LỜI MỞ ĐẦU
Dân tộc Việt Nam sớm hình thành trong q trình dựng nước và giữ
nước. Với truyền thống đồn kết, ý chí kiên cường bất khuất, Dân tộc Việt
Nam đã trải qua bao thăng trầm của lịch sử dựng nước và giữ nước, đã chiến
thắng bao kẻ thù xâm lược lớn mạnh.
Từ đầu thế kỉ XIX, trong quá trình đi xâm lấn, mở rộng thuộc địa, tư bản
phương Tây đã để ý tới nước ta. Năm 1958, đế quốc Pháp nổ súng xâm lược
nước ta,Triều đình nhà Nguyễn ký hiệp ước Pa-Tơ -Nốt, hoàn toàn dâng nước
ta cho đế quốc pháp.Từ đó chúng ta là thuộc địa của chúng, cũng kể từ đó nhân
dân ta chịu đựng bao đau khổ, lầm than dưới sự bóc lột tận cùng của thực dân
Pháp đã làm hằn sâu trong tiềm thức mỗi người Việt Nam ý chí kiên cường.
Bằng sự ra đời của đảng cộng sản Việt Nam ngày 3/2/1930, đánh dấu một
bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam. Từ đây, cách mạng Việt Nam đã
có đội Tiên phong, bộ tham mưu cầm ngọn cờ lãnh đạo đã dẫn dắt nhân dân
Viêt Nam tiến hành cuộc cách mạng Tháng Tám.
Cách mạng tháng Tám là một sự kiện lịch sử vĩ đại của dân tộc Việt
Nam, nó đã phá tan hai tầng xiềng xích nơ lệ của thực dân Pháp kéo dài hơn
80 năm và của phát xít Nhật đồng thời nó cịn lật đổ chế độ Phong kiến tồn tại
ngót ngàn năm trên đất nước ta.
Khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đưa nước ta từ một dân tộc nơ
lệ, bị áp bức bóc lột trở thành một đất nước dành độc lập, có chủ quyền. Từ
một nước khơng có tên trong bản đồ thế giới nay có thể tự hào với thế giới về
đất nước mình.
Cuộc cách mạng Tháng Tám mở ra cho dân tộc Việt Nam một kỉ nguyên
mới, kỉ nguyên của độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Để hiểu sâu sắc về cuộc cách mạng tháng Tám 1945, và sự lãnh đạo tài tình
của Đảng cộng sản Việt Nam, em xin chọn đề tài “Cách Mạng Tháng Tám
1945 Thắng Lợi, Dân Tộc Việt Nam Bước Vào Một kỷ Nguyên Mới” .
Trang 1
CHƯƠNG I
QUÁ TRÌNH CHUẨN BỊ VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA CUỘC CÁCH
MẠNG THÁNG TÁM 1945
I > Ý nghĩa lịch sử của cuộc cách mạng tháng tám 1945:
- Từ khi trở thành thuộc địa của thực dân pháp, Việt Nam từ một xã hội
phong kiến độc lập đã trở thành một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, kể từ đó
nhân dân ta bị đàn áp và bóc lột đến tận xương tuỷ, làm cho đất nước Việt
Nam mất hết độc lập chủ quyền, nhân dân Việt Nam mất hết tự do dân chủ, xã
hội Việt Nam bị kìm hãm khơng thể phát trển được. Từ đó địi hỏi phải xố bỏ
chế độ áp bức bóc lột của chủ nghĩa đế quốc thực dân gắn liền với việc xoá bỏ
chế độ áp bức bóc lột của địa chủ phong kiến. Bởi vậy thắng lợi của cuộc cách
mạng tháng tám 1945 thành công đã để lại ý nghĩa lịch sử to lớn đó là :
Cách mạng tháng tám thắng lơị đã phát huy và làm rạng rỡ truyền thống lịch
sử kiên cường bất khuất bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta
• cách mạng tháng Tám 1945 là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo trong đó nổi bật lên tính chất
giải phóng dân tộc .
• Đó là một cuộc cách mạng điển hình về tinh thần chủ động sáng tạo, biết
tranh thủ thời cơ chung, tự mình đứng lên giải phóng cho mình, khơng đợi
chờ ỷ lại vào người khác .
• Cách mạng tháng Tám 1945 thắng lợi đã đánh dấu bước ngoặt lịch sử vĩ
đại của cách mạng Việt Nam: Chấm dứt hơn 80 năm thống trị cuả thực dân
Pháp và lật nhào chế độ phong kiến tồn tại hơn một ngàn năm trên đất nước
ta, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Nhà nước dân chủ nhân
dân đầu tiên ở Đông Nam Á, đưa dân tộc ta bước vào một kỉ nguyên mới:
kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
• Cách mạng Tháng Tám 1945 thắng lợi đẫ phát huy và làm rạng rỡ thêm
truyền thống kiên cường bất khuất, anh dũng sáng tạo và đồn kết nhất chí
của dân tộc Việt Nam . Từ đây nước ta lại có độc lập chủ quyền, dân ta
Trang 2
thốt khỏi kiếp nơ lệ lầm than ,được làm chủ vận mệnh của mình. Từ đây
nhân dân ta có quỳên trong tay, có thêm điều kiện cơ bản để tiếp tục đưa
cách mạng tiến lên . Giành nhiều thắng lợi to lớn hơn nữa.
Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám 1945 cịn có ý nghĩa lịch sử to lớn. Đó là
thắng lợi của chủ nghĩa Mác -Lê Nin trong một nước thuộc địa nửa phong
kiến. Lần đầu tiên chọc thủng một mảng quan trọng của chủ nghĩa đế quốc ở
khâu yếu nhất, mở đầu thời kì sụp đổ và tan rã khơng cách gì cứu vãn nổi của
chủ nghĩa thực dân cũ, cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế
giới.
II. Quá trình chuẩn bị cho cuộc cách mạng tháng tám năm 1945:
1- .cao trào cách mạng 1930 –1931 và xô viết nghệ tĩnh:
Cao trào cách mạng 1930-1931 và Xô Viết Nghệ Tĩnh bùng nổ không
phải là hiện tượng tự nhiên, mà là kết quả tất yếu của những điều kiện khách
quan và chủ quan trong đời sống xã hội của nước ta.
Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 đã chấm dứt thời kỳ ổn định của
chủ nghĩa tư bản, gây nhiều khó khăn cho chủ nghĩa tư bản, vì vậy chúng chút
gánh nặng cho giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động ở các quốc gia và các
thuộc địa, tình hình nói trên là ngun nhân chính và trực tiếp của phong trào
đấu tranh cách mạng sôi nổi trên thế giới.
Việt Nam là thuộc địa của Pháp, khủng hoảng kinh tế thế giới và ở
chính nước Pháp đã ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam. Nước pháp bị khủng
hoảng kinh tế muộn hơn các nước tư bản khác trên thế giới nhưng lại bị sụp đổ
nhanh chóng và ngiêm trọng, bởi vậy chúng đã trút tất cả gánh nặng lên giai
cấp cồng nhân và nhân dân lao động Pháp và các nước thuộc địa trong đó có
Việt Nam. Bọn thống trị Pháp ra sứ bóc lột nhân dân ta làm cho đời sống nhân
dân bị đe doạ, điều kiện sống vơ cùng khổ cực từ đó đã thúc đẩy nhân dân ta,
vùng dậy đấu tranh chống đế quốc và phong kiến.
Việc Đảng ra đời là nhân tố quyết định và là nguyên nhân trực tiếp nổ ra
cao trào cách mạng 1930-1931, Dưới sự lãnh đạo của đảng, tháng 4-1930
Trang 3
nhiều cuộc bãi công của công nhân đã nổ ra, phong trào đấu tranh của nông
dân cũng lan rộng ở nhiều tỉnh, Phong trào thật sự lớn mạnh bắt đầu từ ngày15, từ nhiều thành phố đến nông thôn trên cả nước đã xuất hiện nhiều truyền
đơn, treo cờ đảng, mít tinh, biểu tình, bãi cơng. Đặc biệt ở Nghệ An và Hà
Tĩnh, lực lượng cách mạng ở nhiều huyện xã đã tự đứng ra quản lý lấy đời
sống của mình, đó là một kiểu chính quyền cách mạng của nhân dân theo hình
thức Xơ Viết.
Cao trào cách mạng 1930-1931 đã khẳng định đường lối cách mạng
của Đảng ta đề ra là đúng đắn, nó đã được quần chúng nhân dân đồng tình ủng
hộ.
Nó khẳng định trong thức tế quyền lãnh đạo và năng lực của cách mạng, của
giai cấp công nhân mà đại biểu là Đảng ta.
Cao trào cách mạng 1930-1931 và phong trào Xô Viết-Nghệ Tĩnh nổ ra
là cuộc tổng diễn tập đầu tiên của cách mạng Việt Nam để tiến hành giành
chính quyền trong cả nước. Cao trào đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm bước
đầu về cách mạng. Đó là bài học về kết hợp đúng đắn nhiệm vụ chống đế quốc
và chống phong kiến, về việc kết hợp phong trào đấu tranh của công nhân và
nông dân.
2. Cao trào dân chủ đông dương 1936-1939:
2.1> hoàn cảnh kịch sử :
Trên thế giới, chủ nghĩa phát xít – một nền chuyên chính độc tài nhất,
tàn bạo nhất, hiếu chiến và sô vanh nhất của bọn tư bản tài chính phản động
đã ra đời ở một số nước và có nguy cơ nổ ra chiến tranh phát xít trên phạm vi
thế giới .
Trước tình hình đó, “Quốc tế cộng sản họp lần thứ IV ”(tháng 7-1935)
chống lại nguy cơ phát xít trên thế giới. Quốc tế cộng sản đã phân tích tình
hình thế giới và đi đến kết luận :
Trang 4
Kẻ thù nguy hiểm trước mắt lúc này là bọn phát xít, nhiệm vụ chủ yếu
lúc này là đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít và chiến tranh, giành dân chủ và
hồ bình
Khi đó ở Việt Nam, bọn cầm quyền tay chân của bọn phát xít Pháp ra
sức khủng bố, đàn áp, bóp nghẹt mọi quyền tự do dân chủ, tình hình đó làm
cho nhân dân bao gồm nhiều giai cấp và tầng lớp tuy có quyền lợi khác nhau
nhưng đều căm thù sâu sắc bọn thực dân, tư bản độc quyền Pháp và đều có
nguyện vọng chung trước mắt về những quyền lợi dân sinh, dân chủ. Cũng
trong giai đoạn này phong trào cách mạng đã được phục hồi sau thời kỳ khủng
bố tàn bạo của kẻ thù. Các cơ sở đảng và cơ sở quần chúng đã dược khôi phục,
phát triển và đẩy mạnh hoạt động.
2.2> Sự lãnh đạo của đảng:
Tháng 7 năm 1936, Hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng đã họp ở
Thượng Hải (Trung Quốc) do đồng chí Lê Hồng Phong chủ trì. Hội nghị nhận
định: Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng tư sản dân quyền (chống đế quốc,
chống phong kiến để dành độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho nông dân )
không hề thay đổi, nhưng chưa phải là nhiệm vụ trực tiếp trong lúc này. Yêu
cầu cấp thiết trước mắt của quần chúng nhân dân lúc này là tự do, dân chủ, cải
thiện đời sống. Do đó, Đảng phải lãnh đạo thành lập mặt trận Dân chủ rộng rãi,
bao gồm các giai cấp, các tôn giáo, các đảng phái. Các đồn thể chính trị …
tập trung chống kẻ thù cụ thể, trực tiếp trước mắt là chủ nghĩa phát xít và bọn
phản động thuộc địa để bảo vệ hồ bình, đòi thực hiện tự do, dân chủ, cải thiện
đời sống cho nhân dân.
2.3> Hình thức và phương thức đấu tranh :
Phải triệt để lợi dụng những khả năng hợp pháp và nửa hợp pháp để
tuyên truyền, tổ chức quần chúng đồng thời củng cố và phát triển các tổ chức
bí mật của đảng. Kết hợp với những hoạt động công khai hợp pháp với hoạt
động không hợp pháp, làm cho Đảng liên hệ chặt chẽ với đông đảo quần chúng
và tổ chức họ ra đấu tranh để dành chính quyền dân chủ.
Như vậy, những
Trang 5
vấn đề Đảng nêu ra là hoàn toàn phù hợp với tình hình thực tiễn lúc đó, nhờ đó
mà phong trào đấu tranh của quần chúng phát triển sôi nổi, rộng khắp và trở
thành cao trào cách mạng.
2.4 > ý nghĩa lịch sử và thành quả của phong trào :
Cao trào dân chủ 1936-1939, có thể coi như cuộc tổng diến tập lần thứ
hai của cách mạng Việt Nam, chuẩn bị cho thắng lợi của cách mạng tháng
tám 1945 bởi vì:
• Cao trào dân chủ 1936-1939, nói lên sức sống mãnh liệt của Đảng và của
nhân dân ta, sau thời kỳ thoái trào, sau đợt khủng bố tàn bạo của kẻ thù đã
nhanh chóng khơi phục được lực lượng và phát triển được phong trào trên quy
mơ lớn .
• Cao trào dân chủ 1936-1939, do Đảng lãnh đạo đã đem lại cho nhân dân ta
những thắng lợi cụ thể nhất định, đã buộc giai cấp thống trị phải thực hiện ít
nhiều quyền tự do, dân chủ và cải thiện đời sống cho nhân dân. Đây là điều
hiếm có trong các thuộc địa đế quốc. Qua thắng lợi đó đã làm cho nhân dân ta
tin tưởng và đoàn kết dưới ngọn cờ lãnh đạo của đảng. Nếu cao trào19301931, chủ yếu là phong trào của quần chúng cơng nơng, thì cao trào dân chủ
1936-1939, là cao trào cách mạng của đông đảo các lớp quần chúng tham gia,
trong đó cơng nơng là cơ sở, với nhiều hình thức hoạt động, đấu tranh phong
phú .
3 - Cao trào giải phóng dân tộc 1939-1945:
3.1> Hoàn cảnh lịch sử :
Ngày 1-9-1939 chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra, đế quốc Pháp là
một nước tham chiến nên Việt Nam là thuộc địa của Pháp cũng bị đẩy vào
vịng khói lửa. Để phục vụ chiến tranh, đế quốc Pháp đã thi hành chính sách
thời chiến, tăng cường áp bức bóc lột, thủ tiêu các quyền dân sinh, dân chủ.
Bắt thanh niên đi lính làm bia đỡ đạn cho chúng. Tất cả các giai cấp, mọi từng
lớp trong xã hội Việt Nam đều bị ảnh hưởng tai hại của chính sách kinh tế,
Trang 6
chính trị, qn sự nói trên. Họ vơ cùng căm phẫn và kiên quyết đấu tranh để
bảo vệ quyền sống của mình.
3.2> Sự lãnh đạo của đảng
Ngay khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, trung ương Đảng đã kịp
thời chỉ đạo cho các tổ chức Đảng và quần chúng nhanh chóng rút vào
hoạt động bí mật, chuyển hướng hoạt động vê nông thôn, tránh sự đàn áp
khủng bố của kẻ thù.
Trước tình đó trung ương Đảng đã họp hội nghị lần thứ VI (tháng 11
năm 1939) đã điều chỉnh chiến lược cách mạng với nội dung:
Đặt nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai, giành độc lập dân tộc lên hàng đầu .
Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông
Dương thu hút tất cả các dân tộc, giai cấp, đảng phái, tôn giáo và các cá nhân
yêu nước ở Đông Dương nhằm đánh đổ đế quốc và tay sai, dành độc lập
hồn tồn cho các dân tộc ở Đơng Dương.
Tháng 11 năm 1940, Hội nghị trung ương Đảng lần thứ VII đã họp ở
Bình Bảng (Từ Sơn,Bắc Ninh), khẳng định chủ trương của Đảng lần thứ VI là
đúng, cũng trong hội nghị này đã cử đồng chí Trường Trinh làm bí thư trung
ương Đảng lâm thời.
Tháng 2 năm 1941 lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo
phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam .
Tháng 5 năm 1941, Hội nghị trung ương Đảng lần thứ VIII đã họp tại
Pắc Pó (Cao Bằng ). Do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chủ trì. Trong hội
nghị này đã cụ thể hóa và hồn thiện thêm một bước đường lối giải phóng dân
tộc của cách mạng Việt Nam :
Hội nghị chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trên khuôn khổ mỗi nước
Đông Dương:
Chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất đất nước. Ở Việt Nam
thành lập tổ chức Việt Nam Độc lập đồng minh, gọi tắt là mặt trận Việt Minh
bao gồm các đoàn thể cứu quốc trên cả nước:
Trang 7
Nhấn mạnh công tác chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của
toàn Đảng, toàn dân và dự kiến một số đường lối chính sách khi Tổng khởi
nghĩa dành thắng lợi .
Tháng 8-1942, lãnh tụ Nghuyễn Ái Quốc lấy tên mới là Hồ Chí Minh
với danh nghĩa là đại diện của Việt Minh lên đường đi Trung Quốc để liên hệ
tham gia đồng minh quốc tế chống phát xít và vận động những người yêu nước
ở nước ngoài tham gia cách mạng. Năm 1943, bản “Đề Cương Văn Hố Việt
Nam ” của Đảng được cơng bố có tác dụng lớn trong việc lôi cuốn các tầng lớp
tri thức, văn nghệ sĩ tham gia vào phong trào cách mạng của toàn cầu.
Được sự giúp đỡ của Đảng Cộng Sản Đông Dương, tháng 6-1944, Đảng Dân
Chủ Việt Nam – một chính đảng cách mạng của tư sản dân tộc và tiểu tư sản
tri thức yêu nước, tiến bộ đã ra đời. Đảng Dân Chủ Việt Nam ra đời và tham
gia vào mặt trận Vịêt Minh làm cho mặt trận dân tộc thống nhất ngày càng sâu
rộng .
Ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân được
thành lập tại Ngun Bình tỉnh Cao Bằng do đồng chí Võ Ngun Giáp lãnh
đạo. Đội du kích Bắc Sơn đã phát triển thành Cứu Quốc Quân do Chu Văn Tấn
chỉ huy.
Như vậy, ngồi lực lượng chính trị rộng lớn là mặt trận Việt Minh lực
lượng vũ trang cách mạng và căn cứ địa cách mạng cũng không ngừng phát
triển mạnh mẽ. Cả nước đâu đâu cũng có sự chuẩn bị cho phong trào đấu tranh
.Qua các cao trào của các cuộc cách mạng tiền thân mà Đảng ta đã có nhiều
kinh nghiệm cũng như sự chuẩn bị lực lượng, có đường lối đúng đắn từng
bước củng cố lực lượng chuẩn bị cho cuộc cách mạng tháng Tám dành thắng
lợi.
Trang 8
CHƯƠNG II
ĐẢNG LÃNH ĐẠO THẮNG LỢI CUỘC TỔNG KHỞI NGHĨA GIÀNH
CHÍNH QUYỀN THÁNG 8 NĂM 1945 VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
I > Đảng phát động cao trào chống Nhật, cứu nước, dự kiến thời cơ khởi
nghĩa giành chính quyền.
Từ đầu năm 1945, cuộc chiến tranh thế giới bước vào giai đoạn kết thúc.
Hồng quân Liên Xô đã quét sạch quân phát xít Đức ra khỏi lãnh thổ của mình,
giải phóng nhiều nước ở Đông Âu và đang tiến nhanh về phía Béc- Lin. Ở Tây
Âu, Anh, Mỹ đã mở mặt trận thứ hai vào nước Pháp và tiến về phía Tây Đức.
Ở Thái Bình Dương, Nhật bị Anh-Mỹ đuổi ra khỏi miến Điện và Phi Líp Pin.
Nhật lo sợ quân đồng minh sẽ đổ bộ lên Đông Dương, cắt quân Nhật trên lục
địa Viễn Đông thành hai khúc, trong khi đó qn Pháp ở Đơng Dương hoạt
động ráo riết chuẩn bị đánh Nhật, khôi phục quyền thống trị ở đây. Trước tình
hình đó buộc qn Nhật phải tiến hành đảo chính lật đổ Pháp để độc chiếm
Đơng Dương, đề phịng quân Pháp đánh sau lưng.
Đêm 9-3-1945, Nhật đã đảo chính Pháp để độc chiếm Đông Dương và trừ mối
hậu hoạ bị quân Pháp đánh sau lưng khi quân Đồng Minh đổ bộ vào Đông
Dương .
Giữa lúc tiếng súng Nhật đảo chính Pháp đang nổ ra, Ban Thườngvụ Trung
ương Đảng đã họp tại Bình Bảng (Từ Sơn, bắc Ninh), đánh giá tình hình và ra
chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Bản chỉ thị vạch rõ :
• Cuộc đảo chính Nhật –Pháp làm cho các điều kiện khởi nghĩa nhanh chóng
chín muồi.
• Kẻ thù chính, cụ thể trước mắt của nhân dân Đông Dương lúc này là phát
xít Nhật.
• Nhanh chóng phát động cao trào phát động chống Nhật, cứu nước với các
hình thức đấu tranh chính trị, vũ trang, kinh tế, văn hố, tun truyền.Thực
Trang 9
hiện khởi nghĩa từng phần, giành chính quền từng bộ phận, chuẩn bị mọi điều
kiện để tiến tới tổng khởi nghĩa .
• Dự kiến các thời cơ có thể nổi dậy Tổng khởi nghĩa dành chính quyền đó là
khi qn Đồng Minh đổ bộ và đứng vững trên đất Đông Dương ..,hoặc khi
Nhật đẩu hàng Đồng Minh như Pháp đầu hàng Đức năm 1940,.. Cũng có thể là
cách mạng nhật bùng nổ và chính quyền cách mạng của nhân dân Nhật được
thành lập..Tuy nhiên không được ỷ lại vào khách quan mà phải tăng cường nỗ
lực chủ quan, dựa vào sức mình là chính.
Do bọn phát xít Nhật thẳng tay vơ vét bóc lột, đã gây ra một nạn đói khủng
khiếp đã cướp đi gần hai triệu mạng người của đồng bào ta. Xuất phát từ lợi
ích của quần chúng. Đảng đã kịp thời đề ra khẩu hiệu “Phá kho Thóc để cứu
đói ”. Khẩu hiệu đó đã lơi kéo hàng triệu quần chúng, nhất là nông dân đứng
lên chống Nhật, giành lấy chính quyền về tay nơng dân.
II > Đảng lãnh đạo toàn dân đứng lên Tổng khởi nghĩa giành chính quỳên,
đưa cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945 đến thắng lợi :
Từ giữa tháng3-1945, cách mạng Việt Nam đã nhanh chóng trở thành
cao trào. Trong cao trào đó nổi lên những nét lớn sau:
• Chiến tranh du kích lan rộng ra tồn quốc .
• Khởi nghĩa từng phần giành chính quyền từng địa phương, nhiều căn cứ