Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Ứng dụng một số trò chơi vận động nhằm phát triển sự khéo léo cho học sinh nữ khối 10 trường THPT cao bá quát gia lâm hà nội (2014)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (957.36 KB, 64 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT

LÊ ANH TÙNG

ỨNG DỤNG MỘT SỐ TRÕ CHƠI
VẬN ĐỘNG NHẰM PHÁT TRIỂN SỰ
KHÉO LÉO CHO HỌC SINH NỮ KHỐI 10
TRƢỜNG THPT CAO BÁ QUÁT
GIA LÂM – HÀ NỘI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: CNKHSP TDTT - GDQP

Hƣớng dẫn khoa học

CN. TẠ TẤT VIỆN

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tên tôi là: LÊ ANH TÙNG
Sinh viên lớp K36 GDTC - GDQP Trường ĐHSP Hà Nội 2
Tôi xin cam đoan đề tài này là của riêng tôi, kết quả nghiên cứu của đề
tài không trùng với bất cứ đề tài nào nghiên cứu về vấn đề này tại Trường
THPT Cao Bá Quát – Gia Lâm – Hà Nội. Toàn bộ những vấn đề được đưa ra
bàn luận, nghiên cứu là những vấn đề mang tính thời sự, cấp thiết và đúng
thực tế của Trường THPT Cao Bá Quát.
Hà Nội, ngày 10 tháng 04 năm 2014
Sinh viên
Lê Anh Tùng




DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT Từ viết tắt Giải thích từ viết tắt
1

ĐC

Đối chứng

2

ĐHSP

Đại học sư phạm

3

GDTC

Giáo dục thể chất

4

GS - TS

Giáo sư - Tiến sĩ

5


NXB

Nhà xuất bản

6

QN

Quãng nghỉ

7

STT

Số thứ tự

8

TCVĐ

Trò chơi vận động

9

TDTT

Thể dục thể thao

10


TG

Thời gian

11

THCS

Trung học cơ sở

12

THPT

Trung học phổ thông

13

TN

Thực nghiệm


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Diễn giải

Trang

Bảng 3.1: Kết quả phỏng vấn mức độ ưu tiên sử dụng test kiểm tra
đánh giá năng lực khéo léo của học sinh nữ khối 10 trường THPT


25

Cao Bá Quát – Gia Lâm – Hà Nội.
Bảng 3.2: Kết quả kiểm tra năng lực khéo léo của học sinh nữ khối
10 trường THPT Cao Bá Quát – Gia Lâm – Hà Nội (n=20).

26

Bảng 3.3: một số trò chơi vận động được giáo viên lựa chọn nhằm
phát triển sự khéo léo cho học sinh nữ khối 10 trường THPT Cao Bá

29

Quát – Gia Lâm – Hà Nội.
Bảng 3.4: Kết quả kiểm tra trước thực nghiệm của hai nhóm đối
chứng và thực nghiệm.
Bảng 3.5: Tiến trình thực nghiệm.

Biểu đồ 3.1: Thành tích chạy díc dắc 20m của hai nhóm trước và
sau thực nghiệm.
Biểu đồ 3.2: Thành tích dẫn bóng bằng tay luồn cọc 20m của hai
nhóm trước và sau thực nghiệm.
Biểu đồ 3.3: Thành tích đập cầu lông vào ô quy định của hai nhóm
trước và sau thực nghiệm.

35

37


39

40

40


MỤC LỤC
Đặt vấn đề

1

Chƣơng 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu

5

1.1.

Quan điểm của Đảng và Nhà nước, Bộ GD&ĐT về TDTT và 5
GDTC

1.2.

Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh nữ khối 10 trường THPT.

6

1.3.

Cơ sở lý luận của tố chất khéo léo


10

1.4.

Một số nét đặc trưng của trò chơi vận động

15

Chƣơng 2: Nhiệm vụ, phƣơng pháp và tổ chức nghiên cứu

19

2.1. Nhiệm vụ nghiên cứu

19

2.2. Các phương pháp nghiên cứu chính

19

2.3. Tổ chức nghiên cứu

22

Chƣơng 3: Kết quả nghiên cứu

24

3.1. Thục trạng công tác GDTC tại trường THPT Cao Bá Quát – Gia 24

Lâm – Hà Nội.
3.2

Lựa chọn và đánh giá hiệu quả một số trò chơi vận động nhằm 28

phát triển sự khéo léo cho học sinh nữ khối 10 trường THPT Cao Bá
Quát – Gia Lâm – Hà Nội.
Kết luận và kiến nghị

42

Tài liệu tham khảo

43

Phụ lục


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Đất nước ta đang trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”. Để đạt
được mục tiêu đó, yếu tố con người luôn chiếm vị trí hàng đầu, luôn là động
lực, là chìa khóa để phát triển đất nước.
Để đào tạo được những con người với đầy đủ các phẩm chất, năng lực và
trình độ cần thiết thì giáo dục là phương tiện không thể thiếu. Giáo dục tạo
điều kiện phát triển tối đa năng lực của từng cá nhân, giúp họ hòa nhập vào
cuộc sống xã hội để đóng góp nhiều nhất sức lực và trí tuệ của mình thúc đẩy
sự phát triển của xã hội. Đối với toàn xã hội, mục đích của giáo dục là nâng

cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đối với thế hệ trẻ, giáo dục
giúp họ trở thành những nhân cách toàn diện. Theo quan niệm ngày nay, con
người phát triển toàn diện là những người: “phát triển cao về trí tuệ, cường
tráng về thể chất, phong phú về tinh thần và trong sáng về đạo đức”, tạo nên
những phong cách Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước và của
thời đại, tiến kịp với trào lưu chung của thế giới.
Trong giai đoạn hiện nay, giáo dục thể chất trong nhà trường là một bộ
phận hết sức cần thiết, nó góp phần thực hiện mục tiêu của giáo dục. Giáo dục
thể chất là quá trình giáo dục nhằm phát triển con người toàn diện không
những về thể chất mà còn tác động để hình thành nhân cách đạo đức và phẩm
chất tốt đẹp của con người.
Để có một thế hệ chủ nhân hùng mạnh có khả năng xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc thì việc giáo dục thể chất cho học sinh là điều rất cần thiết mà xã hội
đang rất quan tâm. GDTC tác động để hình thành cho người học những phẩm
chất tốt đẹp, tạo cho họ có một sức khỏe tốt để sống, học tập và lao động với
hiệu quả cao


2

Ngày nay, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến công tác TDTT nói
chung và GDTC trong nhà trường nói riêng, coi sức khỏe là vốn quý của con
người, là loại tài sản quốc gia vô cùng quan trọng. Sự quan tâm đó được thể
hiện trong các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nước trong từng giai đoạn
cách mạng với các yêu cầu, nhiệm vụ và tình hình cụ thể.
Chỉ thị 17/CT- TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác TDTT
đến năm 2010 và những năm tiếp theo, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương II
khóa 8 về công tác giáo dục và đào tạo đã khẳng định rõ GDTC trong trường
học là cực kỳ quan trọng. GDTC không chỉ tác động tích cực tới quá trình
phát triển và hoàn thiện thể chất mà còn góp phần quan trọng phát triển các

phẩm chất đạo đức, nhân cách và những phẩm chất cần thiết cho cuộc sống,
học tập và lao động của con người [1]. Chỉ thị số 36 - CT/TW ngày 24 -31994 của Ban Bí thư TW Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác thể dục thể thao
trong giai đoạn mới khẳng định: “Phát triển TDTT là bộ phận quan trọng trong
chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước nhằm bồi dưỡng
phát huy nhân tố con người, công tác TDTT góp phần tích cực nâng cao sức
khỏe, thể lực, giáo dục nhân cách, đạo đức lối sống lành mạnh, làm phong phú
đời sống tinh thần của nhân dân, nâng cao sức lao động và sức chiến đấu của
lực lượng vũ trang” [2].
Chính vì thế trong những năm gần đây, Bộ GD - ĐT đã không ngừng cải
tiến nội dung, đổi mới chương trình, phương pháp dạy học ngành GDTC trong
các cấp học.
Muốn tạo ra những con người mới như chúng ta vừa đề cập, chỉ có các
chính sách đúng đắn thôi thì chưa đủ mà phải có sự chung tay, góp sức của
gia đình, nhà trường và của toàn xã hội.
Trong đề tài này, tác giả chỉ đi sâu đề cập đến vấn đề nâng cao sức
khỏe, phát triển thể lực, hoàn thiện từng bước về hình thái và chức năng cho


3

các em học sinh trong các cấp học ở trường phổ thông. Ở đây, chúng tôi đề
cập cụ thể là học sinh nữ khối 10 ở trường THPT Cao Bá Quát - Gia Lâm Hà Nội. Tăng cường dinh dưỡng sống, sinh hoạt hợp vệ sinh, học tập và làm
việc hợp lí, nhưng biện pháp tích cực nhất, hiệu quả nhất để đạt được mục
đích nêu trên là tạo điều kiện để các em tham gia các hoạt động TDTT.
Ở lứa tuổi của các em, ngoài các môn học GDTC được quy định trong
chương trình thì các hoạt động vui chơi có vị trí đặc biệt quan trọng và cần
thiết. Chính vì thế, việc đưa TCVĐ vào giờ học chính khóa, hoạt động ngoại
khóa là việc làm không thể thiếu được.
Trong những phương tiện góp phần nâng cao thể chất cho con người thì
trò chơi vận động (TCVĐ) là một phương tiện vận động tạo được sự hưng

phấn cao, giúp các em học sinh giải quyết sáng tạo nhiệm vụ vận động với
hiệu quả cao nhất. Ngoài ra trò chơi vận động còn được hiểu như là phương
pháp dạy học tích cực của bộ môn, qua đó giáo viên có thể tăng lượng vận
động một cách hợp lý, tạo hứng thú, thu hút học sinh trong tiết học, rèn luyện
các chuẩn mực hành vi đạo đức một cách tự nhiên, rèn kỹ năng sống, tác
phong nhanh nhẹn, hoạt bát và các phẩm chất cần thiết khác cho học sinh.
Như vậy, việc đưa TCVĐ vào giờ học chính khóa, hoạt động ngoại
khóa có ý nghĩa hết sức to lớn. Cùng với đó, trong quá trình nghiên cứu tổng
hợp tài liệu tác giả thấy có nhiều công trình nghiên cứu về TCVĐ phát triển
các tố chất thể lực cho học sinh THPT. Tuy nhiên, tại trường THPT Cao Bá
Quát - Gia Lâm - Hà Nội, vấn đề này chưa được đề cập tới.
Xuất phát từ ý nghĩa và tầm quan trọng của GDTC nói chung và
TCVĐ nói riêng đối với sự phát triển toàn diện cho học sinh, chúng tôi đã lựa
chọn và tiến hành nghiên cứu đề tài: “Ứng dụng một số TCVĐ nhằm phát
triển sự khéo léo cho học sinh nữ khối 10 trường THPT Cao Bá Quát - Gia
Lâm - Hà Nội”.


4

Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm tâm sinh lí của học sinh nữ khối 10
trường THPT và những đặc điểm của phương pháp sử dụng trò chơi vận động
để GDTC trong trường học, tiến hành nghiên cứu đề tài này với mục đích lựa
chọn và ứng dụng một số trò chơi vận động phát triển sự khéo léo cho học
sinh nữ khối 10 trường THPT Cao Bá Quát - Gia Lâm - Hà Nội. Hy vọng các
trò chơi được lựa chọn sẽ được ứng dụng có hiệu quả trong công tác GDTC ở
trường THPT Cao Bá Quát - Gia Lâm - Hà Nội nói riêng và ở các trường
THPT nói chung, làm cơ sở lựa chọn và bồi dưỡng nhân tài thể thao cho đất
nước.



5

Chƣơng 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc, Bộ GD&ĐT về TDTT và GDTC
GDTC cho học sinh tại các Trường THPT là vấn đề được Đảng và Nhà
nước quan tâm chỉ đạo và được coi là vấn để rất quan trọng. Trong lời kêu gọi
toàn dân tập thể dục được Bác viết ngày 27/03/1946, Bác khẳng định: “Giữ
gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới việc gì cũng cần có sức
khỏe mới thành công”; “Mỗi người dân yếu ớt tức là làm cho cả nước yếu ớt,
mỗi người dân khoẻ mạnh tức là góp phần cho cả nước mạnh khoẻ. Vậy nên
tập thể dục bồi bổ sức khoẻ là bổn phận của mỗi người dân yêu nước”. Bác
kêu gọi: “Tôi mong muốn đồng bào ai cũng cố gắng tập thể dục, tự tôi ngày
nào cũng tập”[3]
Ngày 24/03/1994, chỉ thị 36 CT/TW của Đảng về công tác TDTT và mới
đây nhất là chỉ thị 17 CT/TW về phát triển TDTT đến năm 2010. Trong chỉ
thị Đảng ta đã nêu lên những thành tích đã đạt được của ngành, đồng thời
cũng chỉ ra mặt yếu kém về sự phát triển của TDTT quần chúng và sự yếu
kém về công tác tổ chức của thể thao thành tích cao và việc phát triển về cơ
sở vật chất phục vụ cho tập luyện TDTT.
Chỉ thị 36/CT-TW ngày 24/03/1994 của Ban Bí thư Trung ương Đảng
khoá VII đã nêu: “Giao trách nhiệm cho Bộ GD&ĐT và Tổng cục TDTT
thường xuyên phối hợp chỉ đạo tổng kết công tác GDTC, cải tiến chương
trình giảng dạy, tiêu chuẩn rèn luyện thân thể, đào tạo giáo viên TDTT cho
trường học các cấp, tạo điều kiện cần thiết về cơ sở vật chất và kinh phí để
thực hiện dạy và học thể dục bắt buộc ở tất cả các trường học, làm cho việc
tập luyện TDTT trở thành nếp sống hàng ngày của hầu hết học sinh, sinh viên



6

qua đó phát hiện và tuyển chọn được nhiều tài năng thể thao cho quốc
gia…”[2].
Trong giai đoạn mới sự nghiệp TDTT cần được tiếp tục phát triển theo
những quan điểm đã nêu trong Chỉ thị 36/CT-TW và phương hướng nhiệm vụ
đã được Đại Hội Đảng IX xác định: “Đẩy mạnh hoạt động thể dục thể thao,
nâng cao thể trạng và tầm vóc của người Việt Nam. Phát triển phong trào thể
dục thể thao quần chúng với mạng lưới cơ sở rộng khắp; Đào tạo bồi dưỡng
đội ngũ vận động viên thể thao thành tích cao, đưa thể thao Việt Nam lên
trình độ chung trong khu vực Đông Nam Á và có vị trí cao trong nhiều bộ
môn. Đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích nhân dân và các tổ chức tham gia
tích cực có hiệu quả các hoạt động văn hóa thể thao”[2].
Công tác thể dục thể thao phải góp phần tích cực thực hiện các nhiệm vụ
kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, và mở rộng quan hệ đối ngoại của đất
nước, trước hết là góp phần nâng cao sức khoẻ, rèn luyện ý chí, giáo dục đạo
đức, nhân cách, lối sống và nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần của nhân
dân; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân; nâng cao lòng tự hào dân tộc và
đẩy lùi tệ nạn xã hội ở từng địa phương.
1.2. Đặc điểm tâm sinh lí của học sinh nữ khối 10 trƣờng THPT
1.2.1. Đặc điểm tâm lí
Ở lứa tuổi này các em thích tỏ ra mình là người lớn, muốn được mọi
người tôn trọng, tỏ ra mình là người hiểu biết, có khả năng phân tích tổng
hợp, các em có sự hiếu động, tinh nghịch, có nhiều hoài bão nhưng lại thiếu
kinh nghiệm sống.
Tuổi này chủ yếu hình thành thế giới quan, tự ý thức, hình thành ý
thức, hình thành tính cách và hướng về tương lai. Đó cũng là tuổi lãng mạn
mơ ước độc đáo và mong cho cuộc sống tốt đẹp hơn.



7

Về hứng thú: Các em có thái độ tự giác tích cực trong học tập, xuất
phát từ động cơ học tập đúng đắn và lựa chọn nghề nghiệp sau này. Song
hứng thú học tập do nhiều động cơ khác nhau như ganh đua với bạn bè, tự ái,
hiếu danh…cho nên khi giảng dạy giáo viên cần giúp các em xây dựng động
cơ đúng đắn để các em có được hứng thú học tập các môn học nói chung và
môn học GDTC nói riêng.
Về tình cảm: Các em đã biểu lộ rõ hơn về tình cảm của bản thân với
môi trường mình gắn bó, với các thầy cô giáo đã dạy các em. Vì vậy, việc
giáo viên gây được thiện cảm và sự tôn trọng của các em là một trong những
thành công giúp giáo viên có nhiều thuận lợi trong quá trình giảng dạy, thúc
đẩy các em tự giác, tích cực trong học tập.
Về trí nhớ: Các em ở tuổi này giảm dần việc ghi nhớ máy móc, do các
em đã biết cách ghi nhớ có hệ thống, đảm bảo tính logic chặt chẽ và lĩnh hội
được bản chất vấn đề cần học tập. Vậy nên khi giảng dạy GDTC giáo viên có
thể sử dụng phương pháp trực quan kết hợp với giảng giải, phân tích chi tiết kỹ
thuật động tác và vai trò, ý nghĩa cũng như cách sử dụng phương tiện, phương
pháp để các em có thể tự tập một cách độc lập trong thời gian nhàn rỗi.
Các phẩm chất ý chí đã rõ ràng hơn và mạnh mẽ hơn so với lứa tuổi
trước đó. Các em có thể tiếp thu được những bài tập khó và đòi hỏi khắc phục
khó khăn trong học tập.
Ở lứa tuổi THPT đang là tuổi dậy thì nên tính cách của các em còn chưa ổn
định phần lớn các em thích khen hơn thích chê.
Vì vậy cần cư sử nhẹ nhàng, tế nhị, không nên quát mắng các em.
1.2.2. Đặc điểm sinh lí
Hệ thần kinh: Tiếp tục phát triển đi đến mức hoàn thiện, khả năng tư
duy, khả năng phân tích trừu tượng hóa được phát triển tạo thuận lợi cho việc
hình thành nhanh chóng phản xạ có điều kiện. Đây là đặc điểm thuận lợi để



8

các em nhanh chóng tiếp thu và hoàn thiện kỹ thuật động tác. Tuy nhiên một
số bài tập mang tính đơn điệu, không hấp dẫn cũng làm cho các em chóng mệt
mỏi. Cần thay đổi nhiều hình thức tập luyện một cách phong phú, đặc biệt
tăng cường các hình thức thi đấu, trò chơi để gây hứng thú, tạo điều kiện hoàn
thành tốt các bài tập chính, nhất là các bài tập về sự khéo léo. Ngoài ra do sự
hoạt động mạnh của tuyến giáp, tuyến sinh dục, hưng phấn và ức chế không
cân bằng đã ảnh hưởng đến hoạt động thể lực. Đặc biệt là các em nữ, tính
nhịp điệu giảm sút nhanh chóng, khả năng chịu đựng lượng vận động yếu. Vì
vậy, giáo viên cần sử dụng trò chơi thích hợp và thường xuyên quan sát phản
ứng cơ thể của học sinh để có biện pháp giải quyết kịp thời.
Hệ vận động: Hệ xương bắt đầu giảm tốc độ phát triển. Mỗi năm, nữ
cao thêm 0,5 đến 1cm. Tập luyện TDTT một cách hệ thống làm cho xương
khỏe mạnh hơn. Ở lứa tuổi học sinh THPT, các xương nhỏ như xương tay,
xương bàn tay hầu như đã hoàn thiện nên các em có thể tập một số động tác
treo, chống, mang vác nặng mà không làm tổn hại hoặc không tạo sự phát
triển lệch lạc của cơ thể. Cột sống đã ổn định hình dáng nhưng vẫn chưa được
hoàn thiện, vẫn có thể cong vẹo nên việc tiếp tục bồi dưỡng tư thế chính xác
thông qua các hệ thống bài tập như đi, chạy nhảy, thể dục nhip điệu, thể dục
cơ bản cho các em là rất cần thiết và không thể xem nhẹ. Riêng đối với các
em nữ, xương xốp hơn các em nam, ống tủy rỗng hơn, chiều dài ngắn hơn,
bắp thịt nhỏ hơn và yếu hơn, nên xương của nữ không khỏe bằng nam. Đặc
biệt, xương chậu của nữ to hơn và yếu hơn. Vì thế, trong GDTC không thể sử
dụng các bài tập có khối lượng vận động, cường độ vận động như nam mà
phải có sự phù hợp đặc điểm giới tính.
Hệ cơ: Các tổ chức cơ phát triển muộn hơn xương nên sự co cơ vẫn
tương đối yếu. Các cơ bắp lớn phát triển tương đối nhanh (cơ đùi, cơ cánh

tay) còn các cơ nhỏ, cơ bàn tay phát triển chậm hơn. Các cơ co phát triển sớm


9

hơn các cơ duỗi, các cơ duỗi của nữ lại càng yếu. Đặc biệt, tuổi 16 các tổ
chức mỡ dưới da phát triển nhanh - mạnh. Nói chung, đầu thời kỳ học sinh
THPT thường nữ 15 tuổi là thời kỳ cơ bắp phát triển nhanh nhất. Do những
đặc điểm kể trên nên các trò chơi phải đảm bảo nguyên tắc vừa sức, đảm bảo
cho tất cả các loại cơ to nhỏ đều được phát triển.
Hệ tuần hoàn: Hệ tuần hoàn của học sinh THPT đang phát triển và đi
đến hoàn thiện. Buồng tim phát triển tương đối hoàn chỉnh, mạch đập của
nam vào khoảng 70 đến 80 nhịp/phút, nữ 75 đến 85 nhịp/phút. Hệ thống điều
hòa vận động mạch phát triển tương đối hoàn chỉnh. Phản ứng của hệ tuần
hoàn trong vận động mạch tương đối phát triển và huyết áp phục hồi nhanh
chóng. Khi sử dụng các trò chơi vận động có khối lượng và cường độ vận
động lớn cần phải thận trọng và thường xuyên kiểm tra, theo dõi sức khỏe của
học sinh, tránh để các em ham chơi quá sức dẫn đến mệt mỏi.
Hệ hô hấp: Đã phát triển và tương đối hoàn thiện, gần bằng tuổi trưởng
thành. Dung lượng phổi tăng lên nhanh chóng từ lúc 15 tuổi là 2 đến 2,5 lít
đến 16-18 tuổi là 3 đến 4 lít. Tần số hô hấp giống như người lớn 10 đến 20
lần/ phút.
Từ sự nghiên cứu, tìm tòi dựa trên cơ sở lí luận và thực tế, nhận thức
được vai trò to lớn của GDTC, theo sự chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo về
công tác GDTC đối với học sinh, trong quá trình giảng dạy chúng tôi đã lựa
chọn và ứng dụng một số trò chơi vận động nhằm phát triển sự khéo léo cho
học sinh nữ khối 10 trường THPT Cao Bá Quát - Gia Lâm - Hà Nội góp phần
nâng cao chất lượng công tác GDTC cho trường THPT Cao Bá Quát. Các em
rất hào hứng, vui chơi, tham gia nhiệt tình, xua tan căng thẳng, giúp tinh thần
minh mẫn hơn trong những giờ học tiếp theo. Kích thích các em suy nghĩ,

sáng tạo không chỉ trong giờ học thể dục mà cả trong các giờ học khác, một
phần khắc phục được những nhược điểm như trên mà chúng tôi vừa nêu. Học


10

sinh thêm yêu trường, yêu lớp, yêu thầy cô, gia đình và bạn bè hơn. Các em
hào hứng trong những giờ thể dục, đó là những giờ được chơi trò chơi vận
động, là những giờ mà các em được rèn luyện thể chất. Ở đó, các em rèn
luyện được sự nhanh nhẹn, khéo léo... hỗ trợ cho những kỹ năng trong cuộc
sống, các em được hiểu biết từ các trò chơi đem lại, phát triển tố chất thể lực
và các phẩm chất đạo đức.
Vì vậy trong phạm vi khóa luận này, tác giả chỉ đi sâu nghiên cứu những
trò chơi mang tính chất vận động thể lực và đặc biệt chú ý tới sự phát triển sự
khéo léo của học sinh nữ khối 10, từ đó đưa ra một số ứng dụng có hiệu quả
trong công tác GDTC trường THPT Cao Bá Quát nói riêng và ở các trường
THPT khác nói chung.
1.3. Cơ sở lí luận của tố chất khéo léo
1.3.1. Đặc điểm của sự khéo léo
Sự khéo léo (hay còn gọi là năng lực phối hợp vận động) là năng lực
học, hoàn thiện và củng cố một cách nhanh chóng và vững chắc các kĩ thuật
vận động.
Nếu như các năng lực sức nhanh, sức mạnh, sức bền dựa trên cơ sở hệ
thống thích ứng về mặt năng lượng thì sự khéo léo dựa trên cơ sở của hệ
thống thích ứng của các quá trình điều khiển hành động vận động.
Việc xác định năng lực vận động về cơ bản được dựa trên cơ sở lí luận
của tâm lý học hiện đại về khái niệm năng lực và dựa trên cơ sở học thuyết
vận động. Theo các quan điểm này năng lực phối hợp vận động là một phức
hợp các tiền đề của học sinh để thực hiện thắng lợi một hoạt động nhất định.
Năng lực này được xác định trước hết thông qua các quá trình điều khiển và

được học sinh hình thành và phát triển trong tập luyện. Năng lực phối hợp vận
động có quan hệ chặt chẽ với các phẩm chất tâm lí và năng lực khác như sức
mạnh, sức nhanh, sức bền...


11

Căn cứ vào đặc điểm các loại hoạt động thể thao và yêu cầu riêng của
chúng về sự khéo léo, người ta phân thành bảy loại:
Năng lực liên kết vận động là năng lực liên kết các hoạt động của từng
bộ phận cơ thể, các phần của động tác trong mối quan hệ với hoạt động chung
của cơ thể theo mục đích hành động nhất định. Nó thể hiện sự kết hợp các yếu
tố về không gian, thời gian và dùng sức trong quá trình vận động.
Năng lực định hướng là năng lực xác định sự thay đổi tư thế và hoạt động
của cơ thể trong không gian và thời gian: Trên sân thi đấu, trên dụng cụ...
Năng lực thăng bằng là năng lực ổn định trạng thái thăng bằng của cơ
thể (thăng bằng tĩnh) hoặc duy trì và khôi phục nó trong và sau khi thực hiện
động tác (thăng bằng động).
Năng lực nhịp điệu là năng lực nhận biết được sự luân chuyển của các
đặc tính chuyển động trong quá trình một động tác hoặc thể hiện nó trong khi
thực hiện động tác.
Năng lực phản ứng là năng lực dẫn truyền nhanh chóng và thực hiện
các phản ứng vận động một cách hợp lí và thời gian ngắn nhất đối với một tín
hiệu (đơn giản hoặc phức tạp).
Năng lực phân biệt vận động là năng lực thực hiện động tác một cách chính
xác cao và tinh tế từng hoạt động riêng lẻ, từng giai đoạn của quá trình đó.
Năng lực này thể hiện ở sự phân biệt có ý thức và chính xác các thông
số thời gian, không gian và dùng sức trong hoạt động vận động của người tập.
Năng lực thích ứng vận động là năng lực chuyển chương trình hành
động phù hợp với tình huống mới hoặc tiếp tục thực hiện hành động đó theo

phương thức khác dựa trên cơ sở tri giác sự thay đổi tình huống hoặc dự đoán
sự thay đổi đó.
Sự phân biệt các năng lực phối hợp riêng lẻ không phải vì chúng độc
lập với nhau mà ngược lại, do chúng có mối quan hệ khăng khít và thống nhất


12

tạo thành một tập hợp tiền đề cho các hoạt động thể thao khác nhau. Sự phân
biệt rõ đặc điểm của từng năng lực và cơ sở sinh học của chúng tạo điều kiện
thuận lợi để lựa chọn các phương tiện và phương pháp thích hợp nhằm phát
triển các năng lực này một cách hiệu quả.
1.3.2. Ý nghĩa của tố chất khéo léo đối với các em học sinh khi học các môn
thể thao
Sự khéo léo có ý nghĩa đặc biệt đối với các em học sinh khi học các
môn thể thao chứa các đặc điểm sau:
- Có kĩ thuật và yêu cầu phối hợp vận động phức tạp như thể dục dụng
cụ, thể dục nghệ thuật...
- Đòi hỏi phải học một khối lượng lớn kĩ thuật vận động và phải có vốn
kĩ xảo vận động phong phú: Thể dục dụng cụ, võ, các môn bóng...
Năng lực phối hợp vận động được phát triển tốt sẽ tạo điều kiện thuận
lợi cho việc học và hoàn thiện nhanh chóng các kĩ thuật thể thao. Học sinh có
trình độ phát triển cao về năng lực phối hợp vận động sẽ tiếp thu nhanh chóng
kĩ thuật của các môn thể thao khác. Trong đời sống có thể nhanh chóng tiếp
thu và thực hiện có hiệu quả cao các kĩ năng lao động, sản xuất và chiến đấu.
1.3.3. Phương pháp phát triển sự khéo léo
Việc lựa chọn các phương tiện tập luyện nhằm phát triển sự khéo léo
cần phải tuân theo một số nguyên tắc sau:
- Phương pháp chính là tập luyện, phương tiện chính là các bài tập thể
lực, đòi hỏi có sự phối hợp vận động phức tạp từ thấp đến cao.

Năng lực chỉ phát triển thông qua hoạt động. Do vậy muốn phát
triển sự khéo léo phải thông qua sự tập luyện một cách tích cực, thông qua
việc học và hoàn thiện các bài tập được chọn lựa làm phương tiện để phát
triển năng lực này.


13

Ngoài ra có thể sử dụng các bài tập tâm lí (mentales training) để phát
triển năng lực xử lí thông tin và nhanh chóng hình thành các biểu tượng vận
động theo nhiệm vụ đặt ra.
- Các bài tập được sử dụng làm phương tiện phát triển sự khéo léo cần
yêu cầu học sinh thực hiện chính xác và thường xuyên phải kiểm tra tính
chính xác của bài tập một cách có ý thức.
Năng lực tri giác và điều khiển các hành động vận động được phản ánh
và giữ lại trong ý thức của học sinh. Lặp lại nhiều lần sai lầm về kĩ thuật sẽ
dẫn đến việc củng cố các biểu tượng sai về kĩ thuật động tác và hạn chế sự
phát triển kĩ xảo.
Cần sử dụng các phương pháp tập luyện nhằm phát triển chức năng của
các cơ quan phân tích. Các cơ quan phân tích là một phần của hệ thống thần
kinh - cơ, được coi là một bộ phận của "thực thể sinh lí" của sự khéo léo.
Phương thức hoạt động của nó ảnh hưởng đến trình độ của sự khéo léo.
Do vậy cần sử dụng các phương tiện phụ nhằm phát triển chúng. Việc
phát triển có mục đích một cơ quan phân tích cũng có tác dụng phát triển
nhiều năng lực phối hợp riêng lẻ như: Sử dụng ghế quay để phát triển
chức năng tiền đình góp phần nâng cao năng lực thăng bằng và đồng thời
nâng cao năng lực định hướng.
Cần sử dụng các biện pháp nhằm nâng cao yêu cầu phối hợp vận động
của các bài tập thể lực. Sau đây có một số biện pháp chính.
Đa dạng hóa cách thức thực hiện động tác như: Bật nhảy co gối, nhảy

dạng chân, nhảy gập thân, thực hiện động tác với nhịp điệu, tốc độ thay đổi.
Thay đổi điều kiện bên ngoài. Thực hiện động tác trong điều kiện nâng
cao độ khó của môi trường như: thực hiện động tác với các dụng cụ có độ cao
khác nhau, các trọng lượng khác nhau, với các đối thủ khác nhau...


14

Phối hợp các kĩ xảo kĩ thuật với nhau: Liên kết các động tác trong thể
dục dụng cụ, các môn bóng (ném, bắt, chạy - chuyền bóng, chạy - ném
bóng...).
Thực hiện động tác với yêu cầu thời gian: Phải thực hiện động tác trong
một thời gian ngắn nhất (tuy nhiên phải đảm bảo độ chính xác). Phương pháp
này có tác dụng phát triển năng lực phản ứng, năng lực định hướng và năng
lực liên kết vận động.
Thay đổi việc thu nhận thông tin. Việc thu nhận và xử lí các thông tin
về thị giác, thính giác, xúc giác, thăng bằng và cảm giác cơ bắp có ý nghĩa
đặc biệt nhằm điều khiển vận động. Do vậy cần phải yêu cầu học sinh kiểm
tra một cách có ý thức việc điều khiển các động tác trong quá trình vận động.
Có thể sử dụng thêm các thông tin phụ nhằm đạt mục đích trên như: Sử
dụng gương nhằm nâng cao khả năng kiểm tra về thị giác khi thực hiện các
động tác phức tạp đối với học sinh học thể dục hoặc sử dụng thêm các điểm
đích trong các bài tập phản ứng.
Để nâng cao độ khó trong khi thực hiện bài tập, có thể hạn chế thông
tin, thông thường là các thông tin về thị giác, ví dụ như làm động tác thăng
bằng mà mắt nhìn lên trên hoặc nhắm mắt...
Thực hiện các bài tập có yêu cầu cao về phối hợp vận động khi đã xuất
hiện mệt mỏi.
Sau một lượng vận động phù hợp, yêu cầu học sinh phải thực hiện các
bài tập đòi hỏi sự phân phối vận động phức tạp (trong trường hợp này, học

sinh phải nắm vững kĩ thuật, nếu không sẽ có hậu quả xấu do thực hiện sai kĩ
thuật). Phải ngừng tập, nếu xuất hiện sai lầm kĩ thuật do mệt mỏi gây nên.
Sau các buổi tập thể lực với các bài tập phát triển chung, có thể thực
hiện các bài tập nhằm phát triển năng lực định hướng, năng lực thích ứng...


15

Thí dụ, thực hiện các bài tập phức tạp vào phần cuối buổi tập, thực hiện các
bài tập thăng bằng sau khi đã lộn hoặc quay nhiều lần.
Các phương pháp nhằm phát triển sự khéo léo rất phong phú, có thể
phối hợp chúng với nhau hoặc thực hiện một cách có trọng điểm từng phương
pháp. Việc lựa chọn và sử dụng từng phương pháp cần căn cứ vào đặc điểm
của từng năng lực cần phát triển. Cần thường xuyên nâng cao mức độ khó
khăn về sự khéo léo của các bài tập, vì chỉ nâng cao kích thích đối với cơ thể
mới tạo được một trình độ thích ứng cao hơn
1.4. Một số nét đặc trƣng của trò chơi vận động
1.4.1. Khái niệm, đặc điểm cách thức phân loại trò chơi vận động
Trò chơi vận động là những trò chơi nhằm củng cố và hoàn thiện kỹ năng
vận động cơ bản của con người như: Đi, chạy, nhảy, mang vác, leo trèo,...
Hầu hết những trò chơi được vận dụng trong quá trình GDTC đã mang
lại tính mục đích rõ ràng. Trong quá trình chơi, các em tiếp xúc với nhau, mỗi
cá nhân phải phấn đấu hết mình vượt qua khó khăn để hoàn thành trách nhiệm
của mình trước tập thể. Do sự đua tranh giữa các em, các em sẽ cố gắng hết
mình, tự giác, hứng thú là một đặc điểm quan trọng để rèn luyện, phát triển sự
khéo léo cho học sinh. Trò chơi vận động tạo môi trường vận động phong phú,
giúp hệ thần kinh hoạt động tối ưu, ít căng thẳng, mệt mỏi hơn.
Trò chơi vận động còn giúp học sinh rèn luyện tác phong khẩn trương,
nhanh nhẹn, tính kỷ luật, sáng tạo để học sinh hoàn thành nhiệm vụ với kết
quả cao, góp phần giáo dục đạo đức và hình thành nhân cách cho học sinh.

Trò chơi vận động mang tính tư tưởng cao. Hầu hết các trò chơi vận động đều
dễ chơi vì chơi là một nhu cầu mang tính tự nhiên của học sinh, có thể nói vui
chơi cũng cần thiết và quan trọng như ăn uống hàng ngày của các em. Dù
được hướng dẫn hay không hướng dẫn thì các em vẫn tìm mọi cách và tranh
thủ mọi thời gian, điều kiện để chơi. Khi được chơi các em tham gia hết sức


16

tự giác và chủ động, đây là một yếu tố quan trọng trong công tác GDTC cho
thế hệ trẻ.
Trong quá trình tham gia vào trò chơi các em biểu lộ tình cảm rất rõ
ràng, vui khi thắng lợi, buồn khi thất bại, bản thân thấy có lỗi khi không làm
tốt. Vì tập thể mà các em phải khắc phục khó khăn, phấn đấu hết khả năng để
mang lại thắng lợi cho đội, trong đó có bản thân mình, đây là đặc tính thi đua
rất cao của trò chơi vận động và là nhân tố quan trọng đề rèn luyện sức khéo
léo. Trong quá trình GDTC, phương pháp trò chơi được sử dụng tương đối
rộng rãi và mang lại hiệu quả cao đối với lứa tuổi học sinh. Ưu điểm của
phương pháp này là vừa chơi, vừa học, tạo cho học sinh trạng thái hưng phấn,
qua đó tác dụng đến thân thể, tăng cường sức khỏe. Trong điều kiện sân bãi
dụng cụ cho phép, có thể sử dụng tối ưu điều kiện tự nhiên sẵn có. Trò chơi
vận động có thể biến đổi hợp lí và đa dạng, phong phú. Khi tổ chức trò chơi
nên lựa chọn trò chơi sao cho phù hợp với buổi học. Hoạt động của người
chơi được tổ chức tương ứng với chủ đề được giả định, có tính chất hình ảnh.
Chủ đề tổ chức trò chơi có thể lấy từ hiện thực xung quanh, phản ánh nhu cầu
thực dụng của cuộc sống.
Do sự đa dạng, phong phú của các trò chơi nên việc phân loại trò chơi
có nhiều quan điểm khác nhau. Người ta chia toàn bộ trò chơi làm ba nhóm
chính: Trò chơi sáng tạo, trò chơi vận động và trò chơi thể thao. Ở đây do
điều kiện thời gian, chúng tôi chỉ đi sâu vào nhóm trò chơi vận động, dưới

đây là một số cách phân loại:
Phân loại căn cứ vào những động tác cơ bản trong quá trình chơi như:
Chạy, nhảy, leo trèo... và những trò chơi phối hợp hai hay nhiều động tác trên.
Mục đích của cách phân loại này để người học dễ dàng chọn lọc và sử dụng
kỹ năng vận động cơ bản của học sinh.


17

Phân loại căn cứ vào các tố chất thể lực trong quá trình chơi như trò
chơi rèn luyện sức nhanh, sức mạnh, sức bền, mềm dẻo, khéo léo. Tuy nhiên
cách phân loại này đôi khi không chính xác.
Phân loại căn cứ vào khối lượng vận động. Một số trò chơi có lượng
vận động không đáng kể được xếp vào loại trò chơi giải trí, trò chơi tĩnh. Một
số trò chơi vận động trung bình, xếp vào trò chơi động. Tuy nhiên cách phân
loại này nhiều khi cũng không chính xác do cách thức tổ chức và tài nghệ của
giáo viên.
Phân loại theo cách chia trò chơi ra làm hai nhóm chính và phụ, trò chơi
chia đội và không chia đội, và một nhóm phụ chuyển tiếp ở giữa. Trò chơi
không chia đội có thể phân ra làm hai loại: Có người điều khiển và không có
người điều khiển. Trò chơi chia đội được tiến hành trong điều kiện số người
trong đội phải ngang bằng nhau. Khi lựa chọn TCVĐ giáo viên phải căn cứ vào
lứa tuổi, giới tính, trình độ vận động và điều kiện sân bãi dụng cụ để chọn trò
chơi phù hợp. Sau khi lựa chọn được trò chơi giáo viên phải biên soạn thành
giáo án giảng dạy. Khi tổ chức chơi, giáo viên nói ngắn ngọn, rõ ràng, dễ hiểu
nhưng tất cả học sinh đều nghe được và nắm được cách chơi, luật chơi...
1.4.2. Ảnh hưởng của trò chơi vận động tới các tố chất thể lực nói chung và
tố chất khéo léo nói riêng
Trò chơi vận động hình thành các tố chất thể lực nói chung bao gồm sức
nhanh,sức mạnh, sức bền, bao gồm các trò chơi vận động như nhảy lò cò, chạy

tiếp sức bật nhảy tại chỗ...
Trò chơi vận động hình thành sự khéo léo nói riêng bao gồm các trò chơi
như chạy díc dắc, dẫn bóng luồn cọc ... các trò chơi này giúp phát triển sự khéo
léo cho các em học sinh học các môn thể dục được tốt hơn.
1.4.3. Một số hạn chế khi áp dụng trò chơi vận động
Khó kiểm soát lượng vận động khi tiến hành trò chơi vận động.


18

Một số em tham gia vượt quá khả năng chịu đựng để xảy ra những tai
nạn đáng tiếc.
Đôi khi học sinh tham gia một cách hời hợt, thiếu tích cực, không phát
huy được hiệu quả của TCVĐ.
Giáo viên khó kiểm soát được hết toàn bộ lớp nên chưa phát huy hết
được những ưu điểm của TCVĐ.
Nhưng theo chúng tôi nhược điểm quan trọng nhất là sự khó kiểm soát
lượng vận động trong khi tiến hành trò chơi vận động.
Vì vậy lực chọn và áp dụng hiệu quả một số TCVĐ cho các em học
sinh khối 10 là hết sức cần thiết.


19

CHƢƠNG 2
NHIỆM VỤ, PHƢƠNG PHÁP, TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU
2.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Căn cứ vào mục đích nghiên cứu của đề tài, chúng tôi đưa ra hai nhiệm
vụ sau:
Nhiệm vụ 1: Tìm hiểu một số vấn đề cơ bản có liên quan tới việc phát

triển sự khéo léo cho học sinh nữ khối 10 trường Cao Bá Quát - Gia Lâm Hà Nội
Nhiệm vụ 2: Ứng dụng một số trò chơi vận động nhằm phát triển sự
khéo léo cho học sinh nữ khối 10 trường THPT Cao Bá Quát - Gia Lâm - Hà
Nội
2.2. Các phƣơng pháp nghiên cứu chính.
Để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra, chúng tôi sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
2.2.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu
Phương pháp nghiên cứu lí luận còn gọi là phương pháp đọc, phân tích
tài liệu tham khảo, hay phương pháp đọc sách.
Phương pháp nghiên cứu lí luận là phương pháp thu thập thông tin
bằng cách đọc và phân tích tài liệu tham khảo. Trong quá trình nghiên cứu đề
tài, chúng tôi đi tìm hiểu, tập hợp các tài liệu như các Văn kiện, Nghị quyết,
Chỉ thị,...của Đảng và Nhà nước, các tác phẩm kinh điển, các sách viết
chuyên khảo, tuyển tập và các tư liệu giảng dạy của TDTT và GDTC, các hồ


20

sơ giảng dạy, huấn luyện, các tài liệu lưu trữ, các phim ảnh,... tìm hiểu nghiên
cứu các sách viết về trò chơi vận động, về sự khéo léo, các sách giải phẫu sinh
lí,... Từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau: sách báo, đài, internet,... Chúng tôi thu
thập những tài liệu gần với vấn đề nghiên cứu. Phương pháp này được sử
dụng trong suốt thời gian nghiên cứu đề tài.
2.2.2. Phương pháp phỏng vấn
Là phương pháp thu thập thông tin qua hỏi - trả lời giữa nhà nghiên cứu
với các cá nhân, tổ chức khác nhau về các vấn đề cần quan tâm.
Đã sử dụng phương pháp phỏng vấn trực tiếp, phỏng vấn gián tiếp và
trao đổi tọa đàm:
- Phỏng vấn trực tiếp là phương pháp thu thập thông tin qua hỏi - trả

lời miệng giữa nhà nghiên cứu và người được hỏi.
- Phỏng vấn gián tiếp là phương pháp thu thập thông tin bằng phiếu
hỏi, phiếu điều tra... theo một hệ thống câu hỏi được chuẩn bị sẵn sàng.
- Trao đổi, tọa đàm là phương pháp thu thập thông tin nhiều chiều giữa
nhà nghiên cứu với một số cá nhân về vấn đề quan tâm.
2.2.3. Phương pháp quan sát sư phạm
Phương pháp quan sát sư phạm là phương pháp nhận thức đối tượng
nghiên cứu trong quá trình giáo dục, giáo dưỡng mà không ảnh hưởng tới quá
trình đó.
Trong thời gian thực hiện đề tài này việc quan sát sư phạm được sử
dụng trong quá trình dự giờ, quan sát quá trình học thể dục và các hoạt động
khác mà các em tham gia.
Qua phương pháp này có thể đánh giá và phân tích được quá trình
giảng dạy, học tập của giáo viên và học sinh, giúp có cái nhìn khách quan và
có thể đưa ra những trò chơi vận động nhằm nâng cao sự khéo léo cho học
sinh nữ khối 10 trường THPT Cao Bá Quát - Gia Lâm - Hà Nội.


×