Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Lựa chọn bài tập phát triển sức mạnh tốc độ nâng cao thành tích chạy 100m cho nam đội tuyển điền kinh trường THPT xuân hoà phúc yên vĩnh phúc (2014)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (905.17 KB, 58 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT

ĐÀO NHƢ QUỲNH

LỰA CHỌN BÀI TẬP PHÁT TRIỂN
SỨC MẠNH TỐC ĐỘ NÂNG CAO
THÀNH TÍCH CHẠY 100M CHO NAM
ĐỘI TUYỂN ĐIỀN KINH TRƯỜNG THPT
XUÂN HÒA - PHÚC YÊN - VĨNH PHÚC
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

HÀ NỘI – 2014


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT

ĐÀO NHƢ QUỲNH

LỰA CHỌN BÀI TẬP PHÁT TRIỂN
SỨC MẠNH TỐC ĐỘ NÂNG CAO
THÀNH TÍCH CHẠY 100M CHO NAM
ĐỘI TUYỂN ĐIỀN KINH TRƯỜNG THPT
XUÂN HÒA - PHÚC YÊN - VĨNH PHÚC
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: CNKHSP TDTT - GDQP
Hƣớng dẫn khoa học

TH.S Vũ Tuấn Anh


HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tên tôi là: ĐÀO NHƯ QUỲNH
Sinh viên: K36 - Khoa Giáo dục thể chất.
Tôi xin cam đoan đề tài: “Lựa chọn bài tập phát triển sức mạnh tốc
độ nâng cao thành tích chạy 100m cho nam đội tuyển Điền Kinh trường
THPT Xuân Hòa – Phúc Yên - Vĩnh Phúc” là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Đề tài không trùng kết quả nghiên cứu của các tác giả khác.Các kết
quả nghiên cứu này mang tính thời sự cấp thiết, đúng thực tế khách quan của
trường THPT Xuân Hòa –Phúc Yên – Vĩnh Phúc.
Hà Nội, ngày 12 tháng 5 năm 2014
Sinh viên

Đào Nhƣ Quỳnh


DANH MỤC VIẾT TẮT

1. TDTT

: Thể dục thể thao

2. VĐV

: Vận động viên

3. HLV


: Huấn luyện viên

4. THPT

: Trung học phổ thông

5. XPT

: Xuất phát thấp

6. XPC

: Xuất phát cao

7. BXTC

: Bật xa tại chỗ

8. TTN

: Trước thực nghiệm

9. STN

: Sau thực nghiệm

10. CNH - HĐH

: Công nghiệp hóa - hiện đại hóa


11. NXB

: Nhà xuất bản

12. TT

: Thứ tự

13. SMTĐ

: Sức mạnh tốc độ

14. s

: Giây

15. m

: Mét

16.GDTC

: Giaó dục thể chất


DANH MỤC BIỂU BẢNG
STT
Bảng 3.1

Nội dung


Trang

Thực trạng đội ngũ giáo viên thể dục trườngTHPT
Xuân Hòa-Phúc Yên-Vĩnh Phúc

25

Bảng 3.2

Thực trạng cơ sở vật chất phục vụ cho giảng dạy và
học tập môn GDTC

26

Bảng 3.3

Các bài tập phát triển SMTĐ được sử dụng trong huấn
luyện đội tuyển nam Điền Kinh trường THPT Xuân
Hòa – Phúc yên – Vĩnh Phúc.

27

Bảng 3.4

Kết quả phỏng vấn lựa chọn các test đánh giá năng
lực SMTĐ trong chạy 100m Nam (n = 10).

28


Bảng 3.5

Kết quả kiểm tra năng lực SMTĐ của đội tuyển Điền
Kinh trường THPT Xuân Hòa – Phúc Yên – Vĩnh
Phúc (n = 12).

29

Bảng 3.6

Kết quả phỏng vấn lựa chọn các bài tập phát triển
SMTĐ trong cự ly chạy 100m Nam (n = 10).

31

Bảng 3.7

Nội dung bài tập phát triển SMTĐ.

33

Bảng 3.8

Kết quả kiểm tra 2 nhóm trước thực nghiệm
(nA = nB = 6).

Bảng 3.9

Tiến trình thực nghiệm.


Bảng 3.10

Kết quả kiểm tra 2 nhóm sau thực nghiệm
(nA = nB = 6).

34
36
37

Biểu đồ 3.1 Biểu đồ biểu diễn kết quả kiểm tra bật cao liên tục
trên hố cát 20s/ (lần)

39

Biểu đồ 3.2 Biểu đồ diễn tả kết quả kiểm tra test 30m XPC.

39

Biểu đồ 3.3 Biểu đồ biểu diễn kết quả kiểm tra test chạy 100m
XPT.

40


MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ

4


1.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về GDTC và TDTT trường học

4

1.2.Đặc điểm tâm- sinh lý lứa tuổi THPT.

6

1.3. Cơ sở huấn luyện môn Điền Kinh.

9

1.4. Cơ sở sinh lý của tố chất sức mạnh tốc độ.

11

CHƢƠNG 2: NHIỆM VỤ, PHƢƠNG PHÁP VÀ TỔ CHỨC
NGHIÊN CỨU

20

2.1. Nhiệm vụ nghiên cứu.

20

2.2. Phương pháp nghiên cứu.

20


2.3. Tổ chức nghiên cứu.

22

CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ PHÂN TÍCH KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 24
3.1. Đánh giá thực trạng công tác GDTC và năng lực sức mạnh tốc độ của
nam đội tuyển Điền Kinh Trương THPT Xuân Hòa.

24

3.2. Lựa chọn, ứng dụng và đánh giá hiệu quả một số bài tập phát triển
SMTĐ của nam đội tuyển Điền Kinh trường THPT Xuân Hòa.

30

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

41

1. Kết luận.

41

2. Kiến nghị .

42

TÀI LIỆU THAM KHẢO.

42



1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngày nay cùng với sự phát triển của đất nước, công tác TDTT có nhiều
bước tiến mới. Chúng ta phấn đấu thực hiện kế hoạch củng cố, xây dựng và phát
triển phong trào TDTT trong những năm đầu thế kỷ XXI, đưa nền thể thao nước
nhà hoà nhập và đua tranh với các nước trong khu vực và trên thế giới. Chính vì
vậy mà phong trào TDTT đã phát triển không ngừng, thu hút nhiều đối tượng
tham gia tập luyện.
Chỉ thị số 36- CT/ TW ngày 24 - 3 - 1994 của Ban Bí thư TW Đảng
Cộng sản Việt Nam về công tác thể dục thể thao trong giai đoạn mới khẳng định:
“Phát triển TDTT là bộ phận quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế - xã
hội của Đảng và Nhà nước nhằm bồi dưỡng phát huy nhân tố con người, công
tác TDTT góp phần tích cực nâng cao sức khỏe, thể lực, giáo dục nhân cách,
đạo đức lối sống lành mạnh, làm phong phú đời sống tinh thần của nhân dân,
nâng cao sức lao động và sức chiến đấu của lực lượng vũ trang”.[1]
Chính vì thế trong những năm gần đây, Bộ GD - ĐT đã không ngừng cải
tiến nội dung, đổi mới chương trình, phương pháp dạy TDTT trong các cấp
học. Điền kinh là một trong những nội dung cơ bản không thể thiếu của hầu
hết các chương trình giảng dạy của bậc đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên
nghiệp cũng như bậc THPT. Công tác giáo dục thể chất nói chung và việc tập
luyện các môn điền kinh nói riêng, không chỉ góp phần phát triển và hoàn
thiện thể lực, trang bị hệ thống kĩ năng cho người tập mà còn giáo dục các
phẩm chất đạo đức, ý chí và hình thành cuộc sống lành mạnh cho mọi người.
Đổi mới trong phương pháp giáo dục thể chất là một việc làm có ý
nghĩa thực tiễn phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Sử dụng các
phương pháp, các bài tập phù hợp sẽ giúp người học phát triển tối đa về mặt
thể chất. Có nhiều môn thể thao đã góp phần to lớn vào sự nghiệp pháp triển
và tiến bộ của nước nhà, môn đầu tiên kể đến đó là “Điền kinh”.



2
Điền kinh là một trong những hoạt động thể dục thể thao phổ biến rộng
rãi trong toàn xã hội. Xuất hiện mọi lúc, mọi nơi với nhiều nội dung và hình
thức tập luyện đa dạng phong phú. Được vận dụng tập luyện nhằm phát triển
nâng cao thể lực cho con người.
Ngoài ra, môn điền kinh là một phương tiện giáo dục thể chất có tác
dụng phát triển các tố chất thể lực “Nhanh - mạnh - bền - khéo léo” cho
người học.
Trong đó, chạy ngắn là một nội dung được lựa chọn sử dụng rộng rãi
trong chương trình giáo dục thể chất, ở các trường học từ phổ thông đến cao
đẳng - đại học nhằm rèn luyện nâng cao sức khỏe và thể lực, phẩm chất đạo
đức, ý chí, nghị lực, niềm tin cho thế hệ trẻ. Thực tế ở các trường THPT trên
toàn quốc nói chung và trường THPT Xuân Hòa-Phúc Yên-Vĩnh Phúc nói
riêng, qua khảo sát chúng tôi thấy: Hiệu quả giảng dạy môn Điền Kinh, nội
dung chạy ngắn kết quả chưa cao, thành tích của các em trong tập luyện và thi
đấu còn khá khiêm tốn. Qua tìm hiểu thực tế, chúng tôi thấy các giáo viên
trong quá trình giảng dạy nội dung chạy ngắn chưa thật sự chú ý đến việc phát
triển yếu tố thể lực, đặc biệt là thể lực chuyên môn: “Sức mạnh tốc độ”.
Vì vậy, việc áp dụng các bài tập phát triển các tố chất thể lực nói chung,
bài tập phát triển sức mạnh tốc độ nói riêng vào tập luyện một cách linh hoạt
sáng tạo phù hợp và khoa học là một việc làm có ý nghĩa to lớn. Đặc biệt việc
tăng cường củng cố, bổ sung các bài tập phát triển các tố chất thể lực của các
em là một điều rất cần thiết. Chính vì vậy, lựa chọn các bài tập để phát triển
sức mạnh tốc độ nhằm nâng cao thành tích trong chạy 100m cho học sinh là
một điều thiết thực nhất hiện nay. Trong quá trình nghiên cứu tài liệu chúng
tôi thấy môn chạy 100m trong học sinh THPT, đã có một số tác giả nghiên
cứu nh-: Lưu Ngọc Vinh; Đặng Thị Thoa; Lê Kim Toản, Phạm Thị Ngọc Hà,
Lại Thị Thúy Lan sinh viên Khoa GDTC Trường ĐHSP Hà Nội 2. Tuy



3
nhiên, chưa có tác giả nào nghiên cứu sức mạnh tốc độ nhằm nâng cao thành
tích chạy 100m cho nam đội tuyển Điền Kinh trường THPT Xuân Hòa –
Phúc Yên – Vĩnh Phúc.
Xuất phát từ những lý do trên, qua nghiên cứu phân tích tài liệu chúng
tôi đề xuất và nghiên cứu đề tài: “Lựa chọn bài tập phát triển sức mạnh tốc
độ nhằm nâng cao thành tích chạy 100m cho nam đội tuyển Điền Kinh
trường THPT Xuân Hòa - Phúc Yên - Vĩnh Phúc”.
Mục tiêu của đề tài
Trên cơ sở tổng hợp, phân tích cơ sở lý luận và thực trạng sức mạnh tốc
độ của nam vận động viên chạy 100m, đề tài tiến hành nghiên cứu lựa chọn
một số bài tập phát triển sức mạnh tốc độ nhằm nâng cao thành tích trong
chạy 100m cho nam đội tuyển Điền Kinh trường THPT Xuân Hòa - Phúc Yên
-Vĩnh Phúc.


4
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc về GDTC và TDTD Trƣờng học.
Sinh thời, Bác Hồ rất quan tâm đến sự nghiệp phát triển TDTT vì sức
khỏe nhân dân, Bác kêu gọi toàn dân thường xuyên rèn luyện thân thể giữ gìn
sức khỏe và nâng cao thể lực. Bác Hồ tin yêu thế hệ trẻ, quan tâm và chăm
sóc đến sự phát triển thể chất của thế hệ trẻ, ngày về thăm Trường Trung cấp
TDTT Trung ương (nay là Trường Đại học TDTT Bắc Ninh ), Bác đã căn
dặn: "... Các cháu học TDTT không phải để đạt ông kiện tướng này, bà kiện
tướng nọ. Cái chính là người cán bộ phục vụ đắc lực cho nhân dân, đem hiểu
biết của mình ra hướng dẫn mọi người cùng tập luyện để nâng cao sức khỏe

đẩy lùi bệnh tật..." [8].
Định hướng về công tác giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ trong
những năm tới, Nghị quyết Trung ương II khóa VIII đã khẳng định: "Giáo dục
đào tạo cùng với khoa học và công nghệ phải thực sự trở thành quốc sách hàng
đầu trong thế kỷ XXI. Chuẩn bị tốt hành trang cho thế hệ trẻ đi vào thế kỷ XXI.
Muốn xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh phải có con người phát triển
toàn diện, không chỉ phát triển về trí tuệ, trong sáng về đạo đức lối sống mà
phải là con người cường tráng về thể chất. Chăm lo cho con người về thể chất
là trách nhiệm của toàn xã hội của tất cả các ngành các đoàn thể, trong đó có
giáo dục - đào tạo, y tế TDTT.
Trước tình hình mới, định hướng của Đảng về phát triển sự nghiệp
TDTT: "Phát triển TDTT là bộ phận quan trọng trong chính sách phát triển
kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước nhằm bồi dưỡng và phát huy nhân tố
con người công tác TDTT phải góp phần nâng cao sức khỏe, thể lực, giáo dục
nhân cách, đạo đức, lối sống lành mạnh làm phong phú đời sống văn hóa tinh


5
thần của nhân dân, nâng cao năng suất lao động xã hội và sức chiến đấu của
các lực lượng vũ trang".
Trong các văn bản Nghị quyết của Đảng đã khẳng định: Phải xây dựng
nền TDTT có tính dân tộc, khoa học và nhân dân, phát triển rộng rãi phong
trào TDTT quần chúng, thể thao thành tích cao và tăng cường công tác GDTC
trong nhà trường các cấp với khẩu hiệu: "Khỏe để xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc” Cũng như khẳng định phát triển TDTT là trách nhiệm của các cấp ủy
Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân và tổ chức xã hội.
Chỉ thị 36 CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã nêu: "Mục tiêu
cơ bản lâu dài của công tác TDTT là hình thành nền TDTT phát triển và tiến
bộ, góp phần nâng cao sức khỏe thể lực, đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần của
nhân dân thực hiện nền giáo dục thể chất trong tất cả các trường học, làm cho

việc tập luyện TDTT trở thành nếp sống hằng ngày của hầu hết học sinh - sinh
viên" [1].
Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 có
ghi: "Quy định chế độ GDTC bắt buộc trong trường học". Điều đó đã khẳng
định sự quan tâm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta đối với TDTT và GDTC
trong nhà trường, coi đó là nhiệm vụ cấp thiết của Đảng toàn dân, để tạo điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển TDTT nước nhà. Chỉ thị 133 của Thủ tướng
chính phủ đã chỉ rõ “Bộ Giáo dục và Đào tạo cần đặc biệt coi trọng việc giáo
dục thể chất trong nhà trường. Cải tiến nội dung giảng dạy TDTT nội khóa,
ngoại khóa, quy định tiêu chuẩn rèn luyện thân thể cho học sinh ở các cấp
học, quy chế bắt buộc ở các trường, nhất là các trường đại học phải có sân bãi,
phòng tập TDTT, có định biên hợp lý và có kế hoạch đào tạo đội ngũ giáo
viên TDTT đáp ứng nhu cầu ở tất cả cấp học" [6].
Luật giáo dục đã khẳng định: "Giáo dục là con đường chủ yếu và cơ bản
để chuẩn bị cho con người cho sự phát triển bền vững của đất nước trong điều


6
kiện kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là con người có sức
khỏe và được phát triển toàn diện, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát
triển kinh tế - xã hội, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc" [7].
Để đưa công tác GDTC trong nhà trường trở thành một khâu quan
trọng mà sự nghiệp giáo dục - đào tạo, cũng như xác định đúng về vị trí
GDTC trong nhà trường các cấp phải được triển khai thực hiện đồng bộ với
các mặt giáo dục tri thức và nhân cách từ tuổi thơ cho đến Đại học. Bộ trưởng
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có văn bản quyết định ban hành quy chế về công
tác GDTC trong nhà trường các cấp. Trong đó đã khẳng định: "Giáo dục thể
chất được thực hiện trong nhà trường từ mầm non đến đại học, góp phần đào
tạo những công dân phát triển toàn diện. GDTC là một bộ phận hữu cơ của

mục tiêu giáo dục và đào tạo, nhằm giúp con người phát triển cao về trí tuệ,
cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức".
1.2. Đặc điểm tâm - sinh lý lứa tuổi THPT
1.2.1. Đặc điểm tâm lý
Ở lứa tuổi này tâm lý của các em ở thích chứng tỏ mình là người lớn và
muốn để mọi người tôn trọng mình ở lứa tuổi này đã có một trình độ hiểu biết
nhất định, có khả năng phân tích, tổng hợp, các em muốn khám phá, nhưng
các em vẫn còn rất nhiều nhược diểm va kinh nghiệm sống còn thiếu.
Ở độ tuổi này của các em chủ yếu là hình thành ý thức hình thành về tính
cách và là tuổi nhu cầu sáng tạo cao có sự nảy nở những tình cảm trang lứa.
Ở độ này nói chung các em đều có thái độ tự giác tích cực trong học
tập, xuất phát từ những động cơ đúng đắn. Do đó trong lứa tuổi nay quá trình
hưng phấn cao hơn quá trình ức chế nên các em tiếp thu nhanh nhưng cũng rất
nhanh chóng chán, lản. Khi đạt được một số kết quả sẽ dẫn đến tự mãn, điều
đó có tác động không tốt đến tập luyện cũng như thi đấu thể thao. Vì vậy khi


7
tiến hành tập luyện, huấn luyện cho các em ở lứa tuổi này cần phải uốn nắn
nhắc nhở chỉ bảo tận tình và động viên các em một cách kịp thới để các em
hoàn thành tốt nhiệm vụ, có hình thức khen thưởng động viên đúng lúc kịp
thời. Trong quá trình huấn luyện dần dần từng bước động viên các em tiếp thu
chậm. Từ đó làm cho các em không cảm thấy chán có định hướng phấn đấu
và hiệu quả bài tập được nâng cao [15].
1.2.2. Đặc điểm sinh lý của lứa tuổi học sinh THPT
Về mặt sinh lý lứa tuổi học sinh trung THPT là lứa tuổi đầu thanh niên là
thời kì đạt được trưởng thành về mặt thể lực nhưng cơ thể còn kém so với sự
phát triển của người lớn. Có nghĩa là ở lứa tuổi này cơ thể các em đang phát
triển mạnh, khả năng hoạt động của các cơ quan và các bộ phận được nâng
cao cụ thể là:

 Hệ vận động:
- Hệ xương: Ở lứa tuổi này cơ thể các em phát triển một cách mạnh mẽ
về chiều dài, bề dày, hàm lượng các chất hữu cơ giảm do hàm lượng Mg, P,
Ca trong xương tăng quá trình cốt hóa xương ở các bộ phận chưa hoàn tất chỉ
xuất hiện cốt hóa ở bộ phận như mặt. Các tổ chức sụn được thay thế bằng mô
xương nên cùng với sự phát triển chiều dài của xương cột sống. Không giảm
mà trái lại tăng lên có xu hướng cong vẹo. Vì vậy, mà trong quá trình giảng
dạy cần tránh cho học sinh tập luyện với dụng cụ có trọng lượng quá nặng và
các hoạt động chấn thương quá mạnh.
- Hệ cơ: Ở lứa tuổi các em có sự phát triển với tốc độ mạnh để đi đến
hoàn thiện, nhưng phát triển không đều và chậm hơn so với hệ xương. Cơ to
phát triển hơn cơ nhỏ, cơ co phát triển hơn cơ duỗi, khối lượng tăng lên rất
nhanh, đàn hồi cơ không đều chủ yếu là nhỏ và dài. Do vậy, khi hoạt động cơ
chóng mệt mỏi cho nên khi tập luyện giáo viên giảng dạy, cần chú ý phát triển
cơ bắp cho học sinh.


8
 Hệ thần kinh:
Ở lứa tuổi này hệ thần kinh tiếp tục được phát triển để đi đến hoàn
thiện, hoạt động phân tích trên võ não có định hướng sâu sắc hơn. Kích thước
của não và hành tủy đạt tới mức của người trưởng thành. Khả năng tư duy,
phân tích tổng hợp của não tăng lên, tư duy trừu tượng được phát triển tạo
điều kiện cho việc hình thành nhanh chóng phản xạ có điều kiện. Khả năng
nhận hiểu cấu trúc động tác và tái hiện chính xác các hoạt động được nâng
cao. Ngay từ buổi thiếu niên đã diễn ra quá trình hoàn tiện cơ quan phân tích
và những chức năng vận động quan trọng, nhất là cảm giác bản thể trong điều
kiện thực hiện động tác. Ở lứa tuổi này học sinh không chỉ học các động tác
vận động đơn lẻ như trước mà chủ yếu hoàn thiện ghép những phần đã học
trước thành các liên hợp động tác tương đối hoàn chỉnh ở điều kiện khác

nhau, phù hợp với các đặc điểm của từng học sinh.
Mặt khác do các hoạt động của tuyến giáp, tuyến sinh dục, tuyến yên làm
cho hưng phấn của hệ thần kinh chiếm ưu thế giữa hưng phấn và ức chế
không cân bằng ảnh hưởng đến hoạt động thể lực. Đặc biệt là đối tượng học
sinh THPT tính nhịp điệu giảm nhanh, khả năng vận động yếu. Vì vậy, khi
giảng dạy cần thay đổi nhiều hình thức tập luyện, vận dụng các hình thức trò
chơi để hoàn thành tốt các bài tập được giao.
 Hệ tuần hoàn:
Ở lứa tuổi này hệ tuần hoàn đang trên đà phát triển và hoàn thiện. Tim
lớn hơn có khả năng co bóp cơ tim phát triển tốt hơn do đó nâng cao khả năng
lưu lượng máu trên phút. Buồng tim đã phát triển tương đối hoàn chỉnh mạch
đập của nam 70 lần/phút, nữ 70 - 85 lần/phút. Nhưng khi vận động thì tần số
hoạt động nhanh hơn, phản ứng của hệ tuần hoàn tương đối rõ rệt vận động
mạch và huyết áp tăng nhanh hơn. Nhưng sau vận động mạch và huyết áp
tăng nhanh chóng thì tim hoạt động trở nên dẻo dai hơn. Từ những đặc điểm


9
trên ta thấy ở lứa tuổi này có thể tập sức nhanh tốc độ nhưng phải thường
xuyên kiểm tra sức khỏe cho học sinh.
 Hệ hô hấp:
Ở lứa tuổi này phổi của các em phát triển nhưng chưa đều, khung ngực
còn hẹp lên các em thở nhanh, vòng ngực của nam: 67 – 77cm, nữ: 64 –
74cm. Lúc 15 tuổi dung lượng phổi là 2 – 2,5 lít. Khi 16 – 18 tuổi là 3 – 4 lít.
Tần số hô hấp gần với người lớn, tuy nhiên các cơ hô hấp của các em tăng
nhanh khi hoạt động và gây nên hiện tượng thiếu ôxi dẫn đến mệt mỏi [18].
1.3. Cơ sở huấn luyện môn Điền Kinh
Trong các sách chuyên môn viết về kỹ thuật chạy 100m, các tác giả đều
thống nhất rằng người chạy phải dung hết sức để mau chóng đạt được tốc độ
tối đa của mình để sớm chuyển sang giai đoạn chạy giữa quãng với tốc độ cao

đã và cố gắng duy trì tốc độ đó cho tới khi về đích.
Điều đó cũng gặp nhiều trong các sách của các tác giả nước ngoài,
trong cuốn “Chạy cự ly ngắn” của V.Philin (Liên Xô cũ) bằng tiếng Việt, do
NXB thể thao - Hà Nội phát hành năm 1977 đã cho biết kết quả kiểm tra các
VĐV chạy 100m xuất sắc của Liên Xô ở năm 1960 và 1961: Đạt độ dài bước
hợp lý (ổn định để chuyển sang chạy với kỹ thuật chạy giữa quãng) từ bước
thứ 13 đến bước thứ 15. Kết thúc giai đoạn chạy lao ở mét thứ 21 đến
23.66m, tức là sau khi mới chạy từ 3.7s - 3.9s [16].
Trong tài liệu lý thuyết huấn luyện dùng trong đào tạo huấn luyện viên
của Liên đoàn Điền Kinh thế giới “Introductio to Coaching Theory”, được
xuất bản năm 1991, người ta cũng đưa ra 1 sơ đồ diễn biến tốc độ theo thời
gian của VĐV chạy ngắn, trong đó VĐV đạt tốc độ tối đa của mình sau 4s (kể
từ khi xuất phát). Như vậy vẫn theo lý thuyết cũ “Phải bắt tốc độ cao sớm”.


10
Trong sách huấn luyện Điền Kinh cao cấp của Trung Quốc xuất bản
năm 2001, kết quả nghiên cứu từ thực tiễn đã nêu lên ba xu hướng phát triển
kỹ thuật chạy ngắn hiện đại đó là:
a. Ngày càng coi trọng động tác, kết cấu điển hình của kỹ thuật chạy ngắn
Kết cấu điển hình đó chủ yếu được biểu hiện ở chỗ kỹ thuật chạy ngày
càng phù hợp với nguyên lý của giải phẫu thì làm cho kỹ thuật chạy ngắn
ngày càng được hoàn thiện và đạt tính hiệu quả cao hơn. Đó là động tác
nhanh, bước chạy dài, toàn thân tự nhiên, giao động của trọng tâm cơ thể nhỏ,
các cử động kết hợp hài hoà, phối hợp nhịp nhàng.
b. Ngày càng coi trọng kỹ thuật lắc người, đánh tay
Chạy ngắn ngày càng coi trọng kỹ thuật lắc người, kết hợp với các
động tác nâng gót, nâng đùi. Kết quả nghiên cứu mới nhất cho thấy, thời gian
nâng đùi của một VĐV ưu tú chỉ chiếm 22,1% thời gian của một bước chạy,
còn thời gian lắc người và các động tác khác chiếm tới 77,9% tỷ lệ của nó là 1

: 3,5. Vì vậy kỹ thuật chạy ngắn hiện đại rất chú trọng kỹ thuật lắc người. Khi
huấn luyện phải nghiên cứu kỹ càng những động tác này để đưa cơ thể người
theo trục dọc, giúp tăng độ dài bước. Rút ngắn thời gian nâng đùi và thời gian
bay trên không.
c. Kéo dài thời gian và khoảng cách duy trì sự tăng tốc
Nghiên cứu kỹ thuật của các VĐV chạy ngắn thấy: Thời gian và
khoảng cách duy trì sự tăng tốc của các VĐV chuyên nghiệp đều được gia
tăng. Ở cự ly 100m khoảng cách tăng tốc của các VĐV lên đến 80m, thời gian
duy trì của nó lên đến khoảng từ 8,12s đến 8,32s.Vì vậy để nâng cao hiệu quả
huấn luyện và giảng dạy chạy cự ly ngắn cần chú ý:
- Nguồn năng lượng cung cấp cho cơ hoạt động, khi chạy các cự ly từ
50 - 100m chủ yếu là sử dụng nguồn năng lượng alaktat (còn từ 150m - 300m
nguồn laktat). Khi VĐV tập chạy lắp lại dù ở cự ly nào, thì nguồn năng lượng


11
được huy động không chỉ phụ thuộc vào độ dài của cự ly mà còn phụ thuộc
vào cả số lần lặp lại và thời gian nghỉ giữa quãng giữa các lần chạy đó.
- VĐV chạy 100m cũng như các VĐV chạy cự ly ngắn khác cần được
huấn luyện để chạy nửa sau của cự ly nhanh hơn so với nửa đầu [17].
1.4. Cơ sở sinh lý của tố chất sức mạnh tốc độ
1.4.1. Khái niệm và các quan điểm về SMTĐ
Nghiên cứu về sức mạnh tốc độ có rất nhiều quan điểm cho rằng: Sức
mạnh là khả năng của con người sinh ra lực cơ học bằng sự nỗ lực của cơ bắp.
- Theo quan điểm của các nhà tâm lý thì: Sức mạnh tốc độ là khả năng
VĐV vượt qua lực cản bên ngoài với tốc độ co cơ lớn ví dụ như các môn
ném đẩy - nhảy cao, chạy ngắn.
Năng lực sức mạnh tốc độ là khả năng khắc phục các lực cản với tốc độ
co cơ cao của VĐV, việc vận dụng hệ thống bài tập nhằm phát triển sức mạnh
tốc độ cho những môn thể thao liên quan trước hết là sức mạnh tương đối cần

phải tiến hành sao cho sức mạnh tốc độ được nâng cao mà không có sự phì
đại cơ quá mức. Trong đó sự căng thẳng cơ cần thiết để tăng sức mạnh được
tạo nên bằng sự co cơ nhanh “bột phát”.
- Theo quan điểm của các nhà sinh lý học: Cơ chế sinh lý điều hoà sức
mạnh có cơ sở khoa học. Lực tối đa mà con người ta sản sinh ra một mặt phụ
thuộc vào đặc tính sinh cơ của động tác, khả năng thu hút các nhóm cơ lớn
tham gia hoạt động, mặt khác phụ thuộc vào mức độ của từng nhóm riêng biệt
và sự phối hợp giữa chúng. Mức độ hoạt động của cơ được quy định bởi hai
nhân tố xung quanh từ các nơron thần kinh vận động trong từng tuỷ sống đến
cơ. Phản ứng của cơ tức là do nó sinh ra để đáp ứng xung động thần kinh, nếu
lực cơ phát huy chỉ khoảng 20 - 80% khả năng tối đa của nó thì cơ thể điều
hoà số lượng sợi cơ có ý thức cơ bản, điều hoà đó có ý nghĩa nội lực, kích thích
nhỏ thì chỉ có ít sợi cơ hoạt động tích cực, trong trường hợp lực co cơ phát huy


12
giá trị tối đa có thể xảy ra một cách điều hoà thứ ba đồng bộ hoạt động bình
thường không quá 20% xung động là đồng bộ với nhau. Với sự phát triển trình
độ tập luyện khả năng điều hoà đồng bộ tăng lên rất nhiều.
- Theo quan điểm của PGS.TS Nguyễn Toán cho rằng: Sức mạnh tốc
độ là khả năng sinh lực và khắc phục một trọng lượng nào đó với tốc độ
nhanh nhất hay sức mạnh tốc độ là khả năng sinh lực trong động tác nhanh và
với thời gian ngắn [11].
Như vậy để rèn luyện sức mạnh người ta sử dụng một số bài tập sức
mạnh là các động tác với lực đối kháng, căn cứ vào tính chất lực đối kháng
của một số bài tập sức mạnh được chia thành các bài tập với lực đối kháng
bên ngoài.
* Các bài tập với dụng cụ nặng
* Các bài tập với lực đàn hồi
* Các bài tập khắc phục trọng lượng cơ thể

Chạy 100m là một hoạt động diễn ra trong thời gian tương đối ngắn
với công suất cực đại. Do đó chạy 100m tốt phụ thuộc vào nhiều yếu tố,
song lý luận và phương pháp chỉ tập trung vào những yếu tố điều khiển
bằng biện pháp sư phạm. Trong đó điều kiện phát triển và hoàn thiện yếu tố
thiết diện cơ, yếu tố điều hoà trong cơ và điều hoà giữa các nhóm cơ có ý
nghĩa chủ đạo.
Như vậy, qua tất cả những điều đã nêu ở trên việc phát triển sức mạnh
tốc độ là hết sức quan trọng và cần thiết trong quá trình huấn luyện cho các
VĐV và nhất là với VĐV chạy 100m thì một số bài tập phát triển sức mạnh
tốc độ có ý nghĩa rất lớn và liên quan trực tiếp đến thành tích.Để tìm hiểu sâu
hơn về bài tập sức mạnh tốc độ chúng tôi đi nghiên cứu cơ chế sinh lý của sức
mạnh tốc độ.


13
Như ta đã biết lực tối đa mà con người có thể sinh ra một mặt phụ thuộc
vào đặc tính sinh cơ của động tác, khả năng thu hút các nhóm cơ lớn nhất hoạt
động. Mặt khác nó còn phụ thuộc vào mức độ hoạt động của từng nhóm cơ
riêng biệt và sự phức tạp giữa chúng, mức độ hoạt động của các cơ được quy
định bởi 2 nhân tố sau:
- Xung động từ nơron thần kinh vận động trong sừng trước tuỷ sống
đến cơ.
- Phản ứng của cơ tức là lực do nó sinh ra để đáp lại xung động thần
kinh.
Phản ứng của cơ phụ thuộc vào thiết diện sinh lý đặc điểm cấu trúc của
nó ảnh hưởng dinh dưỡng của hệ thần kinh trung ương thông qua dự phòng
Adrgnalin giao cảm.
Nếu lực do cơ huy động chỉ vào khoảng 20 – 80% khả năng tối đa của
nó thì có thể điều hoà số lượng sợi cơ ý nghĩa cơ bản điều đó có ý nghĩa nếu
lực kích thích nhỏ (trọng lượng nhỏ thì có ít sợi cơ hoạt động tích cực trong

trường hợp đó phát huy đạt trị số tối đa có thể xảy ra các điều hoà thứ ba đồng
bộ hoạt động các sợi cơ), ở những người không tập luyện thường không vượt
quá 20% xung động đồng bộ với nhau. Cùng với sự phát triển cả trình độ tập
luyện khả năng điều hoà toàn bộ tăng lên rất nhiều.
Để phát huy sức mạnh, một số vấn đề quan trọng là phải lựa chọn lực
đối kháng bên ngoài là mặt kích thích sinh lý có cường độ nhất định, qua
nghiên cứu về các đặc điểm sinh lý của bài tập với lực đối kháng khác nhau
cho thấy: Muốn phát triển được sức mạnh thì trước hết phải tạo ra được sự
căng cơ tối đa nếu không tạo ra được sự căng cơ tương đối thì sức mạnh
không phát triển được, tập luyện với mức độ căng cơ quá nhỏ sẽ giảm sút sức
mạnh. Trên thực tế ta thấy có ba cách tạo ra sự căng cơ tối đa đó là:


14
* Lặp lại cực hạn đối kháng chưa đến mức tối đa
* Sử dụng lực đối kháng tối đa
* Sử dụng trọng lực chưa tối đa độ cực hạn
Để tìm hiểu sâu hơn về cơ sở khoa học của bài tập sức mạnh tốc độ ta
nghiên cứu cơ sở lý luận của bài tập sức mạnh tốc độ.
Sức mạnh tốc độ là khả năng con người thể hiện sự nỗ lực lớn nhất
trong khoảng thời gian ngắn nhất. Ngoài ra để hiểu rõ mối quan hệ giữa sức
mạnh và tốc độ ta cần hiểu rõ tố chất này. Sức mạnh là khả năng con người
sinh lực cơ học bằng sự nỗ lực của cơ bắp. Nói cách khác sức mạnh của con
người là khả năng khắc phục lực đối kháng bên ngoài hoặc để kháng lại bằng
sự nỗ lực của cơ bắp, sức mạnh mà cơ phát ra phụ thuộc vào số lượng đơn vị
vận động tham gia vào sự căng cơ, chế độ của đơn vị vận động của sợi cơ đó
là chiều dài của sợi cơ trước đó.
Tốc độ là khả năng thực hiện động tác trong khoảng thời gian ngắn
nhất yếu tố quyết định đến tốc độ là độ linh hoạt của quá trình thần kinh và
tốc độ co cơ. Độ linh hoạt của quá trình thần kinh thể hiện khả năng biến đổi

nhanh chóng giữa hưng phấn và ức chế trong các trung tâm thần kinh.
Tốc độ co cơ phụ thuộc vào tỷ lệ sợi cơ nhanh và sợi cơ chậm trong bó
cơ. Trong hoạt động TDTT sức mạnh và tốc độ có liên quan mật thiết với
nhau. Mức độ phát triển sức mạnh ảnh hưởng rõ rệt đến tốc độ trong nhiều
môn thể thao. Kết quả hoạt động còn phụ thuộc vào sự phối hợp giữa hai tố
chất, các hoạt động như vậy gọi là sức mạnh tốc độ (các bài tập chạy ngắn,
ném đẩy, nhảy).
Bằng thực nghiệm và phân tích khoa học đi đến một số kết luận có ý
nghĩa cơ bản trong phân loại sức mạnh.
Trị số lực sinh ra trong các động tác chậm hầu như không khác biệt với
trị số lực phát huy trong điều kiện đẳng trường.


15
Trong chế độ nhượng bộ khả năng sinh lực của cơ là lớn nhất đôi khi
gấp hai lần lực phát huy trong điều kiện tĩnh.
Trong các động tác nhanh trị số lực giảm dần theo chiều tăng tốc độ
khả năng sinh lực trong các động tác nhanh tuyệt đối và khả năng sinh lực
trong các động tác tĩnh.
Trên cơ sở đó có thể phân chia năng lực phát huy của con người thành
các loại.
* Sức mạnh đơn thuần: Khả năng sinh lực trong các động tác chậm
hoặc tĩnh
* Sức mạnh tốc độ: Khả năng sinh lực trong các động tác nhanh trong
khi xây dựng hệ thống bài tập phát triển sức mạnh tốc độ.
1.4.2. Cơ sở lý luận của tố chất sức mạnh tốc độ
Nhìn chung năng lực sức mạnh tốc độ của con người mang tính chất
chuyên biệt khá rõ rệt. Việc chuyển hóa trực tiếp của sức mạnh tốc độ có thể
chuyển hóa ở giai đoạn đầu của người mới tập. Còn những người tập luyện
lâu năm hầu như việc chuyển hóa sức mạnh tốc độ không diễn ra [12].

Do vậy, việc phát triển sức mạnh tốc độ không đồng loạt mà mà rất cụ
thể đối với từng năng lực của từng người.
Sứcmạnh tốc độ là một tổ hợp thuộc tính chức năng của con người quy
định trực tiếp chủ yếu về tốc độ động tác cũng như thời gian phản ứng vận
động, đó là khả năng thực hiện động tác trong thời gian ngắn nhất.
Nó bao gồm 2 loại:
- Sức mạnh tốc độ đơn giản.
- Sứcmạnh tốc độ phức tạp.
* Những hình thức đơn gian thể hiện ở chỗ:
+ Thời gian tiềm tàng của phản ứng vận động.
+ Tốc độ động tác đơn (với đối kháng nhỏ).


16
+ Tần số động tác.
Các hình thức đơn giản của sức mạnh tốc độ tương đối độc lập nhau.
Đặc biệt là các chỉ số về thời gian phản ứng vận động hầu như không tương
quan với tốc động tác và biểu hiện ở các lực khác nhau.
Mặt khác: Sức mạnh tốc độ là khả năng thực hiện động tác trong thời
gian ngắn nhất. Yếu tố quyết định đến đó là tính linh hoạt của quá trình thần
kinh và tốc độ co cơ. Theo quan điểm sinh lý sức mạnh tốc độ là thời gian
phản ứng vận động gồm 4 phần:
- Xuất hiện hưng phấn trong cơ quan cảm thụ.
- Dẫn truyền vào hệ thần kinh trung ương.
- Truyền tín hiệu từ hệ thần kinh trung ương đến cơ.
- Hưng phấn cơ vào hoạt động tính cực.
Trong đó giai đoạn chiếm nhiều thời gian là động tác được thực hiện
với tốc độ tối đa, đã khác hẳn với động tác chậm về đặc điểm sinh lý. Sự khác
biệt cơ bản thể hiện ở chỗ khi thực hiện động tác tối đa thì khả năng điều
chỉnh bằng cảm giác trong tiến trình thực hiện động tác chính xác. Trong

những động tác có tốc độ lớn hoạt tính của cơ diễn ra trong thời gian ngắn đến
mức cơ không kịp co lại nhiều và thực tế cơ hoạt động theo cơ chế đặc trưng.
Tần số động tác phụ thuộc vào tính linh hoạt của quá trình thần kinh, phụ
thuộc vào tốc độ chuyển trạng thái hưng phấn, ức chế của khu vận động.
Theo quan điểm sinh học sứcmạnh tốc độ phụ thuộc vào hàm lượng
ATP trong cơ thể và độ phân giải ATP dưới ảnh hưởng của xung động thần
kinh cũng như tốc độ tái hợp tác của nó. Về các bài tập diễn ra trong thời gian
ngắn hơn nên quá trình tổng hợp ATP hầu như được thực hiện theo cơ chế
yếm khí.
Nhìn chung sứcmạnh tốc độ của con người mang tính chuyên biệt khá
rõ rệt và diễn ra trong các động tác tương tự về tính chất hoạt động. Có thể


17
chuyển hóa ở giai đoạn đầu của người tập, còn ở những người có trình độ tập
luyện cao thì không phát triển.
Để phát triển sức mạnh tốc độ (tần số động tác) người ta sử dụng các
bài tập phát huy được tốc độ các bài tập có tính chu kỳ. Phương pháp sử dụng
chủ yếu là phương pháp lặp lại, phương pháp tăng và biến đổi cự li. Cần lựa
chọn sao cho tốc độ không giảm đi vào cuối giai đoạn của bài tập.
1.4.3. Đặc điểm sinh lý của môn chạy ngắn 100m
Đặc điểm về kĩ thuật chạy ngắn là tốc độ cao nhất, cường độ lớn nhất,
thời gian ngắn nhất thành tích toàn cự li phụ thuộc vào các nhân tố: Tốc độ
phản xạ, sự tăng tốc, năng lượng duy trì cao nhất và chất lượng kĩ thuật. Vì
vậy, môn chạy ngắn 100m có những đặc tính sinh lý sau:
- Đặc điểm hệ thần kinh
Quá trình thần kinh có tính linh hoạt cao hơn do hoạt động thay nhau
giữa cơ đối kháng và cơ co rút, cần sự thay đổi giữa quá trình hưng phấn và
ức chế ở trung khu vận động ở vỏ não cho nên quá trình hưng phấn chiếm ưu
thế. Bởi vì tốc độ chạy nhanh nhất với cường độ cao nhất, cho nên cơ quan

cảm thụ bản thể bị rung động rất lớn và truyền đến vỏ não liên tục. Trung tâm
vận động và quá trình hưng phấn cao hơn ức chế tế bào thần kinh ở vỏ não dễ
bị mệt mỏi, quá trình hưng phấn và ức chế thay nhau liên tục. Trung tâm vỏ
não có quá trình hưng phấn cao nên tế bào vỏ não dễ mệt mỏi và không thể
duy trì ở tốc độ vận động được mãi. Nên thời gian trong môn chạy 100m
thường rất ngắn.
- Đặc điểm của cơ quan vận động
Do hưng phấn cơ bắp của người tập cao nên đòi hỏi chức năng hoạt
động cơ quan vận động cũng cao. Thời trị co cơ bắp ngắn, thời trị co cơ đối
kháng và co cơ ngắn giống nhau.


18
- Sự biến đổi hô hấp
Lượng O2/phút lớn, vì cường độ tối đa, thời gian hoạt động ngắn cho
nên tiêu thụ ôxi không nhiều, chạy ngắn có cường độ tối đa nên nhu cầu ôxi
lớn hơn. Trong vận động không thể nào thỏa mãn được nhu cầu ôxi mà gây
nên nợ ôxi. Ngoài ra tính ì của chức năng thực vật lớn, chức năng hô hấp và
tuần qua 3 - 5 phút mới phát huy hết khả năng. Song vận động viên chạy ngắn
chỉ hoạt động trong khoảng thời gian 9-10s. Do đó trong lượng vận động công
năng của tim và phổi thay đổi không lớn, nhưng phải hoạt động trong trạng
thái yếm khí nên nợ ôxi đạt 95% trở lên. Do thời gian thay đổi ngắn nên trị số
nợ ôxi không cao.
Thương số của hô hấp rất cao do chạy nợ ôxi cao, ôxi hít vào ít, ôxi thở
ra ngoài nhiều nên thương số hô hấp giao động trong khoảng 10 - 20%.
- Chức năng hô hấp thay đổi:
Khi vận động chức năng hô hấp thay đổi không lớn, nhưng sau khi kết
thúc cự li chức năng hô hấp đã nâng cao rõ rệt, tần số hô hấp là 35 lần/phút
thông khí phổi đạt 70- 80 lần/phút.
Sự thay đổi tuần hoàn khi vận động không nhiều lắm, nhưng sau khi

chạy hết cả cự li sẽ tăng nhanh, mạch đập 140 - 160 lần/ phút tăng đến 200
lần/ phút. Huyết áp tối đa 150 - 180 mmHg tăng đến 200 mmHg, huyết áp tối
thiểu giảm 10 - 20 mmHg. Lượng tâm thu/phút đạt 8 - 10 lít/ phút, axitlactic
trong máu tăng 100 - 200 mmHg.
- Năng lượng yếm khí: Do đặc điểm của môn chạy ngắn nên năng lượng
cung cấp dựa vào năng lượng yếm khí cho nên nâng cao khả năng trao đổi
yếm khí là cơ sở nâng cao sứcmạnh tốc độ của môn chạy ngắn 100m.
Lượng 02/phút lớn, bởi vì cường độ tối đa, nhưng do thời gian hoạt
động tối đa ngắn. Nên có tiêu thụ 02 không nhiều, chạy ngắn có cường độ tối
đa nên nhu cầu 02 rất lớn. Trong khi vận động không thể nào thỏa mãn được


19
nhu cầu 02 mà gây nên nợ 02 . Ngoài ra tính ì của chức năng thực vật lớn, chức
năng hô hấp và tuần hoàn 3-5phút mới phát huy hết khả năng. Song vận động
viên chạy ngắn chỉ hoạt động trong thời gian ngắn “9 - 11”. Do đó trong vận
động công năng của tim - phổi thay đổi không lớn nhưng phải hoạt động trong
trạng thái yếm khí nên nợ 02 đạt 95% trở lên. Do thời gian thay đổi ngắn nên
trị số nợ 02 không cao.
+ Thương số hô hấp rất cao: Do môn chạy ngắn nợ 02 cao, 02 hít vào ít,
02 thở ra ngoài nhiều nên thương số hô hấp giao động 10 - 20%.
+ Chức năng hô hấp thay đổi: Khi chạy chức năng hô hấp thay đổi
không lớn, nhưng sau khi kết thúc cự ly chức năng hô hấp lại nâng cao rõ rệt,
tần số hô hấp đạt 351/phút, thông khí phổi đạt 70 - 801/phút.
+ Sự thay đổi của hệ tuần hoàn: Khi vận động chức năng của hệ tuần
hoàn thay đổi không nhiều. Nhưng sau khi chạy hết cả cự ly sẽ tăng nhanh,
mạch đập 140 - 1601/phút tăng đến 2001/phút. Huyết áp tối đa 150 - 180
mmHg tăng đến 200mmHg, huyết áp tối thiểu giảm 10 - 200mmHg. Lượng
tâm thu/phút đạt 8 - 101/phút. Axitlactic trong máu tăng 100 - 200mg%.
+ Năng lượng yếm khí: Do đặc điểm hoạt động của môn chạy ngắn nên

năng lượng cung cấp dựa vào năng lượng yếm khí, cho nên nâng cao khả năng
trao đổi yếm khí là cơ sở nâng cao sức bền tốc độ của môn chạy ngắn. [9]


×