Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tiểu luận Luật Ngân Hàng Việt Nam: Pháp luật điều chỉnh hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.07 KB, 16 trang )

A. LỜI MỞ ĐẦU
Bước sang năm Mậu Tuất 2018, đất nước ta đang từng bước đi lên đứng vào top
thứ 50 quốc gia có nền kinh tế phát triển, cùng với đó là một năm có tốc độ tăng
trưởng GDP cao nhất trong 10 năm. Kéo theo đó là một nền kinh tế phát triển thần
kì. Đó là những điểm sáng của nền kinh tế nước ta trong nhiều năm qua. Một phần
của sự thành công đó cũng là nhờ sự giúp đỡ nhiệt tình của các tổ chức tín dụng
trong và ngoài nước đã cho các doanh nghiệp nước ta hỗ trợ vay vốn để phát triển
và khởi nghiệp. Điều này phản ánh tiềm lực của hệ thống Ngân hàng rất mạnh mẽ
và các Tổ chức tín dụng đóng vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh
tế đất nước.
Bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được, hoạt động tín dụng của hệ thống
ngân hàng những năm qua đã nảy sinh một số biểu hiện không lành mạnh, báo hiệu
nguy cơ rủi ro thất thoát vốn tín dụng từ các khoản nợ sau cho vay của các tổ chức
tín dụng ngày càng chồng chất. Nếu muốn có một nền kinh tế ổn định, đòi hỏi quốc
gia phải có hệ thống ngân hàng vững mạnh, Chính phủ phải thiết lập được hệ thống
pháp luật chặt chẽ để đảm bảo được hành lang an toàn cho hệ thống các Tổ chức
tín dụng. Vì vậy, để thấy được rõ hơn tầm quan trọng của hoạt động cho vay tín
dụng của các tổ chức tín dụng. Thông qua bài tiểu luận môn luật Ngân Hàng Việt
Nam về : “ Pháp luật điều chỉnh hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng. ”
chúng ta cùng đi sâu và tìm hiểu rõ hơn về hoạt động cho vay của các tổ chức tín
dụng từ đó tìm ra một hướng đi đúng đắn và chắc chắn hơn cho nền kinh tế nước
ta.


B. NỘI DUNG
I. Khái quát về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng
1. Một số khái niệm
- Theo quy định tại khoản 1 điều 4 luật các tổ chức tín dụng năm 2010 quy
định: “Tổ chức tín dụng(TCTD) là doanh nghiệp được thành lập theo quy định
của Luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ,
làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín


dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán.”
- Căn cứ vào khoản 16 Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 quy
định “Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết
giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một
thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi”.

2. Các đặc trưng cơ bản của hoạt động cho vay của các TCTD
Để phân biệt cho vay với tư cách là một hoạt động của các TCTD- với giao
dịch vay tài sản trong đời sống dân sự thông thường, cũng như phân biệt cho vay
với các hình thức cấp tín dụng khác của TCTD chúng ta dựa trên các đặc trưng cơ
bản sau đây:
- Thứ nhất về chủ thể thì chủ thể cho vay là TCTD. Khác với các giao dịch vay tài
sản thông thường, chủ thể vay có thể là bất kì ai có đầy đủ năng lực hành vi dân sự
và sở hữu tài sản vay, trong hoạt động cho vay, bên cho vay phải là tổ chức tín
dụng được thành lập và hoạt động hợp pháp, có đủ điều kiện để tiến hành hoạt
động cho vay. Ở đây, hoạt động cho vay không phải là một giao dịch dân sự đơn
thuần mà thực chất là một hoạt động kinh doanh, trong đó, tổ chức tín dụng muốn
có được lợi nhuận thông qua hoạt động cho vay. Bên cạnh yếu tố về mục đích, hoạt
động cho vay của tổ chức tín dụng còn được thực hiện một cách chuyên nghiệp,
liên tục và có tính chuyên môn nghiệp vụ sâu sắc.
Chính vì hoạt động cho vay trong lĩnh vực ngân hàng là hoạt động mang tính
chuyên nghiệp cao nên chủ thể thực hiện hoạt động cho vay là các TCTD phải
được thành lập hợp pháp, có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật cụ thể là các
quy định của luật các TCTD năm 2010, bộ luật dân sự năm 2005, luật doanh
nghiệp năm 2005…vv, và chịu sự giám sát chặt trẽ của ngân hàng nhà nước
(NHNN).


- Thứ hai: đối tượng cấp tín dụng trong hoạt động cho vay là vốn (tiền tệ). Khác
với hoạt động cho thuê tài chính, đối tượng cấp tín dụng là tài sản; đối với hoạt

động chiết khấu, tái chiết khấu các giấy tờ có giá, đối tượng cấp tín dụng là giá trị
của các giấy tờ có giá thì đối tượng của hoạt động cho vay luôn luôn là vốn (tiền
tệ). Vốn ở đây có thể là đồng Việt Nam hoặc ngoại tệ. Trong hoạt động cho vay
bằng ngoại tệ, tổ chức tín dụng cần đáp ứng thêm một số yêu cầu khác của pháp
luật.
- Thứ ba: thời hạn trong hoạt động cho vay rất đa dang, có thể là ngắn hạn, trung
hạn và dài hạn. Trong hoạt động cho vay, mục đích của TCTD là cấp cho bên đi
vay một khoản tiền để họ sử dụng vào hoạt động sản suất kinh doanh hoặc tiêu
dùng. Yếu tố mà tổ chức tín dụng xem xét để quyết định cho vay chính là tính hiệu
quả của việc sử dụng tiền vay và căn cứ vào các biện pháp đảm bảo tiền vay. Nói
cách khác, khi tiến hành cho vay TCTTD sẽ không bị phụ thuộc vào thời hạn tối đa
hay tối thiểu phải tuân thủ. Căn cứ vào nhu cầu xin vay của bên đi vay, TCTD có
thể tiến hành cho vay với nhiều thời hạn khác nhau, thậm chí thời hạn vay có thể
chỉ là một vài ngày (trong trường hợp cho vay qua đêm). Đây chính là điểm khác
biệt giữa hoạt động cho vay và các hoạt động cấp tín dụng khác của TCTD. Cụ
thể, trong hoạt động cho thuê tài chính, thời hạn vay phụ thuộc vào thời gian khấu
hao của tài sản thuê. Trong chiết khấu giấy tờ có giá, TCTD phải căn cứ vào thời
hạn thanh toán còn lại của giấy tờ có giá để quyết định có nên mua lại hay không.
Còn đối với hoạt động bao thanh toán, thời hạn cấp tín dụng phải căn cứ vào thời
gian phát sinh các khoản phải thu của bên được cấp tín dụng.
- Thứ tư: quan hệ cho vay được điều chỉnh bởi các quy định pháp luật ngân hàng.
Với bản chất là hoạt động ngân hàng nên quan hệ pháp luật về cho vay giữa TCTD
và khách hàng chịu sự điều chỉnh trước tiên và trên hết bởi các quy định của pháp
luật ngân hàng . Luật các TCTD đã có nhiều quy định về hoạt động cho vay như
điều kiện vay vốn, nội dung hợp đồng tín dụng, các biện pháp bảo đảm tiền vay,
quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng tín dụng.vv… Để cụ thể hóa các
quy định này của luật các TCTD, NHNN đã ban hành quy chế cho vay của tổ chức
tín dụng đối với khách hàng (Ban hành theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN
ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước và được sửa đổi bổ xung bởi
các quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN và số 738/2005/QĐ-NHNN), điều chỉnh

khá chi tiết các nội dung của quan hệ cho vay. Chính vì vậy, mặc dù cũng có bản
chất là quan hệ pháp luật dân sự, nhưng bộ luật dân sự chỉ đóng vai trò là luật
chung, còn luật các TCTD là luật chuyên ngành. Do đó, chỉ những vấn đề không
được luật các TCTD điều chỉnh, các bên mới vận dụng các quy định trong bộ luật
dân sự để áp dụng.


3. Các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động cho vay của các TCTD
Để hoạt động cho vay được đảm bảo an toàn, phù hợp với lợi ích của cả bên
cho vay và bên vay, hoạt động cho vay của TCTD được thực hiện trên những
nguyên tắc nhất định, và các nguyên tắc này có ảnh hưởng quan trọng đến việc xây
dựng và ban hành các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động cho vay. Các
nguyên tắc đó là:
- Nguyên tắc hoàn trả: cơ sở lý luận của nguyên tắc này dựa vào đặc điểm, với tư
cách là chủ thể trung gian tín dụng, TCTD chủ yếu sử dụng số tiền huy động được
từ các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội để cho vay. Ở giai đoạn huy động
vốn, TCTD tham gia với tư cách là người đi vay, do vậy phải có nghĩa vụ hoàn trả
cho người gửi tiền đúng hạn cả gốc và lãi, muốn thực hiện được điều này, với tư
cách là chủ thể cho vay, TCTD có quyền yêu cầu bên đi vay hoàn trả cho mình
đúng hạn cả gốc và lãi. Ngay cả khi chính TCTD( bên cho vay) là chủ thể vi phạm
hợp đồng thì bên vay vẫn phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Những vi phạm của bên
cho vay sẽ chịu những chế tài sử lý như phạt vi phạm hoặc bồi thường thệt hại chứ
không thể bù trừ vào số tiền bên vay phải trả.
Để đảm bảo nguyên tắc hoàn trả, pháp luật có các quy định nhằm yêu cầu
TCTD phải đánh giá khả năng của bên vay, xây dựng các phương án phòng ngừa
rủi ro cũng như giám sát khoản vay hiệu quả. Bên cạnh đó, pháp luật cũng cho
phép các bên có những thỏa thuận sửa đổi hợp đồng phù hợp như gia hạn nợ, điều
chỉnh kì hạn trả nợ để bên vay thực hiện tốt nghĩa vụ hoàn trả của mình.
- Nguyên tắc tín nhiệm: tín nhiệm là nền tảng của tín dụng, tức là việc chuyển giao
nguồn vốn chỉ được thực hiện khi TCTD( bên cho vay) có niềm tin vào khả năng

trả nợ của bên vay. Nguyên tắc tín nhiệm sẽ đảm bảo cho TCTD quyết định cho
vay một cách chính xác và hiệu quả, không làm ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của
TCTD đối với các khoản vốn đã huy động từ nhận tiền gửi và các hình thức huy
động khác.
Để đảm bảo nguyên tắc tín nhiệm, pháp luật đã quy định bên vay phải thỏa
mãn những điều kiện nhất định mới được quyền vay vốn. Bên cạnh đó, pháp luật
cũng cho phép TCTD được quyền đánh giá về khả năng tài chính của khách hàng
rồi mới quyết định cho vay. Để có được sự tín nhiệm của TCTD, bên vay cần
chứng tỏ năng lực tài chính, khả năng sử dụng vốn vay và có những cam kết chắc
chắn về khả năng trả nợ. Để tăng them sự tín nhiệm, trong nhiều trường hợp, các
bên có thể thỏa thuận về các biện pháp bảo đảm khả năng trả nợ như cầm cố, thế
chấp hoặc bảo lãnh.


Tuy nhiên, cơ sở của lòng tin( sự tín nhiệm) này không đơn thuần dựa vào ý
chí củ quan của người ra quyết định cho vay mà cần thiết phải có những tiêu chí
nhất định. Những tiêu chí này pháp luật cho phép TCTD được quyền quy định
trong quy chế cho vay của mình. Do đó trên thực tế có những trường hợp chủ thể
có đủ điều kiện vay vốn theo quy định của pháp luật nhưng TCTD vẫn cảm thấy có
yếu tố rủi ro thì vẫn có thể bị từ chối cho vay.

II.Pháp luật điều chỉnh hoạt động cho vay của các tổ chức
tín dụng
1. Quy trình cho vay vốn của các TCTD
Việc xây dựng quy trình cho vay của các TCTD là dựa trên những quy định thực
tế của pháp luật hiện hành: “Khi có nhu cầu vay vốn, khách hàng gửi cho tổ chức
tín dụng giấy đề nghị vay vốn và các tài liệu cần thiết chứng minh đủ điều kiện
vay vốn như quy định tại Điều 7 Quy chế này. Khách hàng phải chịu trách nhiệm
trước pháp luật về tính chính xác và hợp pháp của các tài liệu gửi cho tổ chức tín
dụng.”( Khoản 1 điều 14 Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ).

Thẩm định hồ sơ tín dụng là tất cả những hành vi mang tính nghiệp vụ pháp lý do
TCTD thực hiện nhằm xác định các điều kiện vay vốn đối với bên vay ,trên cơ sở
đó mà quyết định cho vay hay không. “ Tổ chức tín dụng xây dựng quy trình xét
duyệt cho vay theo nguyên tắc bảo đảm tính độc lập và phân định rõ ràng trách
nhiệm cá nhân, trách nhiệm giữa khâu thẩm định và quyết định cho vay ”.( Khoản
1 điều15 Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN Về việc ban hành Quy chế cho vay của
tổ chức tín dụng đối với khách hàng )
Việc thiết lập và không ngừng hoàn thiện quy trình cho vay của các TCTD có ý
nghĩa hết sức quan trọng .Xây dựng một quy trình cho vay hợp lý sẽ góp phần
nâng cao chất lượng ,giảm thiểu rủi ro trong khi cho vay .Hơn nữa,quy trình cho
vay còn là cơ sở cho việc thiết lập các thủ tục ,hồ sơ vay vốn về mặt hành chính,và
thủ tục pháp lý quan trọng đó là thiết lập HĐTD.


2. Hợp đồng tín dụng, cơ sở pháp lý quan trọng
Sau khi ra quyết định chấp thuận cho khách hàng vay vốn các TCTD sẽ
hướng dẫn khách hàng ký kết HĐTD. Theo quy định tại điều 17 của Quyết định
1627/2001/QĐ-NHN “ Việc cho vay của tổ chức tín dụng và khách hàng vay phải
được lập thành hợp đồng tín dụng...”.Chủ thể tham gia ký kết HĐTD là bên cho
vay(các TCTD) và bên vay (khách hàng có nhu cầu vay vốn ). Theo quy định tại
điều 51 của Luật Các tổ chức tín dụng ,mọi hợp đồng tín dụng đều phải ký kết
bằng văn bản thì mới có gía trị pháp lý. Hợp đồng tín dụng phải có nội dung về
điều kiện vay, mục đích sử dụng vốn vay, phương thức cho vay, số vốn vay, lãi
suất, thời hạn cho vay, hình thức bảo đảm, giá trị tài sản bảo đảm, phương thức trả
nợ và những cam kết khác được các bên thỏa thuận.
Văn bản hợp đồng tín dụng bao gồm văn bản viết và văn bản điện tử.Hợp đồng
tín dụng được xác lập thông qua phương diện điện tử dứới hình thức thông điệp dự
liệu được coi là giao dịch bằng văn bản .Các văn bản hợp đồng điện tử được coi là
có giá trị pháp lý như văn bản hợp đồng viết và có giá trị chứng cứ trong quá trình
giao dịch. hợp đồng tín dụng được ký kết bằng văn bản sẽ tạo ra một bằng chứng

cụ thể cho việc thực hiện hợp đồng và giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp
đồng tín dụng.

3. Các nội dung cơ bản của HĐTD
Theo quy định tại điều 17 của Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN “ … Hợp
đồng tín dụng phải có nội dung về điều kiện vay, mục đích sử dụng vốn vay,
phương thức cho vay, số vốn vay, lãi suất, thời hạn cho vay, hình thức bảo đảm,
giá trị tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ và những cam kết khác được các bên
thỏa thuận”.


Nội dung của hợp đồng tín dụng là tổng thể những điều khoản do các bên có đủ tư
cách chủ thể cam kết với nhau một cách tự nguyện, bình đẳng và phù hợp với pháp
luật. Các điều khoản này vừa thể hiện ý trí của các bên, đồng thời cũng làm phát
sinh những quyền và nghĩa vu pháp lý cơ bản của mỗi bên tham gia hợp đồng tín
dụng. Nội dung của hợp đồng tín dụng (các điều khoản của hợp đồng) phải do các
bên tự định đoạt trên nguyên tắc đồng thuận ý chí, phù hợp với pháp luật và đạo
đức xã hội.
3.1 Chủ thể của hợp đồng tín dụng
Theo quy định của pháp luật hiện hành, một TCTD muốn trở thành chủ thể cho
vay trong HĐTD phải thỏa mãn đầy đủ các điều kiện sau đây :
+ Có giấy phép thành lập và hoạt động do Ngân hàng Nhà nước cấp.
+ Có điều lệ do Ngân hàng Nhà nước chuẩn y.
+ Có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hợp pháp
+ Có người đại diện đủ năng lực và thẩm quyền để giao kết hợp đồng tín dụng
với khách hàng.(Điều 28 luật Các TCTD sửa đổi bổ sung năm 2004).
Riêng với các tổ chức không phải là TCTD .muốn trở thành chủ thể cho vay
trong hợp đồng tín dụng thì chỉ cần thỏa mãn những điều kiện như :có giấy phép
hoạt động ngân hàng ,có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và có người đại
diện hợp pháp .Trong giấy phép hoạt động ngân hàng và giấy chứng nhận đăng ký

kinh doanh của loại tổ chức này phải ghi rõ hoạt động cho vay là hoạt động ngân
hàng được phép thực hiện.
Bên vay trong HĐTD là các tổ chức ,cá nhân thỏa mãn các điều kiện do pháp
luật quy định và các điều kiện khác do các bên thỏa thuận. Khi vay vốn tại TCTD
khách hàng phải thoả mãn các điều kiện vay vốn theo quy định của pháp luật,Tổ


chức tín dụng xem xét và quyết định cho vay khi khách hàng có đủ các điều kiện
sau:
Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân
sự theo quy định của pháp luật: “ Đối với khách hàng vay là pháp nhân và cá
nhân Việt Nam:
- Pháp nhân phải có năng lực pháp luật dân sự
- Cá nhân và chủ doanh nghiệp tư nhân phải có năng lực pháp luật và năng lực
hành vi dân sự
- Đại diện của hộ gia đình phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự
- Đại diện của tổ hợp tác phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự
- Thành viên hợp danh của công ty hợp danh phải có năng lực pháp luật và năng
lực hành vi dân sự
- Đối với khách hàng vay là pháp nhân và cá nhân nước ngoài phải có năng lực
pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự theo quy định pháp luật của nước mà
pháp nhân đó có quốc tịch hoặc cá nhân đó là công dân, nếu pháp luật nước ngoài
đó được Bộ Luật Dân sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các văn
bản pháp luật khác của Việt Nam quy định hoặc được điều ước quốc tế mà Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia quy định.
- Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp.
- Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
- Có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu
quả; hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi và phù hợp với
quy định của pháp luật.



- Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính phủ và
hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam”.
3.2 Một số quyền và nghĩa vụ cơ bản của các bên tham gia hợp đồng tín dụng
- Quyền và nghĩa vụ của bên cho vay
Với tư cách là bên cho vay, đồng thời là chủ nợ trong quan hệ cho vay, bên
cho vay có những quyền và nghĩa vụ pháp lý cơ bản sau đây:
“Yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu chứng minh dự án đầu tư, phương án
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả
thi, khả năng tài chính của mình và của người bảo lãnh trước khi quyết định cho
vay. Từ chối yêu cầu vay vốn của khách hàng nếu thấy không đủ điều kiện vay vốn,
dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn không có hiệu quả, không phù hợp với quy
định của pháp luật hoặc tổ chức tín dụng không có đủ nguồn vốn để cho vay”.
Nghĩa vụ chuyển giao tiền vay đầy đủ, đúng thời hạn và địa điểm cho khách
hàng vay sử dụng (nghĩa vụ giải ngân).Nghĩa vụ này phát sinh do việc bên cho vay
đã cam kết cho khách hàng vay được sử dụng số tiền của mình trong thời hạn nhất
định, với điều kiện có hoàn trả.Nếu bên cho vay vi phạm nghĩa vụ này (nghĩa vụ
giải ngân) như giả ngân chậm hoặc không chịu giải ngân theo thoả thuận trong hợp
đồng tín dụng thì vấn đề trách nhiệm pháp lý của họ là như thế nào? với hiện trạng
pháp luật hiện hành ở Việt Nam, trong trường hợp đó bên vay được coi là vi phạm
nghĩa vụ hợp đồng, vì thế có trách nhiệm phải bồi thường các thiệt hại vật chất đã
xảy ra cho bên vay. Ngoài ra bên cho vay còn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của
mình như đã cam kết, trừ trường hợp cả hai bên cùng thoả thuận chấm dứt hợp
đồng tín dụng trước thời hạn.
Nghĩa vụ kiểm tra, giám sát việc sử dụng tiền vay và trả nợ của khách hàng. “Tổ
chức tín dụng xây dựng quy trình và thực hiện kiểm tra, giám sát quá trình vay


vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng phù hợp với đặc điểm hoạt động

của tổ chức tín dụng và tính chất của khoản vay, nhằm bảo đảm hiệu quả và khả
năng thu hồi vốn vay; gửi quy trình kiểm tra giám sát vốn vay của khách hàng cho
Thanh tra Ngân hàng Nhà nước.”.
Quyền yêu cầu bên vay hoàn trả tiền vay đúng thoả thuận, kể cả tiền phạt, tiền
bồi thường thiệt hại (nếu có).” Khi đến hạn trả nợ mà khách hàng không trả nợ,
nếu các bên không có thoả thuận khác, thì tổ chức tín dụng có quyền xử lý tài sản
bảo đảm vốn vay theo sự thoả thuận trong hợp đồng để thu hồi nợ theo quy định
của pháp luật hoặc yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với
trường hợp khách hàng được bảo lãnh vay vốn; Miễn, giảm lãi vốn vay, gia hạn
nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ thực hiện theo quy định tại Quy chế này; mua bán nợ
theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và thực hiện việc đảo nợ,
khoanh nợ, xoá nợ theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam”.
- Quyền và nghĩa vụ của bên vay
Với tư cách là người hưởng tín dụng, đồng thời là con nợ trong quan hệ cho
vay, bên vay có những quyền và nghĩa vụ cơ bản sau đây:
Quyền từ chôí các yêu cầu không hợp lý của tổ chức tín dụng khi kết, thực
hiện và thanh lý hợp đồng tín dụng.
Quyền năng này được pháp luật quy định nhằm tạo cho khách hàng vay khả
năng chống lại các yêu cầu rõ ràng là không hợp lý của TCTD, có thể gây ra
những bất lợi cho họ nếu buộc phải thoả mãn các yêu cầu này, ví dụ khách hàng
vay có quyền từ chối cung cấp thông tin và hoạt động kinh doanh của mình nhưng
rõ ràng là không liên quan gì đến việc sử dụng vốn và hoàn trả vốn vay cho tổ
chức tín dụng…


Quyền khiếu nại, khởi kiện việc từ chối cho vay không có căn cứ hoặc các vi
phạm HĐTD của TCTD.
Quyền yêu cầu bên cho vay thực hiện nghĩa vụ giải ngân đúng thoả thuận
trong HĐTD.

Quyền năng này của bên vay cũng chính là nghĩa vụ của bên cho vay, đều
phát sinh trên cơ sở các điều khoản của hợp đồng tín dụng. Do có quyền này mà
bên vay được yêu cầu bên cho vay trả tiền bồi thương thiệt hại đã xảy ra cho mình,
trong trường hợp bên cho vay không thực hiện đúng nghĩa vụ giải ngân theo thoả
thuận mà gây thiệt hại.
Nghĩa vụ sử dụng tiền vay hiệu quả đúng mục đích đã thoả thuận trong
HĐTD.
Nghĩa vụ này phát sinh do điều khoản về mục đích sử dụng vốn vay đã được
ghi trong HĐTD, nhằm đặt cho người vay tình trạng bị kiểm tra, giám sát thường
xuyên bởi người cho vay. Tuy nhiên, nghĩa vụ này sẽ không cản trở người vay áp
dụng các biện pháp nhằm đem lại tính hiệu quả cho phương án sử dụng vốn của
mình như được quyền lựa chọn mô hình công nghệ thích hợp nhất để đầu tư, lựa
chọn loại vật tư, nguyên liệu trong nước hay nhập khẩu để mua sắm bằng nguồn
vốn tín dụng được cấp… Ngoài ra, hậu quả pháp lý của việc bên vay không thực
hiện đúng nghĩa vụ này là họ sẽ bị bên cho vay đình chỉ việc sử dụng vốn hoặc bi
thu hồi vốn vay trước thời hạn, su khi đã được bên cho vay nhắc nhở bằng văn
bản.
Nghĩa vụ hoàn trả tiền vay cả gốc và lãi, trả tiền phạt vi phạm HĐTD và tiền
bồi thường thiệt hại cho bên cho vay (nếu có).
3.3 Các vấn đề liên quan đến hiệu lực của HĐTD


- Điều kiện có hiệu lực của HĐTD:
Dựa trên các quy định có nguyên tắc của Bộ luật dân sự năm 2005 về các điều
kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, một HĐTD, với tư cách là một giao dịch
dân sự đặc thù, chỉ có hiệu lực khi thoả mãn đầy đủ các điều kiện sau đây:
Chủ thể tham gia HĐTD phải có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi
dân sự.
Mục đích và nội dung của HĐTD không trái pháp luật và đạo đức xã hội.Mục
đích cho vay và mục đích đi vay của các bên chủ thể hợp đồng nhất thiết phải

được thể hiện rõ ràng trong nội dung của hợp đồng và các mục đích này không trái
pháp luật, không trái đạo đức xã hội.
Có sự đồng thuận ý chí giữa các bên cam kết trên nguyên tắc tự nguyện, bình
đẳng và tự do ý chí.Một HĐTD được coi là không có sự đồng thuận khi sự thoả
thuận đó giữa các bên bị các khuyết điểm như sự nhầm lẫn: sự lừa dối, lường gạt
hoặc sự ép buộc, cưỡng bức trong khi giao kết hợp đồng. Trên nguyên tắc, các
khuyết tật này phải có ảnh hưởng mang tính quyết định đến ý trí giao kết hợp đồng
của các bên thì mới được coi là sự kiện pháp lý làm cho hợp đồng tín dụng vô
hiệu.
Hình thức của HĐTD phải phù hợp với quy định của pháp luật ngân hàng.
Đối với hợp đồng tín dụng, do tính chất rủi ro cao cho quyền lợi của các bên trong
quá trình thực hiện hợp đồng này nên pháp luật ngân hàng đòi hỏi hình thức hợp
đồng tín dụng phải được xem là một trong những điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng.
- Sự vô hiệu của hợp đồng tín dụng và các hậu quả pháp lý của sự vô hiệu:


HĐTD đựơc coi là vô hiệu tuyệt đối khi mục đích, nội dung và hình thức của
hợp đồng vi phạm các điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội hoặc
phương hại đến lợi ích chung. Khi đó, bất ky ai quan tâm (chứ không phải là các
bên ký kết hợp đồng) đều có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng tín dụng vô
hiệu và thời hạn thực hiện quyền yêu cầu này là không hạn chế. Trong trường hợp
vô hiệu tuyệt đối của hợp đồng tín dụng, các hậu quả pháp lý xảy ra cho sự vô hiệu
này là: Hợp đồng không phát sinh hiệu lực kể từ thời đỉêm ký kết, các bên phải
phục hồi tình trạng ban đầu như trước khi ký kết hợp đồng.
HĐTD bị coi là vô hiệu tương đối khi chủ thể tham gia hợp đồng không có hành
vi dân sự hoặc hợp đồng ký kết không có sự tự nguyện và đồng thuận giữa các bên
ký kết. Đối với trường hợp này, do việc ký kết hợp đồng tín dụng chỉ phương hại
đến lợi ích chung của các bên ký kết chứ không vi phạm các điều cấm của pháp
luật hoặc không phương hại đến trật tự công, lợi ích công nên Nhà nước cần phải

tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên, bằng cách chỉ tuyên bố vô hiệu đối với
hợp đồng khi nhận được yêu cầu của các bên hoặc của một bên có quyền lợi bị
phương hại, hoặc tạo cơ hội cho các bên tự khắc phục các vi phạm dẫn đến nguy
cơ hợp đồng bị vô hiệu. Với trường hợp này, chỉ khi nào hết thời hạn cho phép để
khắc phục các vi phạm đó nhưng các bên không thể khắc phục được thì khi đó,
yêu cầu của bên có quyền lợi bị phương hại. Toà án mới chính thức tuyên bố
HĐTD bị vô hiệu.

III. Thực tiễn pháp lý và một số kiến nghị giải pháp về hoạt
động cho vay tín dụng của các tổ chức tín dụng
1. Thực tiễn pháp lý về hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng
- Thứ nhất, một số quy định cho vay chưa phù hợp với thực tiễn của hoạt động tín
dụng ngân hàng.


- Thứ hai, quy định về giới hạn cho vay đối với một khách hàng còn nhiều bất
cập.
- Thứ ba, một số quy định về cơ chế bảo đảm tiền vay và xử lý tài sản bảo đảm
tiền vay chưa thích hợp.
- Thứ tư, các quy định khống chế lãi suất trần không phù hợp.

2. Một số kiến nghị nhằm giải quyết những hạn chế của pháp luật
phát sinh trong quá trình cho vay
- Cần quy định hạn mức cho vay, các hạn chế đảm bảo an toàn phù hợp với thực
tế thị trường.
- Phát triển hệ thống dịch vụ thông tin về khách hàng.
- Giải quyết xử lý quản lý đối với các khoản nợ sau cho vay của TCTD.

C. KẾT LUẬN
Trong những năm qua, pháp luật về hoạt động cho vay theo HĐTD của các

TCTD đã không ngừng được xây dựng và hoàn thiện. Tuy nhiên, thực tế hoạt động
cho vay của ngân hàng cho thấy, đã phát sinh nhiều bất cập trong các chính sách
của Nhà nước, thực tiễn pháp lý về hoạt động này vẫn còn tồn tại không ít những
vấn đề bất cập. Đòi hỏi Đảng và nhà nước ta cần quan tâm hơn nữa tới vấn đề cho
vay đối với các tổ chức tín dụng từ đó đảm bảo sự an toàn trong giao dịch tiền tệ
cho người dân cũng như của các tổ chức tín dụng tránh tiền mất tật mang. Gây ra
những khó khăn lòng vòng trong quá trình cho vay.


Mục lục
A. LỜI MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
I. Khái quát về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng
1. Một số khái niệm
2. Các đặc trưng cơ bản của hoạt động cho vay của các TCTD
3. Các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động cho vay của các TCTD

II.Pháp luật điều chỉnh hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng
1. Quy trình cho vay vốn của các TCTD
2. Hợp đồng tín dụng, cơ sở pháp lý quan trọng
3. Các nội dung cơ bản của HĐTD
3.1 Chủ thể của hợp đồng tín dụng
3.2 Một số quyền và nghĩa vụ cơ bản của các bên tham gia hợp đồng tín dụng
3.3 Các vấn đề liên quan đến hiệu lực của HĐTD


III. Thực tiễn pháp lý và một số kiến nghị giải pháp về hoạt động
cho vay tín dụng của các tổ chức tín dụng
1. Thực tiễn pháp lý về hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng
2. Một số kiến nghị nhằm giải quyết những hạn chế của pháp luật phát sinh

trong quá trình cho vay

C. KẾT LUẬN



×