tập, NXB tiến bộ, M.1975, tập 6, tr.161
10
Lênin toàn tập, NXB tiến bộ, M.1975, tập 6, tr.34
11
Lênin toàn tập, NXB tiến bộ, M.1975, tập 6, tr.162
8
9

4


Xuất phát từ thực tiễn cách mạng, Lênin đặt ra yêu cầu cao đối với cán
bộ. Họ phải là những người đặc biệt chuyên và hoàn toàn chuyên về hoạt động
xã hội dân chủ và bền bỉ, quyết tâm rèn luyện để trở thành người cách mạng
chuyên nghiệp. Cách mạng phải đào tạo ra đội ngũ cán bộ đủ sức gánh vác
nhiệm vụ. Lênin yêu cầu: "Chúng ta phải đào tạo những người dân chủ - xã hội
làm công tác thực tiễn thành những lãnh tụ chính trị biết lãnh đạo mọi mặt biểu
hiện của cuộc đấu tranh toàn diện ấy, biết “vạch ra” đúng lúc "một cương lĩnh
hành động tích cực" 12.
Cùng với phẩm chất đạo đức và tri thức toàn diện, cán bộ phải có năng
lực thực tiễn: Trước hết, khả năng vận dụng sáng tạo lý luận vào thực tiễn một
cách phù hợp sáng tạo. Theo quan điểm của Mác - Lênin: Lý luận phải gắn với
thực tiễn và phục vụ thực tiễn, dẫn dắt thúc đẩy hoạt động của con người nhằm
biến đổi thực tiễn bằng cách mạng. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là
thống nhất có tính khoa học và cách mạng, trong nhận thức thế giới và cải tạo
thế giới. Người cán bộ phải nắm vững lý luận cách mạng, biết kết hợp với thực
tiễn của cách mạng. Theo Lênin: Sự nghiệp cách mạng muốn thành công đòi hỏi
phải có đội ngũ cán bộ đóng vai trò tổ chức của quá trình thực tiễn một cách có
hiệu quả. Người cán bộ phải là người thực sự có khả năng tổ chức và lãnh đạo
phong trào, có nhiều uy tín, nhiều ảnh hưởng và nhiều kinh nghiệm, có bộ óc

sáng suốt, có bản lĩnh, tháo vát trong thực tiễn, kiên quyết nhưng cần linh hoạt,
tháo vát trong thực tiễn, kiên quyết nhưng cần linh hoạt, mềm dẻo về phương
pháp và sách lược. "Chúng ta là người Bôn sê vích chúng ta phải nhẫn nại, phải
kiên trì giải thích cho công nhân và nông dân hiểu rõ quan điểm của chúng ta...
mỗi người phải làm tất cả: vừa là cán bộ cổ động vừa là cán bộ tuyên truyền, vừa
là cán bộ tổ chức của chúng ta, chỉ như vậy chúng ta mới làm cho dân hiểu được
học thuyết của chúng ta, suy nghĩ kinh nghiệm của bản thân và thực sự giành lấy
chính quyền về tay mình" 13.
Hai là, có năng lực chỉ huy điều hành. Cán bộ đóng vai trò to lớn trong
quá trình cách mạng từ giác ngộ lý tưởng cho quần chúng đến tổ chức họ tạo nên
sự phối hợp nhịp nhàng giữa lực lượng, tổ chức, sự thống nhất ý chí và hành
động. Những phẩm chất, lòng trung thành, trình độ lý luận, tính đảng, lập trường
giai cấp phải được thể hiện ra ngoài bằng hành động. Cán bộ là người thực sự có
tài tổ chức, bộ óc sáng suốt. Họ được rèn luyện thử thách trong thực tiễn. Lênin
khẳng định: "Không một phong trào cách mạng nào mà lại vững chắc được nếu
không có một tổ chức ổn định duy trì được tính liên tục gồm những người lãnh
đạo... Một tổ chức như thế chủ yếu gồm những người lấy hoạt động cách mạng
làm nghề nghiệp của mình" 14.
Ba là, kỹ năng và nghệ thuật lãnh đạo. Theo Lênin: Cán bộ phải làm
chính trị là một nghệ thuật. Chính trị là khoa học và nghệ thuật không phải từ
Lênin toàn tập, NXB tiến bộ, M.1975, tập 6, tr.110
Sđd Tập 32, tr.63-64
14
Lênin toàn tập, NXB tiến bộ, M.1975, tập 6, tr.258
12
13

5



trên trời rơi xuống, mà đòi hỏi có sự rèn luyện, cố gắng. Giai cấp vô sản muốn
thắng giai cấp tư sản thì phải tạo lấy nhà chính trị giai cấp thực sự của mình,
những nhà chính trị vô sản không thua kém những nhà chính trị của giai cấp tư
sản. Cán bộ phải là người sáng tạo linh hoạt trong tư duy và hoạt động nghệ
thuật chính trị đòi hỏi cán bộ phải có kỹ năng kỹ xảo cao, tầm trí tuệ tương ứng
ảnh hưởng lớn đến quần chúng. Nghệ thuật chính trị thể hiện những bước đi
những giải pháp, thể hiện thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Cán bộ phải
thống nhất được việc đưa đường lối chính trị và đưa nó vào phong trào đấu tranh
của giai cấp công nhân để làm tốt nhiệm vụ của mình người cán bộ "...phải học
tập ngày càng nhiều hơn tất cả các vấn đề lý luận, phải tự giải thoát ngày càng
nhiều hơn, khỏi ảnh hưởng của những câu cổ truyền của thế giới quan cũ...,
nghiã là phải được nghiên cứu" 15.
* Bố trí cán bộ:
Cán bộ, có năng lực và trình độ khác nhau, bố trí cán bộ đúng năng lực và
sở trường mới phát huy được đội ngũ cán bộ. Bố trí cán bộ phải quang minh,
chính đại, đúng người đúng việc, Lênin coi bố trí cán bộ như trong một đại hợp
tấu, mỗi người đều được giao một nhạc cụ khác nhau. Nếu không bố trí đúng cán
bộ thì đại hợp tấu sẽ dẫn đến các nhạc cụ sẽ không ăn khớp, dẫn đến trống đánh
xuôi kèn thổi ngược. Người khẳng định: "Phải quang minh, quang minh chính đại
hơn! Chúng ta cần có một đại hợp tấu; chúng ta phải xây dựng kinh nghiệm cho
mình để phân phối vai trò trong dàn hợp tấu, để đối phó với người này thì giao
cây vĩ cầm đầy tình cảm, đối với người kia thì giao cây đàn trầm cuồng bạo, đối
với người khác thì giao cây gậy chỉ huy dàn nhạc" 16. Như vậy, tùy trường hợp cụ
thể mà bố trí những cán bộ đúng với yêu cầu nhiệm vụ chính trị.
* Đánh giá cán bộ:
Đánh giá cán bộ là việc hết sức hệ trọng, là khâu mở đầu có ý nghĩa quyết
định trong công tác cán bộ. Đánh giá đúng cán bộ sẽ phát huy được tiềm năng
của từng cán bộ và đội ngũ cán bộ. Đánh giá không đúng cán bộ sẽ dẫn đến lựa
chọn nhầm những cán bộ không đủ phẩm chất và năng lực để giao những cương
vị có trọng trách, dẫn đến hỏng việc tổn thất cho tổ chức. Lênin rất quan tâm đến

đánh giá cán bộ và rất coi trọng cán bộ, những người đặt lợi ích của cách mạng
lên trên hết, để lựa chọn, bố trí vào những chức vụ mà cách mạng cần. Lênin
khẳng định: "Chúng ta cần phải lựa chọn cán bộ phụ trách, và ở đây, không thể
có vấn đề không tín nhiệm đối với một người nào đó đã không được bầu, mà chỉ
có vấn đề xem xét việc đó có lợi cho sự nghiệp không, và người được lựa chọn
có xứng đáng với chức vụ người đó đảm nhiệm không" 17.
* Công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ:
Công tác cán bộ có vai trò quan trọng, tạo nên đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng, đảm bảo nhiệm vụ cách mạng được
Lênin toàn tập, NXB tiến bộ, M.1975, tập 6, tr.34
Lênin toàn tập, NXB tiến bộ, M.1979, tập 8, tr.108
17
Lênin toàn tập, NXB tiến bộ, M.1979, tập 8, tr.359
15
16

15
16

6


thực hiện: Lênin khẳng định muốn có đội ngũ cán bộ có chất lượng, cơ cấu hợp
lý đủ số lượng đảm bảo lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa giành thắng lợi thì
phải đào tạo bồi dưỡng cán bộ: đào tạo, bồi dưỡng, tạo điều kiện thuận lợi để sử
dụng, bố trí vào cương vị công tác. Mỗi cấp, mỗi loại cán bộ có chương trình
đào tạo khác nhau. Qua đào tạo, bồi dưỡng mà nhận xét cán bộ. Lênin viết:
"Toàn đảng phải bồi dưỡng cho mình một cách có hệ thống, tuần tự và kiên định
những cán bộ xứng đáng ở Trung ương; phải làm thế nào để đảng thấy rõ ràng
như trong lòng bàn tay, toàn bộ sự hoạt động của mỗi một uỷ viên được dự định

cử giữ chức vụ cao ấy; để đảng thậm chí còn biết được những đặc điểm cá tính
của họ, những thắng lợi và thất bại của họ" 18.
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của cán bộ:
Trong sự nghiệp cách mạng, có nhiều nhiệm vụ, nhiều công việc, song
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” 19; “Muôn
việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém” 20. Nếu có cán bộ tốt,
cán bộ ngang tầm thì việc xây dựng đường lối sẽ đúng đắn và là điều kiện tiên
quyết để đưa sự nghiệp cách mạng đi đến thắng lợi. Không có đội ngũ cán bộ
tốt, thì dù có đường lối, chính sách đúng cũng khó có thể biến thành hiện thực
được. Muốn biến đường lối, chính sách thành hiện thực, cần phải có con người
sử dụng lực lượng thực tiễn - đó là đội ngũ cán bộ cách mạng và cùng với quần
chúng cách mạng, bằng sự mẫn cảm của mình để đưa cách mạng đến thành
công… Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: “Cán bộ là những người đem chính sách của
Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời
đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt
chính sách cho đúng” 21.
Hồ Chí Minh cho rằng, cán bộ là cầu nối giữa Đảng, Chính phủ với quần
chúng nhân dân nhưng không phải là “vật mang”, là “dây dẫn”, là sự chuyển tải
cơ học mà họ chính là những người có đủ tư chất, tài năng và đạo đức để làm
việc đó. Bởi lẽ, để có thể đem chính sách của Đảng và Chính phủ giải thích cho
dân chúng hiểu rõ và thi hành, đòi hỏi người cán bộ phải có một trình độ, trí tuệ
nhất định. Nếu không người cán bộ sẽ không quán triệt hết, thậm chí làm sai
lệch tinh thần, nội dung của chính sách thì thật là nguy hiểm. Ngoài điều kiện có
trình độ nhất định, người cán bộ còn cần phải có một bản lĩnh chính trị, phẩm
chất đạo đức cách mạng. Truyền đạt, giải thích chính sách của Đảng và nhà
nước cho dân chúng là một việc khó khăn, nhưng khó khăn và phức tạp hơn
nhiều là nắm chắc được tình hình, tâm tư, nguyện vọng chính đáng của quần
chúng, cũng như phản ánh được đúng thực chất của tình hình để làm căn cứ cho
việc hoạch định chủ trương, chính sách. Công việc này đòi hỏi người cán bộ
phải có trình độ tổng kết thực tiễn, khái quát, nâng lên thành lý luận. Đây quả là


18
19

Lênin toàn tập, NXB tiến bộ, M.1979, tập 8, tr.107
, 20 Hồ Chí Minh, toàn tập, NXB CTQG, H, 2002, t.5, tr 269, 240

20
21

Hồ Chí Minh, toàn tập, NXB CTQG, H, 2002, t.5, tr 269

7


công việc không đơn giản, nó đòi hỏi sự thống nhất trong bản thân người cán bộ,
với tư cách là nhà khoa học, vừa là một chiến sỹ cách mạng nhiệt thành.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt cán bộ ở ví trí có tính chất quyết định, theo
Người, chính sách đúng đắn có thể không thu được kết quả nếu cán bộ làm sai,
cán bộ yếu kém. Về vấn đề này, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Khi đã có chính sách
đúng, thì sự thành công và thất bại của chính sách đó là do cách tổ chức công
việc, do nơi lựa chọn cán bộ, do nơi kiểm tra. Nếu ba điểm ấy sơ sài, thì chính
sách đúng mấy cũng vô ích” 22 .
Muốn tổ chức công việc tốt, phải có người cán bộ có tài, có đức. Mặt khác
cũng phải biết chọn người nào làm việc gì là thích hợp, nếu không cũng rất có
thể hỏng việc mà không hoàn toàn do cán bộ yếu kém. Theo Người, cán bộ
không phải là ông thánh nên có cả mặt tốt và mặt chưa tốt. Vai trò của người cán
bộ thể hiện qua bốn mối quan hệ: một là với đường lối, chính sách; hai là với bộ
máy (các cơ quan tổ chức lãnh đạo, quản lý); ba là, với công việc; bốn là với
quần chúng. Chỉ khi nào hoàn thành được sứ mạng do các quan hệ đó đòi hỏi thì

người cán bộ mới thực hiện đúng vai trò của mình.
Hồ Chí Minh cho rằng trong dân ta không thiếu người có tài, có đức để
làm cán bộ “Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài, có đức…
các địa phương phải lập tức điều tra nơi nào có người tài, đức, có thể làm được
những việc ích nước, lợi dân thì báo cáo ngay cho Chính phủ biết” 23… Phải có
lòng tin vào Nhân dân và lòng tin vào vai trò quần chúng trong lịch sử mới đánh
giá đúng vai trò cán bộ, nếu không, khó tránh khỏi xem nhẹ vai trò cán bộ.
* Yêu cầu đối với cán bộ cách mạng: Một là, cán bộ phải suốt đời phấn
đấu hy sinh cho lý tưởng của Đảng. Hai là, người cán bộ phải đặt quyền lợi của
Đảng, của Tổ quốc lên trên hết và lên trước hết, “ngoài lợi ích của dân tộc, của
Tổ quốc, thì Đảng không có lợi ích gì khác. Cho nên Đảng phải ra sức tổ chức
nhân dân, lãnh đạo nhân dân để giải phóng nhân dân và để nâng cao sinh hoạt,
văn hoá, chính trị của nhân dân. Vì toàn dân được giải phóng, tức là Đảng được
giải phóng” 24. Hồ Chí Minh đề ra nguyên tắc: “Lợi ích cá nhân nhất định phải
phục tùng lợi ích của Đảng. Lợi ích của mỗi bộ phận nhất định phải phục tùng
lợi ích của toàn thể. Lợi ích tạm thời nhất định phải phục tùng lợi ích lâu dài.
Nghĩa là phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, lên trước hết. Vì lợi ích của Đảng
tức là lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc” 25. Ba là, người cán bộ phải có một đời
tư trong sáng, phải là một tấm gương sáng trong cuộc sống. Điểm nổi bật của Hồ
Chí Minh so với nhiều danh nhân khác ở trong nước và trên thế giới là toàn bộ
cuộc đời của Người là tấm gương sáng về đạo đức. Sức mạnh của đạo đức đó
lan toả, thẩm thấu trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, trở thành giá trị cốt
lõi, vĩnh hằng của văn hoá trong các thế hệ các dân tộc ở trên đất nước Việt
22
23

24
25

Hồ Chí Minh, toàn tập, NXB CTQG, H, 2002, t.5, tr 154

Hồ Chí Minh, toàn tập, NXB CTQG, H, 2002, t4, tr 451
Hồ Chí Minh, toàn tập, NXB CTQG, H, 2002, t5, tr 250
Hồ Chí Minh, toàn tập, NXB CTQG, H, 2002, t5, tr 250 - 251

8


Nam. Nếu cán bộ không có một đời tư trong sáng thì sẽ không thuyết phục, vận
động được Nhân dân trong các phong trào cách mạng. Người cán bộ, ngoài việc
phải hoàn thành tốt công việc chung của Đảng đã được phân công, lại phải còn
là một thành viên tốt của gia đình, là một người công dân tốt, kiểu mẫu ở khu
dân cư và ngoài xã hội, sống cuộc sống chan hoà, gần gũi với mọi người xung
quanh ở địa phương nơi cư trú…
* Yêu cầu về phẩm chất, năng lực:
Người cán bộ phải có năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân. Muốn thế,
phải “chuyên”. Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, quyết
định của đoàn thể chỉ biến thành hiện thực trong cuộc sống, ngoài yêu cầu về
việc đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định đó phải đúng đắn, còn cả việc
phải tổ chức lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân ra sức thực hiện thắng lợi. Không như
thế thì đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, quyết định của
đoàn thể nhân dân chỉ nằm trên giấy.
Cán bộ phải có mối liên hệ mật thiết với Nhân dân. Đây là yêu cầu đối với
cán bộ ở tất cả các thời kỳ cách mạng, nhưng trong thời kỳ Đảng cầm quyền
càng đặc biệt quan trọng hơn. Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, người cán bộ, bằng
hành động thực tế của mình, phải làm cho dân tin, dân yêu, dân kính, dân phục;
đừng có mang danh cộng sản để đè đầu cưỡi cổ nhân dân; phải yêu dân, kính
dân; phải việc gì có lợi cho dân dù nhỏ cũng cố gắng làm, việc gì có hại cho dân
dù nhỏ cũng cố tránh; phải khổ trước thiên hạ và vui sau thiên hạ; phải vừa là
người lãnh đạo vừa là người đày tớ thật trung thành của Nhân dân.

Cán bộ phải luôn luôn học tập để nâng cao trình độ về mọi mặt. Học suốt
đời, học không biết chán, dạy không biết mỏi (Nho giáo); học, học nữa và học
mãi (V.I.Lênin)… đó là những điều mà Hồ Chí Minh đã chú ý vận dụng vào
trong cuộc sống của chính bản thân mình và giáo dục, rèn luyện cho cán bộ,
đảng viên. Hồ Chí Minh quan niệm: một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Hồ Chí
Minh cho rằng, ngày nay không thể lãnh đạo chung chung được nữa; rằng, chỉ
có lòng nhiệt tình không thôi thì chưa đủ, mà cũng phải có trí thức nữa. Hồ Chí
Minh suốt đời chăm chỉ học tập, già rồi, cuối đời rồi vẫn phải học; học ở nhà
trường, học trong cuộc sống, và quan niệm của Hồ Chí Minh học không phải là
để có bằng cấp, để thăng chức.
Cán bộ phải có phong cách tốt. Theo Hồ Chí Minh, muốn có phong cách
tốt, phải phòng và chống tác phong chủ quan, tác phong quan liêu, đại khái, ham
chuộng hình thức, phụ trương cho oai, làm đại khái, qua loa. Phải sâu sát, tỷ mỉ;
nắm việc lớn, phải giải quyết bắt đầu từ những việc cơ bản, không cận thị (tức là
chỉ nhìn gần mà không nhìn xa trông rộng được), có đầu óc quan sát; phải chân
đi, miệng nói, tay làm, không như thế thì đầy túi quần thông cáo, đầy túi áo công
văn nhưng công việc không chạy.
Riêng về phong cách công tác của cán bộ, Hồ Chí Minh nhấn mạnh tới
các vấn đề chủ yếu: Sửa cách lãnh đạo về công tác cán bộ; biết chọn trình tự ưu
9


tiên công việc; thường xuyên tổng kết công tác; phải luôn luôn có sáng kiến; sâu
sát, gần gũi Nhân dân, có tinh thần phụ trách trước dân; phải kiểm tra, kiểm soát
chặt chẽ; có lãnh đạo chung, nhưng có chỉ đạo điểm.
1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của
công tác cán bộ:
Trong quá trình xây dựng Đảng, công tác cán bộ là một trong những công
tác chiếm vị trí quan trọng hàng đầu, có vai trò quyết định thành công tới toàn
bộ công tác xây dựng lực lượng cách mạng của Đảng. Khi nào, nơi nào làm tốt

công tác cán bộ thì khi đó, nơi đó cách mạng sẽ có nhiều thuận lợi và giành
được thắng lợi, và ngược lại. Với quan điểm đó, cả cuộc đời mình, Hồ Chí Minh
luôn luôn chú trọng đến công tác cán bộ; từ khâu đánh giá, phát hiện, lựa chọn,
đánh giá, huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ cán bộ…
Phạm vi của vấn đề công tác cán bộ trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng,
xin nêu chủ yếu một số nội dung sau đây:
Một là, Hiểu và đánh giá đúng để phát hiện, lựa chọn và sử dụng đúng cán
bộ. Sinh thời, Hồ Chí Minh đặt niềm tin rất cao vào quần chúng. Việc phát hiện,
lựa chọn nhân tài không được phân biệt người trong Đảng hay ngoài Đảng, vấn
đề là họ phải là người có tài thật sự. Khi “phong trào giải phóng sôi nổi, nảy nở
ra rất nhiều nhân tài ngoài Đảng. Chúng ta không được bỏ rơi họ, xa cách họ.
Chúng ta phải thật thà đoàn kết với họ, nâng đỡ họ. Phải thân thiết với họ, gần
gũi họ, đem tài năng của họ giúp ích vào công cuộc kháng chiến cứu nước 26,
“phải trọng nhân tài” 27 . Người cho rằng, cần phải thường xuyên đánh giá cán
bộ, nhưng “từ trước đến nay Đảng ta chưa thực hành cách thường xem xét cán
bộ. Đó là một khuyết điểm to. Kinh nghiệm cho ta biết: mỗi lần xem xét lại nhân
tài, một mặt thì tìm thấy những nhân tài mới, một mặt khác thì những người hủ
hoá cũng lòi ra” 28.
Hồ Chí Minh cũng nhắc nhở những người làm công tác cán bộ, những cán
bộ lãnh đạo có quyền cất nhắc, xem xét cán bộ, cần phải hiểu rõ một điều là:
“muốn biết rõ cán bộ, muốn đối đãi một cách đúng đắn các hạng người, trước
hết phải sửa chữa những khuyết điểm của mình. Mình càng ít khuyết điểm thì
cách xem xét cán bộ càng đúng” 29.
Hai là, huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Trong công tác cán bộ, Hồ
Chí Minh rất coi trọng công tác huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; “nếu như
cán bộ là cái gốc của mọi công việc” thì “huấn luyện cán bộ là công việc gốc
của Đảng”30. “Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun trồng những
cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích
cho công việc chung của chúng ta”31.
26


Hồ Chí Minh, toàn tập, NXB CTQG, H, 2002, t5, tr 276, 273

27
28

Hồ Chí Minh, toàn tập, NXB CTQG, H, 2002, t5, tr 274, 277

29
30
31

10


Huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là khâu có ý nghĩa quyết định
đến trình độ và chất lượng của cán bộ. Hồ Chí Minh chỉ thị học lý luận phải
gắn với thực tiễn, tránh đào tạo chung chung, học thuộc lòng. Thực tiễn
không ngừng biến đổi, do vậy lý luận càng phải được bổ sung, phát triển, vì
thế cán bộ phải không ngừng học tập, nghiên cứu để nâng cao trình độ, thực
hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Ba là, về công tác kiểm tra, quản lý và chính sách đối với cán bộ.
Trong thực tiễn, khi đã hình thành đội ngũ cán bộ, tất yếu phải coi trọng công
tác kiểm tra và quản lý cán bộ. Kiểm tra để phát huy ưu điểm, ngăn ngừa
khuyết điểm và ngăn chặn không để kẻ xấu chui vào bộ máy. Đó là công việc
của người phụ trách và cơ quan làm công tác cán bộ. Hồ Chí Minh nói: “Phải
thường xuyên kiểm tra để giúp họ (cán bộ) rút kinh nghiệm, sửa chữa khuyết
điểm, phát triển ưu điểm.
Giao công việc mà không kiểm tra, đến lúc thất bại mới chú ý đến. Thế là
không biết yêu dấu cán bộ” 32.

Hồ Chí Minh quan niệm kiểm tra, phê bình cán bộ với mục đích là để họ
không kiêu căng, “làm cho họ thêm hăng hái, thêm gắng sức. Phải vun đắp chí
khí của họ, để đi đến chỗ “bại không nản, thắng cũng không kiêu” 33. Phải xuất
phát từ tình yêu thương để phê bình và phê bình là mong cho đồng chí mình tiến
bộ. Ngạn ngữ ta có câu “thương cho vọt, ghét cho chơi”. Vì thương yêu mới
theo dõi để phê bình, góp ý với người mình thương yêu, chứ không phải là đối
thủ, càng không phải là thù địch. “Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa,
giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn
kết và thống nhất nội bộ” 34.
Trong thực tế, tự phê bình và phê bình khó khăn là bởi nhiều lẽ, mà trước
hết là do “cách lãnh đạo của ta không được dân chủ, cách công tác của ta không
được tích cực”35… Điều quan trọng đối với nhận thức và hành động của mọi
người là không sợ có sai lầm và khuyết điểm, chỉ sợ không chịu cố gắng để sửa
chữa sai lầm và khuyết điểm…, càng sợ những người lãnh đạo không biệt tìm
cách đúng để giúp cho cán bộ sửa chữa sai lầm và khuyết điểm.
Về công tác cán bộ, Hồ chí Minh không chỉ nêu những nguyên tắc, quản
điểm, tư tưởng chung, mà Người còn rất chú ý đến phương pháp, cách thức, biện
pháp một cách cặn kẽ và cụ thể. Từ năm 1947, Người đã nêu lên 5 cách đối với
cán bộ mà nay vẫn còn mang tính thời sự, đó là: Chỉ đạo - thả cho họ làm, thả
cho họ phụ trách, dù sai lầm chút ít cũng không sợ. Nâng cao - luôn tìm cách
cho họ học thêm lý luận và cách làm việc, làm cho tư tưởng, năng lực của họ
ngày càng tiến bộ. Kiểm tra - thường thường kiểm tra để giúp họ rút kinh
nghiệm, sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu điểm. Cải tạo - khi họ sai lầm thì
Hồ Chí Minh, toàn tập, NXB CTQG, H, 2002, t5, tr 276
Hồ Chí Minh, toàn tập, NXB CTQG, H, 2002, t5, tr 283, 282
3434
Hồ Chí Minh, toàn tập, NXB CTQG, H, 2002, t5, tr 243
35
35 Hồ Chí Minh, toàn tập, NXB CTQG, H, 2002, t5, tr 283, 284
32

33

11


dùng cách “thuyết phục” giúp cho họ sửa chữa… Giúp đỡ - phải cho họ điều
kiện sinh sống đầy đủ mà làm việc. Khi họ đau ốm, phải có thuốc thang. Tuỳ
theo hoàn cảnh mà giúp họ giải quyết vấn đề gia đình. Những điều đó rất quan
hệ với tinh thần của cán bộ và sự thân ái đoàn kết trong Đảng”36.

Chương 2
VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA VÀO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
Đảng từ ngày thành lập đến nay rất quan tâm đến cán bộ nói chung, Đảng
chỉ rõ cán bộ giữ vai trò trụ cột, nòng cốt trong các lĩnh vực công tác, những
3636

Hồ Chí Minh, toàn tập, NXB CTQG, H, 2002, t5, tr 276, 277

12


người giữ chức vụ lãnh đạo trong một tổ chức, bộ máy có quyết định những vấn
đề quan trọng trên mọi lĩnh vực của đời sống của xã hội. Cán bộ là những người
lãnh đạo, động viên quần chúng tích cực tham gia thực hiện đường lối của Đảng,
tác động tích cực tới phong trào rộng lớn của quần chúng làm cho quần chúng
nhân dân thực sự là người chủ của xã hội. Đại hội lần thứ VI của Đảng đã khẳng
định: Đổi mới công tác cán bộ các cấp là mắt xích quan trọng mà Đảng ta cần
phải nắm để thúc đẩy công việc cải cách có ý nghĩa; Tại Hội nghị lần thứ ba,
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII), khẳng định "Cán bộ là nhân tố

quyết định sự thành bại của cách mạng gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất
nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng”37.
Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày 18 tháng 6
năm 1997 của Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII về chiến lược cán bộ thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước và được tiếp tục thực hiện
tại Kết luận số 37-KL/TW ngày 02 tháng 2 năm 2009 của Hội nghị lần thứ chín
Ban Chấp hành Trung ương khóa X về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược
cán bộ từ nay đến năm 2020.
2.1. Thực trạng đội ngũ cán bộ, công tác cán bộ:
2.1.1. Về cán bộ:
* Ưu điểm:
Đội ngũ của cán bộ nước ta hiện nay, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý chủ chốt từ Trung ương đến cơ sở, có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội, trung thành với đường lối
của Đảng. Trong công cuộc đổi mới, qua thử thách, được Đảng đào tạo, bồi
dưỡng và tự phấn đấu, đội ngũ cán bộ có bước trưởng thành và tiến bộ, là lực
lượmg nòng cốt cùng với các tầng lớp Nhân dân làm nên những thành tựu to
lớn, có ý nghĩa quan trọng. Trình độ lý luận chính trị, kiến thức lãnh đạo và quản
lý được nâng lên. phần lớn cán bộ có ý thức trách nhiệm cao trước Đảng và
Nhân dân, hăng hái đi đầu trong hoạt động thực tiễn, năng động và sáng tạo
trong lãnh đạo và quản lý. Phương pháp tư duy và phong cách công tác của đội
ngũ cán bộ đựơc nâng lên, việc nhìn nhận và giải quyết các vấn đề một cách
khoa học, thực tế, coi trọng chất lượng, hiệu quả, về đạo đức và lối sống, số
đông giữ được đạo đức, lối sống lành mạnh, chấp hành nghiêm nghị quyết và kỷ
luật của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, quy định của địa phương,
cơ quan, đơn vị. Trong hoàn cảnh mới, mặt trái của cơ chế thị trường và các tiêu
cực xã hội tác động mạnh, nhưng đa số cán bộ vẫn giữ vững phẩm chất, vượt lên
khỏi cám dỗ, mua chuộc. Không ít cán bộ là những tấm gương sáng, không
những không để mình sa ngã mà còn tích cực ngăn chặn tiêu cực, làm lành mạnh
hoá môi trường xã hội, cơ quan, được cấp dưới và Nhân dân tin yêu, mến phục.

Thắng lợi của công cuộc đổi mới những năm qua do nhiều nguyên nhân, trong
đó phải kể đến công lao đóng góp của đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ lãnh
đạo, quản lý các cấp nói riêng.
3737

Văn kiện HNTW3 (khoá VIII), trang 66

13


* Khuyết điểm:
Bên cạnh những ưu điểm và sự trưởng thành nêu trên, đội ngũ cán bộ
nước ta những năm qua và hiện nay cũng bộc lộ một số yếu kém, khuyết điểm:
Một số cán bộ giảm sút niềm tin, dao động, nhận thức mơ hồ về chủ nghĩa Mác
– Lênin và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội, không ít băn khoăn, hoài nghi
đường lối đổi mới của Đảng; Một số những người đó đi đến phản bội Đảng, lợi
ích của nhân dân, có hành động chống đối, nói và làm trái đường lối, quan điểm
của Đảng. Một bộ phận thoái hoá, biến chất về đạo đức, lối sống, lợi dụng chức
quyền tham nhũng, lãng phí… Nhiều cán bộ lãnh đạo không nghiêm túc tự phê
bình và phê bình. Đội ngũ cán bộ tuy đông nhưng không đồng bộ, còn tình trạng
vừa thiếu vừa thừa cán bộ. Trình độ và kiến thức, năng lực lãnh đạo, quản lý
chưa đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới, nhất là kiến thức quản lý kinh tế - xã hội,
pháp luật và đối ngoại. Công tác cán bộ tuy có đổi mới nhiều mặt nhưng còn bất
cập, nhiều nơi, nhiều lúc còn trì trệ, nhất là trong xây dựng và thực hiện quy chế
cán bộ.
Nhìn chung đội ngũ cán bộ hiện nay, xét về chất lượng, số lượng và cơ
cấu có nhiều mặt chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
2.1.2. Công tác cán bộ:
* Ưu điểm:

Công tác cán bộ đã bám sát nhiệm vụ chính trị, thể chế hoá, cụ thể hoá
được nhiều chủ trương, quan điểm, giải pháp lớn đề ra trong Chiến lược cán bộ.
Nội dung, phương pháp, cách làm có đổi mới, tiến bộ; dân chủ, công khai trong
công tác cán bộ được mở rộng; nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác
cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ
chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ được giữ vững.
* Khuyết điểm:
Trong công tác cán bộ, việc đánh giá bố trí, sử dụng cán bộ nhiều khi còn
chủ quan, chưa thật công tâm, chưa hợp lý, thiếu dân chủ, hoặc dân chủ hình
thức...; công tác đào tạo bồi dưỡng chưa gắn với yêu cầu, tiêu chuẩn và quy hoạch
sử dụng cán bộ. Chất lượng và hiệu quả đào tạo còn thấp...
Tuy nhiên, nhiều khuyết điểm, yếu kém trong công tác cán bộ chậm
được khắc phục; việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện của một số cấp
uỷ, tổ chức đảng chưa quán triệt đầy đủ và sâu sắc quan điểm công tác cán bộ
là khâu then chốt trong công tác xây dựng đảng. Chính sách, môi trường làm
việc của cán bộ chưa tạo động lực để khuyến khích, thu hút, phát huy năng
lực, sự cống hiến của cán bộ. Nhìn chung, việc đổi mới công tác cán bộ chưa
toàn diện và còn chậm so với đổi mới kinh tế - xã hội.
2.2. Những giải pháp cơ bản:
2.2.1. Đổi mới công tác đánh gía cán bộ:
14


Một là, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý, đội ngũ làm công tác
tổ chức cán bộ vững mạnh. Đây là đội ngũ có vai trò rất quan trọng trong xây
dựng đội ngũ cán bộ, trong việc đánh giá, sắp xếp, bố trí, bổ nhiệm, đề bạt cán
bộ. Do vậy, đội ngũ này phải thật sự là những người hội đủ cả đức lẫn tài, phải
vừa có tâm vừa có tầm; phải biết nhìn xa, trông rộng, phải hiểu biết về con
người, thực sự quan tâm và yêu thương cán bộ, phải thật sự vô tư trong sáng,
phải có tư chất của người làm công tác tổ chức cán bộ, phải được đào tạo, huấn

luyện nghiệp vụ về công tác này...
Hai là, đánh giá cán bộ một cách toàn diện, chú trọng lấy kết quả hoàn
thành nhiệm vụ theo chức trách được giao làm thước đo.
Để làm tốt việc đánh giá cán bộ, trước hết từng cấp, từng ngành, từng địa
phương, đơn vị phải trên cơ sở tiêu chuẩn chung để xác định tiêu chuẩn về mọi
mặt cho từng chức danh cán bộ; cán bộ căn cứ vào đó tu dưỡng, rèn luyện, phấn
đấu; đồng thời phải có cơ chế phân công, giao trách nhiệm rõ ràng trên tinh thần
"cá nhân phụ trách". Trên cơ sở những tiêu chuẩn đó, cũng như hiệu quả hoàn
thành nhiệm vụ công tác thực tế theo chức trách được giao của cán bộ mà xem
xét đánh giá. Chỉ có dựa vào tiêu chuẩn, hiệu quả của toàn bộ công việc mà xét
chất lượng người cán bộ, mới thấy rõ mặt mạnh, mặt yếu, mặt đúng và mặt chưa
đúng ở cán bộ.
Đánh giá năng lực cán bộ nên lưu ý các khía cạnh về kiến thức, sự hiểu
biết và sự vận dụng kiến thức đó vào cuộc sống. Ngăn ngừa, khắc phục những
biểu hiện chưa đúng đắn, những tác động, chi phối không cần thiết trong đánh
giá cán bộ; tránh những định kiến chủ quan trong đánh giá cán bộ. Điều này Chủ
tịch Hồ Chí Minh đó từng nhắc nhở "phê bình việc" chứ không phải "phê bình
người", tức là nhận xét, đánh giá công việc cán bộ làm, chứ không phải kẻ vạch,
công kích vào tính cách riêng của bản thân người cán bộ.
Công tác đánh giá cán bộ nhất thiết còn phải thực hiện nghiêm túc theo
yêu cầu của Đại hội X của Đảng là: Lấy hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ chính trị
làm thước đo phẩm chất và năng lực cán bộ. Đánh giá cán bộ lãnh đạo phải căn
cứ vào hiệu quả công tác, khả năng đoàn kết, quy tụ, phát huy sức mạnh của tập
thể, tạo ra sự tiến bộ và kết quả cụ thể trong ngành, lĩnh vực, địa phương, đơn vị
mình phụ trách; không tham nhũng, lãng phí, quan liêu và kiên quyết chống
tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
Ba là, đánh giá cán bộ phải xem xét cả một quá trình. Khi đánh giá cán bộ
không thể chỉ xét một lúc, một thời điểm, một thời gian ngắn, hoặc chỉ thấy hiện
tại, mà cần có thời gian dài, có một quá trình. Bởi vì, mọi việc đều có sự biến
chuyển, con người cũng có sự thay đổi về nhiều mặt, cho nên nhận xét về một

con người không thể cố định bất biến mà phải trong quá trình vận động, biến
đổi. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: Trong thế giới, cái gì cũng biến hóa. Tư
tưởng của người cũng biến hóa. Vì vậy cách xem xét cán bộ, quyết không nên
chấp nhất, vì nó cũng phải biến hóa... Một người cán bộ khi trước có sai lầm,
nhưng không phải vì thế mà sai lầm mãi. Cũng có cán bộ đến nay chưa bị sai
15


lầm, nhưng chắc gì sau này không phạm sai lầm? Quá khứ, hiện tại và tương lai
của mọi người không phải luôn giống nhau.
Muốn đánh giá cán bộ đúng đắn, chính xác, người có trách nhiệm phải
kiên nhẫn tìm hiểu, theo dõi cán bộ trong một thời gian dài. Do đó, người làm
công tác này phải có kế hoạch thật chặt chẽ, hợp lý trong quản lý cán bộ, phải có
các bước đánh giá phù hợp, khoa học, phải hợp lực với nhiều người, tham khảo
ý kiến số đông trong đánh giá cán bộ. Muốn vậy, phải thực hành dân chủ rộng
rãi trong Đảng và quần chúng.
Thứ tư là, mở rộng dân chủ, công khai, minh bạch trong đánh giá cán bộ.
Để cho tập thể và quần chúng tham gia đánh giá cán bộ. Mỗi một con người có
nhiều mối quan hệ ngang dọc, trên dưới, trong ngoài. Cán bộ là một thành viên
của một tập thể, một cộng đồng, cùng làm việc, cùng sinh hoạt với nhau, nên
cũng có rất nhiều mối liên hệ. Công việc mà cán bộ phụ trách thường liên quan
đến nhiều việc, nhiều người. Do vậy, khi đánh giá cán bộ, bên cạnh ý kiến nhận
xét của cán bộ lãnh đạo quản lý, của cơ quan tham mưu, còn phải coi trọng ý
kiến của tập thể cán bộ và ý kiến của đông đảo quần chúng. Nếu chỉ riêng ý kiến
nhận xét, đánh giá của cán bộ lãnh đạo quản lý, cán bộ phụ trách công tác tổ
chức cán bộ thì sẽ không thể thấy hết mọi mặt của người cán bộ, mọi vấn đề có
liên quan đến cán bộ. Những đồng nghiệp cùng làm việc với cán bộ từng thường
xuyên cộng tác, gánh vác, chia sẻ trách nhiệm với nhau, gần gũi, trao đổi với
nhau nhiều việc, nhiều vấn đề, cho nên họ hiểu nhau hơn là giữa cán bộ lãnh đạo
với cấp dưới. Mỗi cán bộ cũng có nhiều mối quan hệ với quần chúng qua công

tác, qua sinh hoạt và nhiều hoạt động khác. Quần chúng là đối tượng mà cán bộ
hướng tới phục vụ. Vì vậy, ý kiến nhận xét của đông đảo quần chúng thường rất
xác đáng.
Năm là, để cán bộ tự đánh giá và thực hiện công khai hóa kết quả đánh
giá cho cán bộ. Không ai có thể hiểu mình hơn chính bản thân mình. Do đó,
trong công tác này phải để cho cán bộ tự đánh giá. Người lãnh đạo phải biết
cách gợi mở, động viên, khuyến khích cán bộ tự đánh giá, đồng thời phải thực
sự trân trọng, tin tưởng ở cán bộ, biết lắng nghe cán bộ. Có như vậy cán bộ mới
cảm thấy yên tâm, không có điều gì băn khoăn, e ngại, và thực sự tự giác, bình
tĩnh, thành khẩn trong nhận xét những ưu khuyết điểm ở mình. Trước khi đề bạt,
bổ nhiệm, cất nhắc cán bộ cũng nên tạo cơ hội cho cán bộ tự nhận xét, đánh giá
khả năng của mình trong việc đảm đương nhiệm vụ mới sắp tới. Các nơi cần
thực hiện tốt hơn công khai hóa việc đánh giá cán bộ cho tập thể cơ quan, đơn vị
đều biết. Cá nhân cán bộ được đánh giá nhất thiết phải được biết ý kiến đánh giá
của tập thể, của những người có thẩm quyền, của lãnh đạo cấp trên về mình.
Đồng thời cán bộ phải được có ý kiến phản hồi về những nhận xét chưa chính
xác, chưa đúng đắn và có quyền đòi hỏi phải được điều chỉnh, sửa đổi, nhận xét
lại về mình.
Mở rộng và phát huy dân chủ, thực hiện công khai và minh bạch trong
đánh giá cán bộ sẽ huy động được tối đa trí tuệ của tập thể một cách thực
chất, khắc phục những ảnh hưởng của ý chí chủ quan của cá nhân, đồng thời
16


góp phần đắc lực vào việc phát huy hiệu quả yếu tố cán bộ - quyết định mọi
thắng lợi của công cuộc cách mạng nói chung, công tác cụ thể của từng cơ
quan, tổ chức nói riêng.
2.2.2. Đổi mới phong cách làm việc:
* Phong cách làm việc phải có tính đảng, tính nguyên tắc cao, đồng
thời năng động, sáng tạo, nhạy cảm với cái mới:

Đây là hai mặt của một yêu cầu thống nhất, không thể tách rời trong
phong cách làm việc của người lãnh đạo. Tính đảng, tính nguyên tắc cao trong
phong cách làm việc thể hiện tập trung ở chỗ luôn giữ vững lập trường, quan
điểm, đường lối của Đảng; tôn trọng pháp luật; chấp hành nghiêm túc, tự giác
các nguyên tắc, chế độ, kỷ luật công tác, nghiêm khắc với bản thân; bảo vệ cái
đúng, đấu tranh phê phán cái sai. Tính năng động, sáng tạo biểu hiện trước hết ở
tính chủ động, sáng tạo trong cụ thể hoá quan điểm, đường lối, chủ trương của
Đảng cho phù hợp với địa phương, đơn vị, đổi mới nội dung, phương pháp công
tác theo hướng hiện đại hoá, nâng cao hiệu quả công tác, nhạy bén với cái mới.
Trong tình hình hiện nay, trước đòi hỏi phải đổi mới, người lãnh đạo phải
xử lý tốt giữa yêu cầu phải năng động, sáng tạo với giữ vững những nguyên tắc
chính trị, công tác và cuộc sống; phải rèn luyện bản lĩnh chính trị và sự cảnh
giác cao độ trước những “mũi tên bọc đường”, những thủ đoạn tinh vi tấn công
vào đội ngũ cán bộ của các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội và của chính kẻ
địch trong bản thân mình.
* Phong cách làm việc nhiệt tình nhưng khách quan, khoa học:
Có nhiệt tình cách mạng thì người cán bộ lãnh đạo mới đủ sức gánh vác
trách nhiệm vẻ vang ngày càng nặng nề trước dân, trước Đảng trong sự nghiệp
cách mạng hiện nay. Tuy nhiên, nhiệt tình cách mạng phải được kết hợp với tính
khách quan, khoa học thì người cán bộ lãnh đạo mới hoàn thành nhiệm vụ, tránh
được những sai lầm, hành động chủ quan, tuỳ tiện. Trong quá khứ, chúng ta đã
có quá nhiều bài học về những quyết định quan trọng mang đầy tâm huyết, nhiệt
thành nhưng thiếu tính khoa học nên đã phải trả giá rất đắt. Trong thế giới đang
biến đổi nhanh chóng, phức tạp do tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và tình hình chính trị, kinh tế đa dạng, phức tạp hiện nay, vấn đề xây
dựng phong cách làm việc có tính khoa học cao càng trở nên quan trọng hơn bao
giờ hết. Để xây dựng, rèn luyện phong cách làm việc khách quan, khoa học, đòi
hỏi người cán bộ lãnh đạo, mọi việc phải có điều tra, nghiên cứu, phân tích toàn
diện; phải tôn trọng qui trình ra quyết định, xây dựng nhiều phương án, tranh thủ
ý kiến chuyên gia.
* Phong cách làm việc dân chủ, tập thể nhưng quyết đoán, dám chịu

trách nhiệm cá nhân:
Đặc trưng này xuất phát từ nguyên tắc tập trung dân chủ. Trong hoạt động
lãnh đạo của Đảng, lối làm việc dân chủ, tập thể là cách làm việc tốt nhất của người
lãnh đạo, vừa cho phép phát huy trí tuệ tập thể, hạn chế sai lầm, vừa giúp tăng
17


cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Tuy nhiên, lối làm việc dân chủ, tập thể
phải đi liền với sự quyết đoán và tinh thần dám chịu trách nhiệm cá nhân cao.
Mỗi người lãnh đạo cần nắm vững và thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập
trung dân chủ trong công tác, xây dựng thói quen lắng nghe ý kiến của tập thể,
nhất là tập nghe cho được những ý kiến khác, trái với mình. Muốn vậy cần rèn
luyện đức tính khiêm tốn, cầu thị, trung thực, thẳng thắn, khoan dung, nhân ái,
luôn đặt lợi ích của dân, của nước lên trên hết, trước hết. Mặt khác, người cán bộ
lãnh đạo phải rèn luyện tính quyết đoán và tinh thần trách nhiệm cá nhân cao
trong công việc. Sau khi đã nghe, thảo luận dân chủ, đã rõ vấn đề thì phải quyết
đoán, có quyết tâm cao, dám chịu trách nhiệm về những quyết định của mình.
Tính quyết đoán khác hẳn sự độc đoán, gia trưởng ở chỗ người độc đoán, gia
trưởng thường quyết định bằng chủ quan là chính, quyền uy là chính, còn người
lãnh đạo quyết đoán là trên cơ sở phát huy dân chủ.
* Phong cách làm việc thiết thực, nói đi đôi với làm:
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, hoạt động lãnh đạo thường được thông
qua nhiều khâu, nhiều tổ chức với những cơ chế làm việc đa dạng, phức tạp nên
dễ sinh ra bệnh “hình thức”, bệnh “hữu danh vô thực”, bệnh hứa suông, gây mất
uy tín của Đảng, Nhà nước, làm giảm sút lòng tin của Nhân dân và tạo sơ hở cho
các phần tử xấu lợi dụng. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng phê phán: Trong Đảng ta
có một số người chỉ biết nói là nói, nói giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày
khác. Nhưng một việc gì thiết thực cũng không làm được. Để chữa bệnh hình
thức, xây dựng phong cách làm việc thiết thực, người cán bộ lãnh đạo khi ra các
quyết định, kế hoạch cần căn cứ vào tình hình thực tế, năng lực của tổ chức, của

đội ngũ cán bộ, trình độ, thói quen, tâm lý, nguyện vọng của quần chúng Nhân
dân, luôn tính đến hiệu quả công việc, chỉ nói những điều cần thiết, chỉ hứa
những điều có thể làm, điều nhất định làm. Đã ra nghị quyết là phải chỉ đạo làm
đến nơi đến chốn, kiểm tra ráo riết.
* Phong cách làm việc sâu sát cơ sở, gắn bó chặt chẽ với quần chúng:
Cơ sở là nơi hàng triệu quần chúng, đảng viên sống, làm việc, là nơi
đường lối, chủ trương lãnh đạo được thực tế kiểm nghiệm. Bởi vậy, có sâu sát cơ
sở, gắn bó với quần chúng, dựa vào quần chúng thì người cán bộ lãnh đạo mới
kịp thời chỉ đạo thực hiện các quyết định lãnh đạo của mình, biết được chỗ đúng
chỗ sai, chủ trương phù hợp hay chưa phù hợp, từ đó mà điều chỉnh hoạt động
lãnh đạo của mình. Đồng thời, sâu sát cơ sở mới giúp người cán bộ lãnh đạo thu
nhận, học hỏi được những kinh nghiệm thực tiễn phong phú, nắm bắt được tâm
tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân để nâng cao năng lực lãnh đạo, ra
được những quyết định lãnh đạo sát hợp, kịp thời, tránh được những sai lầm chủ
quan.
2.2.3. Nâng cao trình độ lý luận cho cán bộ đảng viên:
Một trong những vấn đề mà Hồ Chí Minh mong mỏi và dành sự quan tâm
của mình đối với cán bộ, đảng viên là vấn đề lý luận, học tập lý luận; bởi vì
"không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi". Theo Người, nguyên nhân
18


của các khuyết điểm ấy có nhiều, trong đó có nguyên nhân quan trọng là do sự
yếu kém, hạn chế về lý luận của cán bộ, đảng viên.
Quán triệt tư tưởng của Hồ Chí Minh, tại Đại hội X, Đảng ta đặt vấn đề:
“Nâng cao trình độ trí tuệ, chất lượng nghiên cứu lý luận của Đảng; tiếp tục làm
sáng tỏ những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
của nước ta; làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn đường lối, chính sách của Đảng
trong thời kỳ mới”. Thực hiện tốt công việc quan trọng này thì Đảng mới có thể
hoàn thành thắng lợi sứ mệnh lãnh đạo cách mạng trong tình hình mới. Đó là

công việc của bản thân trong Đảng, của toàn thể cán bộ, đảng viên.
Vì thế, nâng cao trình độ trí tuệ, trình độ lý luận cho cán bộ, đảng viên để
đủ sức giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận là vấn
đề đặt ra rất cấp thiết và gay gắt hiện nay. Không có trình độ lý luận, nắm không
chắc, không vững, không thực chất lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng thì chúng ta không thể giành được
thắng lợi trong cuộc đấu tranh này.
Để nâng cao trình độ lý luận của cán bộ, đảng viên, hơn lúc nào hết chúng
ta phải quán triệt sâu sắc những tư tưởng của Hồ Chí Minh, vận dụng và thực
hiện nghiêm túc việc “Đổi mới nội dung, phương pháp học tập và giảng dạy
trong hệ thống trường chính trị, nâng cao tính thiết thực và hiệu quả của chương
trình” theo tinh thần Đại hội X. Thực hiện kế hoạch bồi dưỡng lý luận cho cán
bộ, đảng viên, chú trọng bồi dưỡng những cán bộ nghiên cứu lý luận giỏi, có
trình độ cao; nâng cao tinh thần trách nhiệm và tạo điều kiện cho cán bộ, giáo
viên, cán bộ nghiên cứu trong tự học, tự bồi dưỡng trình độ lý luận của mình;
đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu khoa học; gắn nghiên
cứu lý luận với thực tiễn; gắn nghiên cứu lý luận với giảng dạy… phải là những
biện pháp cơ bản, cần thực hiện tốt để có thể nâng cao trình độ lý luận cho cán
bộ, đảng viên, để có thể tạo ra được đội ngũ cán bộ lý luận xứng tầm.

KẾT LUẬN
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta, ngay từ khi mới thành lập đã rất quan
tâm đến vấn đề cán bộ và công tác cán bộ; đặc biệt là xây dựng lực lượng cho
hai cuộc kháng chiến và trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày nay, xem đó là
nội dung quan trọng sống còn của đất nước, của chế độ. Chính vì lẽ đó, Đảng
phải thường xuyên coi trọng và có nhiều hoạt động trong công tác xây dựng
Đảng Cộng sản Việt Nam, làm cho cán bộ, đảng viên, Nhân dân hiểu rõ vai trò
19



lãnh đạo của Đảng. Sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, thực hiện thành công công cuộc
công nghiệp hoá, hiện đại hoá để đưa đất nước đi lên con đường chủ nghĩa xã
hội phải do Đảng lãnh đạo.
Trong giai đoạn hiện nay, trong điều kiện cơ chế thị trường, hội nhập kinh
tế quốc tế, bên cạnh những tác dụng tích cực, việc đổi mới công tác cán bộ vẫn
chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên; tệ quan liêu, tham nhũng và lãng phí chưa được
ngăn chặn, đẩy lùi. Đội ngũ cán bộ còn nhiều mặt hạn chế, chưa đáp ứng được
yêu cầu; công tác cán bộ còn thiếu những giải pháp đột phá. Trước yêu cầu của
công cuộc đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
và hội nhập quốc tế, Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ,
đồng bộ công tác cán bộ, xây dựng được đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất và năng
lực đảm đương nhiệm vụ, có tính kế thừa, phát triển, khắc phục cho được những
hạn chế, yếu kém của đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ thời gian qua”./.

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác - Ph.Ăngghen: Toàn tập, NXB CTQG, H, 1995, tập 2.
2. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1975, 1976, 1979; Tập:
6, 8, 41, 42.
3. Hồ Chí Minh, toàn tập, NXB CTQG, H, 2002, Tập: 5.
4. Văn kiện Hội nghị Trung ương 3 (khoá VIII), Hội nghị Trung ương 9
(khoá X);
5. Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh- Học Viện Xây
dựng Đảng, Tài liệu môn học Xây dựng Đảng, NXB CT- HC QG, H, 2011.
6. Học Viện Xây dựng Đảng, Những vấn đề về Đảng và Xây dựng Đảng

qua các tác phẩm của Mác- Ăngghen – Lênin (tài liệu học tập dung cho các lớp
sau đại học).
7. PGS, TS. Mạch Quang Thắng, Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng
sản Việt Nam, NXB CTQG, H, 1995.
8. PGS, TS. Nguyễn Phú Trọng, PGS, TS. Trần Xuân Sầm (Đồng chủ
biên), Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời
kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, NXB CTQG, H, 2003.
9. GS, TS. Nguyễn Phú Trọng (chủ biên), Các mối quan hệ lớn cần được
giải quyết tốt trong quá trình đổi mới đi lên CNXH ở nuớc ta, NXB CTQG, H,
2011.
10. Di sản Lênin trong thế giới ngày nay và sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam
(kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia kỷ niệm 140 năm ngày sinh Lênin), Nhiều
tác giả, Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Hành Chính, Hà Nội 2010.

21



×