Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

tác động của tỷ giá hối đoái đối với nền kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.29 KB, 20 trang )

Câu 1: Tỷ giá hối đoái có tác động gì đến nền kinh
tế ???
֍ Khái niệm của tỷ giá hối đoái: Các phương tiện thanh
toán quốc tế được mua và bán trên thị trường hối đoái bằng tiền tệ
quốc gia của một nước theo một giá cả nhất định. Vì vậy, giá cả của
một đơn vị tiền tệ này thể hiện bằng một số đơn vị tiền tệ nước kia
gọi là tỷ giá hối đoái.

TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI ĐỐI VỚI NỀN
KINH TẾ
1.

Tác động quan hệ giữa tỷ giá với ngân sách.
Mọi sự biến động của các loại tỷ giá đều tác động trực tiếp tới thu

chi ngân sách.

Trước năm 1990 nhà nước thực hiện chính sách

tỷ giá kết toán nội bộ, mức tỷ giá nhà nước công bố thường cố định
trong thời gian tương đối dài. Ở thời điểm công bố mức tỷ giá thấp
hơn nhiều so với mức giá trên thị trường và tình hình sức mua của
đồng tiền tính chung thời kỳ 1985-1988, 1rúp mua trên dưới
1.500vnd hàng xuất khẩu, 1usd trên dưới 3.000vnd, trong khi đó tỷ
giá kết toán nội bộ thanh toán trong quan hệ xuất nhập khẩu giữu
mức 150vnd/rúp và 225vnd/usd. Nhìn chung 1rúp hàng xuất khẩu
phải bù lỗ 1.350vnd và 1usd phải bù 2.775vnd. Kim ngạch xuất khẩu
của năm 1987 là 650 triệu r-usd trong đó khu vực đồng rúp 500 triệu
và khu vực đồng usd 150 triệu, ngân sách nhà nước đã phải bù lỗ
900 tỷ. Đối với các ngành, các địa phương càng giao nhiều hàng xuất
khẩu để thực hiện nghĩa vụ với bạn, thì ngân sách nhà nước càng


phải bù lỗ nhiều. Ngân sách nhà nước không bù lỗ đủ hoặc chậm trễ
trong việc thanh toán thì công nợ giữa các doanh nghiệp và các
ngành càng tăng và càng thiếu vốn để tiếp tục kinh doanh. Đối với
hàng nhập, thì khi vật tư nguyên liệu thiết bị về nước nhà nước đứng


ra phân phối cho các ngành trong nền kinh tế quốc dân với mức giá
thấp (phù hợp với mức tỷ giá 150 vnđ/rúp và 225vnd/usd nêu trên).
Như vậy, các ngành, các địa phương được phân phối các loại vật tư,
nguyên liệu đó thì được hưởng phần giá thấp còn ngân sách nhà
nước lại không thu được chênh lệch giá. Việc thực hiện cơ chế tỷ giá
kết toán nội bộ trong thanh toán xuất - nhập khẩu và bù lỗ hàng xuất
khẩu đó là:
• Nếu thực hiện nghiêm trọng nghĩa vụ giao hàng xuất khẩu cho bạn
để có thể đưa hàng nhập về đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế quốc
dân, thì mức lỗ của ngân sách cho hàng xuất khẩu lớn gây trở ngại



cho việc điều hành ngân sách.
Nếu trì hoãn cho việc thực hiện nghĩa vụ giao hàng xuất khẩu
nhưng trong khi đó vẫn yêu cầu bạn giao hàng nhập cho ta theo
tiến độ thì việc bù lỗ hàng xuất khẩu được giảm ở mức độ nhất
định, nhưng nghĩa vụ nợ của ta với bạn lại tăng lên đáng kể.

Tỷ giá qui định thấp nên các tổ chức kinh tế và cá nhân có ngoại
tệ không bán ngoại tệ cho ngân hàng, vì làm như vậy sẽ bị mất lãi.
Các tổ chức đại diện nước ngoài hoặc cá nhân nước ngoài cũng
không chuyển tiền tài khoản ở ngân hàng ở chi tiêu mà thường đưa
hàng từ nước ngoài vào hoặc sử dụng ngoại tệ tiền mặt trực tiếp trên

thị trường. Do đó cơ chế tỷ giá của thời kỳ này đã trở thành một yếu
tố tạo cho ngoại tệ bị thả nổi, mua bán trên thị trường trong nước.
Thực tế này vừa gây thiệt hại về kinh tế cho nhà nước vừa làm phát
sinh thêm những tiêu cực trong đời sống xã hội. Đồng thời nó tác
động trở lại tỷ giá kết toán nội bộ và làm cho tỷ giá giữa đồng nội tệ
giữa các đồng ngoại tệ diễn biến phức tạp thêm. Từ tình hình trên
cho thấy, trước năm 1989 tỷ giá hối đoái giữa đồng việt nam và
ngoại tệ do nhà nước qui định không tính đến biến động giá trên thị
trường đang bị trượt ngã nghiêm trọng, nên đã làm cho mức bù lỗ
hàng xuất khẩu trong ngân sách quá lớn, gây khó khăn trong việc
điều hành và quản lý ngân sách và thực hiện nghĩa vụ giao hàng mà


ta đã cam kết với nước ngoài, ngoại tệ bị rối loạn, nhà nước không
điều hành và quản lý được.
Tỷ giá hối đoái bị bóp méo so với thực tế đã khiến cho thu chi
ngân sách nhà nước không phản ánh đúng nguồn thu từ nước ngoài
và các khoản cấp phát của ngân sách nhà nước cho nền kinh tế quốc
dân và cho các hoạt động khác có sử dụng ngoại tệ.
Việc tạo ra một tỷ giá chính thức tưởng là giữ giá trị đồng việt nam
so với ngoại tệ để kế hoạch hoá và ổn định kinh tế, nhưng thực chất
là đẩy xuất khẩu việt nam vào ngõ cụt, không khuyến khích sản xuất
hàng xuất khẩu và đẩy mạnh hàng xuất khẩu, hệ quả là cán cân
thương mại bị nhập siêu nghiêm trọng, ngân sách nhà nước phải
gánh chịu thêm các thua thiệt. Khi buộc phải thả nổi và phá giá
mạnh đã làm cho chi phí của các doanh nghiệp tăng lên đáng kể và
lợi nhuận bị giảm, do đó mức thu từ thuế lợi tức của các tổ chức kinh
tế cho ngân sách nhà nước cũng bị ảnh hưởng. Mặt khác, các khoản
chi tiêu cho các cơ quan và tổ chức được nhà nước cấp cũng được
tăng lên tương ứng với mức mất giá của đồng nội tệ. Tình hình đó đã

tác động đến yếu tố làm tăng bội chi ngân sách.
Từ năm 1989, cùng với các cải cách kinh tế, tài chính, tiền tệ, nhà
nước đã bỏ chế độ tỷ giá trước đây (tỷ giá kết toán nội bộ), giảm căn
bản bù lỗ cho hoạt động xuất - nhập khẩu và thực hiện chính sách
giá sát với tỷ giá thị trường. ngân hàng nhà nước công bố tỷ giá
chính thức của vnđ với các ngoại tệ mạnh, nhất là với usd trên cơ sở
đó các ngân hàng thương mại xây dựng và công bố tỷ giá hàng ngày
với biên độ chênh lệch cho phép (khoảng 5%) so với tỷ giá chính
thức.
Về mặt ngân sách nhà nước, chính sách một tỷ giá hối đoái sát
với thị trường khiến cho việc tính toán thu chi ngân sách nhà nước
phản ánh trung thực và chính xác hơn, không bị bóp méo. tỷ giá đó


góp phần làm cho công tác kế hoạch hoá vay nợ và trả nợ nước
ngoài từ ngân sách nhà nước thuận lợi hơn và có cơ sở vững chắc
hơn.
֍ Mặc dù có những thành công rất đáng kể trong lĩnh vực tỷ giá và
quản lý ngoại tệ, nhưng vẫn còn một số hạn chế đã làm ảnh hưởng
không tốt đến quản lý, điều hành ngân sách, đó là:
• Nguồn ngoại tệ không được quản lý chặt chẽ, còn bị buông lỏng đã
khiến cho lực lượng ngoại tệ của nhà nước tăng chậm và chưa tương
xứng với mức độ tăng của cán cân thương mại, một cơ sở của sự ổn
định thu chi ngân sách nhà nước là quĩ ngoại tệ chưa được tăng
cường.

• Vì tỷ giá hối đoái theo sát tỷ giá thị trường nên nếu không ổn định thì
không những ngân sách bị động mà việc tính toán thu chi ngân sách
bằng ngoại tệ theo không kịp thời dẫn tới không sát với thực tế thị
trường, điều hành ngân sách nhà nước không tránh khỏi lúng túng,

nhất là trường hợp bị thiếu hụt khi trả nợ đến hạn đòi phải giải
quyết.

2.

Tác động quan hệ tỷ giá và nợ nước ngoài
Tỷ giá có mối quan hệ hữu cơ với nợ nước ngoài và công tác quản

lý nợ. trước năm 1979, Việt Nam có sử dụng 20tỷ yên Nhật tương
đương 92 triệu usd (tỷ giá 216 yên = 1usd). ngày 6/11/1992 chính
phủ nhật mở lại tín dụng với Việt Nam và cho Việt Nam vay 20 tỷ
yên, tương đương 159 triệu usd (tỷ giá 126 yên= 1usd). ngoài ra,
vào thời điểm 1987 trở về trước còn có các khoản vay các công ty
của Nhật 20 tỷ yên, tương đương 125 triệu usd ( tỷ giá 160 yên=
1usd). đầu năm 1995, đồng yên lên giá, 1usd chỉ còn 90 yên là như
vậy, xét về góc độ tỷ giá thì trong thời gian qua sự tăng giá của đồng
yên Nhật, đã làm tăng thêm gánh nặng nợ gốc quy ra usd, làm thiệt
thòi cho người đi vay.


Tương tự như tình hình trên, việc sử dụng vốn vay của các doanh
nghiệp ở nước ta liên quan đến nhiều yếu tố, trong đó tỷ giá có tác
động mạnh đến khả năng thanh toán của các doanh nghiệp. trong
các năm 1989-1990 có 81 doanh nghiệp vay nợ nước ngoài theo
phương thức tự vay tự trả với doanh số vay là 5722 triệu yên là 10,9
triệu usd, tỷ giá lúc này là 130 yên=1usd, do đó tổng vay nợ bằng
đồng yên quy ra usd là 44 triệu usd. đến năm 1995, do chưa trả
được nợ mà đồng yên lại tăng giá, nên nợ gốc vay tăng từ 44 triệu
usd lên 58 triệu usd (chưa tính lãi suất tiền vay và tỷ giá giữa đồng
việt nam và usd). Do tổng hợp nhiều yếu tố, rong đó có yếu tố về tỷ

giá, nên đại bộ phận trong số 81 doanh nghiệp vay vốn theo phương
thức này đều bị sức ép của cả hai loại tỷ giá:
• Tỷ giá giữa yên và usd (đại bộ phận doanh số vay của các doanh
nghiệp kể trên là vay đồng yên cuả các công ty nhật trong khi đó



đồng yên tăng giá).
Tỷ giá giữa đồng việt nam và usd (trong khi đó đồng việt nam bị
giảm giá).

Sự biến động của tỷ giá cùng các với yếu tố ngoại hối, nhưng nó
có ý nghĩa đặc biệt riêng của nó đối với việc huy động vốn, thực hiện
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thu chi ngân sách nhà nước, ổn định
kinh tế và xã hội. Ngược lại, việc nợ nước ngoài nếu không quản lý
tốt và không sử dụng có hiệu quả sẽ trở thành gánh năng đối với nền
kinh tế hiện tại và tương lai, có khi còn ảnh hưởng đến nền độc lập
và chủ quyền quốc gia.
Về vay nợ chính phủ phải có quy chế chặt chẽ quy định được vay
về trách nhệm,nghĩa vụ và quyền hạn của các pháp nhân kinh tế và
pháp nhân công quyền trước các khỏan vay và khoản trả nợ. hiện
nay chúng ta có qui định nhà nước vay nhà nước trả, doanh nghiệp
vay doanh nghiệp trả, nhà nước không gánh hộ nợ doanh nghiệp.


Thiếu vốn phải vay, nhưng không phải ai cho vay với điều kiện
nào cũng chấp nhận cả. phải thấy rằng, nếu tỷ giá hối đoái đồng Việt
Nam hạ, đồng ngoại tệ tăng, thì khoản trả nợ của ngân sách nhà
nước của doanh nghiệp sẽ phải tăng , nhưng xuất khẩu hàng hoá,
dịch vụ lại có lợi, đó là một bài toán khó, phải tính xem lợi ích do

xuất khẩu mang lại cho phát triển kinh tế có bù lại được thiệt hại của
số tiền ngân sách nhà nước và doanh nghiệp phải trả nợ cao hơn
không?
Vì lẽ đó, chúng ta phải tỉnh táo đàm phán với các chủ nợ khi vay,
không thể chấp nhận bất cứ điều kiện nào và không thể không nghĩ
đến việc trả giá, đặc biệt phải chú trọng đến các vấn đề chính trị của
các khoản vay. phải thấy được rằng các chủ nợ cho vay là để lấy lãi
chứ không phải làm việc nghĩa, vấn đề là ở chỗ làm thế nào để giải
quyết hài hoà giữa lợi ích của bên cho vay và bên vay. Việc quản lý
nợ không chỉ quy định trách nhệm mà còn phải chú ý tới hiệu quả sử
dụng khoản vay, vì vậy quản lý đầu tư sử dụng các khoản vay cho
các công trình, mục tiêu là một việc có tầm quan trọng đặc biệt. Các
cơ quan tài chính và ngân hàng phải đặc biệt chú ý tới vấn đề này:
vay cho mục tiêu nào được quản lý theo mục tiêu đó.
Về viện trợ: viện trợ không hoàn lại không nhiều, nhưng cũng
phải được quản lý chặt chẽ. Nnhững khoản viện trợ cuả nước ngoài
cho chính phủ và các cấp chính quyền phải được đưa vào ngân sách
nhà nước để cân đối và sử dụng, không hình thành quỹ riêng. tuy các
khoản này ngân sách không phải trả lại nhưng là một nguồn khá
quan trọng góp phần giải quyết các vấn đè của đất nước.
Những khoản tài trợ của các tổ chức và cá nhân cho các dự án
ngoài ngân sách và tổ chức xã hội cũng phải được chuyển vào ngân
sách để quản lý và chỉ cấp phát bằng tiền Việt Nam theo tỷ giá chính
thức ở thời điểm sử dụng, không cấp phát bằng ngoại tệ.


Để đáp ứng yêu cầu trên, chính phủ cần thành lập một tổ chức
trực tiếp quản lý nợ, viện trợ. Cơ quan này không những nắm các
khoản nợ, viện trợ, tài trợ của chính phủ, các cấp chính quyền, mà cả
các khoản nợ của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế

nhằm thực hiện yêu cầu quản lý vĩ mô của nhà nước trong điều kiện
kinh tế mở. Chỉ xét riêng trong cán cân vay lãi, cán cân thanh toán
quốc tế, thì không phải chỉ có nợ chính phủ mới nằm trong đó mà
ngay cả nợ của các doanh nghiệp tư nhân các của nước cũng phải
đưa vào. bởi vì, vốn đưa vào dù ai sử dụng thì vẫn là cho cả nền kinh
tế và khi trả, dù ai trả cũng phải lấy một phần gdp để trả nợ mà việc
đó liên quan đến lợi ích quốc gia, trực tiếp tác dộng đến sự cân bằng
của cán cân thanh toán. là quốc gia có số nợ nước ngoài lớn nếu so
với gdp, trong tương lai còn phải vay và đồng thời phải trả nợ đến
hạn vì vậy với việc hình thành chiến lược vay và trả nợ có ý nghĩa
chiến lược to lớn.

3.

Tác động cuả tỷ giá hối đoái đến lãi suất và trái
phiếu chính phủ.
Tỷ giá ngoại hối có liên quan chặt chẽ đến lãi suất và có tác dụng

điều chỉnh lãi suất. trong nền kinh tế thị trường khi đồng nội tệ mất
giá, khối lượng nội tệ cung ứng ngoài thị trường lớn đòi hỏi phải điều
chỉnh tăng lãi suất, trong trường hợp này làm tăng chi ngân sách về
thanh toán lãi suất huy động nội tệ. Khi đồng nội tệ lên giá nhà nước
phải điều chỉnh giảm mức lãi suất, điều này sẽ giảm chi ngân sách
về thanh toán lãi suất huy động nội tệ, nếu không điều chỉnh mức lãi
suất thì những nhà sản xuất kinh doanh sẽ bán ngoại tệ cho ngân
hàng lấy nội tệ gửi vào ngân hàng hoặc mua trái phiếu chính phủ để
hưởng lãi suất cao, điều này sẽ tác động xấu đến sản xuất-kinh
doanh trong khi đó ngân sách phải tiếp tục thanh toán lãi suất về



huy động tiền gửi. Kinh nghiệm của một số nước châu á (như
Malaixia, Thái Lan, Indonexia) cho thấy việc sử lý hài hoà phối hợp
điều hành lãi suất và tỷ giá ngoại hối đã làm cho tỷ giá giữ được biên
độ ổn định và tiền tệ không có biến động mạnh.
Do đồng usd mất giá ở mức cao, nên hiện nay Mỹ đang đẩy
mạnh xu hướng nâng cao lãi suất. Việc làm này sẽ làm tăng lãi suất
tiền vay bằng ngoại tệ usd và do đó sẽ tác động trực tiếp đến các
khoản vay nợ của Việt Nam. Với diễn biến này đòi hỏi chúng ta cần
có sách lược chọn đồng tiền với mức lái suất thích hợp, nhằm đảm
bảo cho việc sử dụng vốn vay đạt hiệu quả.

֍ Nói tóm lại: từ những vấn đề phân tích trên đây và thực trạng
Việt Nam cho thấy, tình hình tài chính chính quốc gia (đặc biệt là
ngân sách nhà nước) và chế độ ngoại tệ, tỷ giá có quan hệ biện
chứng qua lại hết sức chặt chẽ, một mặt tình hình tài chính (mà biểu
hiện tập trung là ngân sách nhà nước) là một nhân tố hàng đầu
quyết định đến sự lựa chọn tỷ giá, phương án điều chỉnh tỷ giá, mặt
khác chế độ quản lý ngoại hối, tỷ giá cũng có ảnh hưởng hết sức
mạnh mẽ, toàn diện đến quản lý. nền tài chính quốc gia thông qua
nhiều kênh, dưới nhiều hình thức và góc độ khác nhau, chính vì vậy
khi đặt vấn đề lựa cọn chính sách, phương án điều chỉnh tỷ giá sẽ là
sai lầm nghiêm trọng nếu như không đề cập, phân tích thực trạng tài
chính hiện hành của quốc gia.

4.

Tỷ giá hối đoái đối với điều chỉnh hoạt động
kinh tế đối ngoại.
Các nước đang phát triển thường thiết ké chính sách tỷ giá hối


đoái nhằm duy trì sức cạnh tranh quốc tế ở mức phù hợp với vị thế


cán cân thanh toán quốc tế lâu bền. Bằng cách tăng giá các hàng
thương mại hoá được so với các hàng hoá không thương mại hoá
được; sự phá giá đồng thời chuyển dịch cầu tổng thể có lợi cho các
cho các hàng hoá không thương mại hoá được và cung tổng thể có
lợi cho các hàng hoá thương mại hoá được và do đó giảm bội dư cầu
đối với hàng hoá thương mại hoá được (tức là cải thiện được vị thế
của cán cân vãng lai). Ngoài tác dộng của chính sách chuyển đổi chi
tiêu, phá giá cũng giảm cầu tổng thể thông qua ảnh hưởng của khối
lượng tài sản, một sự tăng giá nội địa sẽ làm cho sự phá giá đồng
tiền nội địa tháp hơn giá trị thực của tài sản tài chính và giảm hấp
thụ.
Do vai trò cốt yếu của tỷ giá hối đoái đói với việc duy trì sức cạnh
tranh đối với bên ngoài tỷ giá có thể làm thay đổi vượt ra khỏi điểm
cân bằng của nó. Bởi vì điểm cân bằng này được xác địng nội sinh,
chính sách tỷ giá hối đoái cần lưu ý đến các tác động của các cơn
sốc khác nhau lên điểm cân bằng của tỷ giá thực. Phần này đề cập
đến các tiếp cận khác nhau trong việc xác định điểm cân bằng tỷ giá
thực và nghiên cứu tác dộng của các cơn sốc bên trong và bên
ngoaig lên điểm cân bằng đó, sau đó sẽ tập trung vào chính sách cụ
thể nhằm duy trì sức cạnh tranh trong quá trình điều chỉnh.
Xác định tỷ giá hối đoái cân bằng: Nói chung có hai tiếp cận
để xác định tỷ giá hối đoái thực "cân bằng". Tiếp cận đơn giản và
phổ biến nhất là dựa vào khái niệm tỷ giá theo sức mua so sánh.
Nguyên lý trung tâm của tỷ giá so sánh sức mua là tỷ thực cân bằng
tỷ lệ với các mức giá tương đối giữa một nước với đối tác ngoại
thương của mình, tức là đối với sức mua so sánh giữa các đồng tiền
các quốc gia. Như vậy tỷ giá sức mua so sánh được coi là chỉ số thích

hợp cho cân bằng tỷ giá giữa các đồng tiền với tỷ lệ lạm phát quy
định tỷ lệ thay đổi của tỷ giá danh nghĩa theo thời gian. Việc áp dụng
tỷ giá so sánh sức mua bao gồm việc sử dụng tỷ giá hối đoái hiện


hữu để tính mặt bằng giá tương đối theo các đại lượng tiền tệ thông
dụng. Bất cứ sự sai lệch nào của tỷ giá thực so với giá trị gốc của nó
sẽ được coi là dấu hiệu tỷ giá đã đi lệch ra khỏi giá trị tỷ giá so sánh
sức mua cân bằng.
Tiếp cận khác, có sức hấp dẫn hơn là định nghĩa tỷ giá hối đoái
thực như là giá so sánh tương đối giữa hàng hoá mậu dịch và hàng
hoá không mậu dịch hoá được, nó đưa ra thước đo các động lực
quyết định sự phân phối nguồn lực giữa hai khu vực trọng yếu này
của nền kinh tế: nếu giá nội địa của hàng hoá thương mại hoa so với
hàng hoá không thương mại hoá được thì nguồn lực sẽ được phân
phối lại sang khu vực hàng hoá thương mại hoá và cán cân ngoại
thương sẽ được cải thiện. theo nghĩa đó, thì điểm cân bằng của tỷ
giá thực sẽ tương ứng với giá so sánh giữa hàng hoá thương mại hoá
và hàng hoá không thương mại hoá đem lại đồng thời sự cân bằng
nội và cân bằng ngoại. Cân bằng nội có nghĩa là thị trường hàng hoá
không thương mại hoá được thanh toán liên tục, cân bằng ngoại có
nghĩa là thâm hụt cán cân vãng lai được tài trợ một cách bền vững từ
luồng vốn nước ngoài vào.
Ngoài chỉ số giá thực tế thì vẫn còn có các vấn đề tiềm tàng liên
quan đến biến động chỉ số và sức cạnh tranh với bên ngoài. một số
nghiên cứu gần đây chỉ ra sự thay đổi chỉ số tỷ giá thực quan được có
thể là biểu hiện của sự thay đổi điểm cân bằng của tỷ giá thực do
các loại cơn sốc trong nước và nước ngoài gây ra (ví dụ: sự tác động
của chênh lệch mức tăng năng suất, thay đổi điều kiện ngoại thương,
thay đổi trong điều hành ngân sách chính phủ, sự tăng lên của lãi

suất thực quốc tế.vvv ) lên cân bằng của tỷ giá thực.
Chênh lệch về mức độ phát triển, tiến bộ trong công nghệ có tác
động quan trọng đến điểm cân bằng của tỷ giá thực, ví dụ: nếu năng
suất lao động tăng nhanh hơn trong khu vực hàng hoá thương mại
hoá so với khu vực hàng hoá không thương mại hoá, thì giá so sánh


giữa hàng hoá không thương mại hoá sẽ tăng do sự tăng đồng nhất
của tiền lương trong cả hai khu vực. với giá hàng hoá thương mại
hoá thị trường quốc tế quy định thì tỷ giá hối đoái thực cân bằng sẽ
giảm. Vậy tỷ giá thực cân bằng ở các nước có tốc độ tăng năng suất
thấp các nước đang phát triển thường chịu các cơn sốc về điều kiện
ngoại thương. giả sử điều kiện ngoại thương xấu đi vì sự giảm giá
tương đối của hàng xuất khẩu, sự xấu đi này tạo nên dư thừa cung
đối với hàng hoá không thương mại hoá và dư thừa cầu đối với hàng
hoá thương mại hoá, làm cho cán cân vãng lai xấu đi. mất cân bằng
cán cân vãng lai được điều chỉnh lại qua việc giảm giá tương đối của
hàng hoá không thương mại hoá-tức là tăng tỷ giá thực và dịch
chuyển cung nội địa từ hàng hoá không thương mại hoá sang hàng
hoá xuất nhập khẩu.
Phân tích về tác động của cải cách thuế nhập khẩu cho thấy:
giảm thuế nhập khẩu thường là tương đương với tăng tỷ giá thực cân
bằng. Về phương diện định tính thì tác động của tự do hoá nhập
khẩu cũng giống như việc cải thiện điều kiện ngoại thương (do giảm
giá xuất khẩu). Thuế nhập khẩu thấp hơn sẽ làm giảm giá

hàng

nhập khẩu, tạo nên sự dư thừa cầu đối với hàng hoá này và dư thừa
cung đối với hàng hoá xuất khẩu. Để đưa về cân bằng thì giá tương

đối của hàng hoá không thương mại hoá sẽ giảm, như vậy phản ứng
đối với việc giảm thuế nhập khẩu là tỷ giá hối đoái thực sẽ tăng lên.
Tỷ giá thực cân bằng cũng bị tác động của các biện pháp ngân
sách, ngay cả khi thiếu hụt ngân sách không thay đổi thì sự thay đổi
trong cơ cấu thu chi ngân sách cũng làm cho tỷ giá thực cân bằng
thay đổi, ví dụ: nếu chính phủ cho hướng thành phần chi tiêu sang
hàng hoá thương mại hoá sẽ giảm và tỷ giá thực sẽ tăng. Cũng như
vậy, một sự thay đổi cơ cấu thuế sẽ tác dộng tới tỷ giá thực cân bằng
bằng cách gây nên sự dịch chuyển của hành vi đầu tư-tiết kiệm của
nền kinh tế. Về nguyên tắc, nhiều sự kết hợp của biện pháp ngân


sách sẽ cho cùng một kết quả cân bằng ngân sách tổng thể, nhưng
với mỗi sự kết hợp sẽ cho một tỷ giá thực cân bằng. Vì vậy điểm cân
bằng của tỷ giá hối đoái thực không chỉ định do vị thế ngân sách quy
định, mà còn do cơ cấu chi và thu của chính phủ quy định.
Một sự tăng lên lãi suất quốc tế sẽ tác động đến điểm cân bằng
của tỷ giá hối đoái thực thông qua hai kênh: Thứ nhất, dưới chế độ
tỷ giá cố định thì lãi xuất trong nước tăng lên để giữ được mức so
sánh với lãi xuất quốc tế, do đó làm giảm chênh lệch giữa đầu tư và
tiết kiệm. Sự cải thiện cán cân vãng lai như vậy sẽ gây nên việc giảm
tỷ giá thực cân bằng. Thứ hai, phụ thuộc vào việc nước đó là chủ nợ
hay con nợ ròng, một sự cải thiện hoặc xấu đi phản ánh sự thay đổi
tương ứng cảu sự thay đổi vị thế chuyển giao các nhân tố thu nhập,
tác động này sẽ thúc đẩy thêm việc giảm tỷ giá thực cân bằng là
không rõ ràng nếu một nước là con nợ lớn. Tác động của lãi xuất
quốc tế cao hơn cũng phụ thuộc vào phản ứng ngân sách của chính
phủ. Nếu chính phủ làm trung hoà tác động của ngân sách lên sự
thay đổi lãi suất bằng cách giảm chi tiêu hàng hoá thương mại hoá,
thì tỷ giá thực cân bằng sẽ có xu hướng giảm trong dài hạn. mặt

khác, tỷ giá thực cân bằng sẽ tăng nếu việc trả lãi suất được tài trợ
bằng cách tăng thuế, hoặc nếu kèm theo việc giảm chi tiêu chính
phủ đối với hàng hoá không thương mại hoá.
Tỷ giá hối đoái thực, sức cạnh tranh quốc tế và lạm phát :
Trong khi tỷ giá thực có thể chênh lệch ra khỏi điểm cân bằng vì một
số các cơn sốc gây nên thì nguyên nhân chủ yếu của việc xấu đi sức
cạnh tranh đối với bên ngoài ở hầu hết các nước đang phát triển là tỷ
lệ lạm phát nội địa cao kèm theo việc duy trì chế độ tỷ giá tỷ giá
danh nghĩa cố định. Cách tiếp cận để ngăn ngừa sự xấu đi của sức
cạnh tranh quốc tế là thực hiện quy tắc tỷ giá thực.
Như vậy quy tắc tỷ giá có thể ngăn ngừa được sự xuất hiện mất
cân đối lớn và lâu dài của các giá cả tương đối và do đó tránh được


mất cân bằng ngoại, bằng cách cho tỷ giá danh nghĩa được điều
chỉnh thường xuyên và theo liều lượng tương đối nhỏ. Người ta lập
luận rằng: tỷ giá hối đoái thực tế có thể giữ được ở mức đúng đắn,
không gây ra cái giá điều chỉnh phải trả cho nền kinh tế, và do đó
che lấp được vấn đề phá giá có thể nổi lên trên chiến trường chính
trị. Hơn thế nữa, người ta còn khẳng định quy tắc tỷ giá thực cung
cấp một mức cho dự đoán bởi vì nó cung cấp cho những người tham
gia thị trường thông tin bổ ích về chiều hướng có thể xảy ra các giá
tương đối và do đó tránh được các quyết định sản xuất dựa trên các
dự đoán mong đợi sai lệch.
Tuy vậy, việc chấp nhận quy tắc tỷ giá thực cũng gây ra một số
vấn đề như: xác định điểm cân bằng của tỷ giá thực là không dễ về
lý thuyết chứ chưa nói về mặt thực tiễn và một số khó khăn nghiêm
trọng có thể phải tính đến nếu đích tỷ gía đặt sai. Vì vậy, trong khi
phát biểu quy tắc tỷ giá thực thì phải cho phép có một độ sai số so
với điểm cân bằng của tỷ giá thực do các cơn sốc bên ngoài hoặc

trong nước gây ra. Nếu cơn sốc là tạm thời, thì có thể kiên trì quy tắc
tỷ giá thực, nếu cớn sốc là lâu dài thì sự sai biệt lớn của tỷ giá thực
so với điểm cân bằng có thể làm giảm sức cạnh tranh quốc tế.
Các nghiên cứu gần đây cho thấy: các quy tắc tỷ giá thực có thể
tạo nên sự không an tâm, đối với hệ quả cân bằng vĩ mô, dù nó có
tác động tốt về mặt cân bằng ngoại. việc thực hiện đích tỷ giá thực,
tức là buộc phải theo đuổi đích phần thực mà lại sử dụng các công cụ
đại lượng danh nghĩa với giá cả nội địa. vì vậy các cơn sốc đối với
lạm phát trong nước có thể mang tính chất lâu dài, và trong một số
trường hợp có thể dẫn đến lạm phát, về phía cạnh khác, trong nền
kinh tế nhỏ, cung tiền tệ có thể bị gia tăng do nguồn bên ngoài tăng
lên, thì một sự bùng nổ giá cũng có thể xảy ra ngay cả khi chính
sách tín dụng không bành chướng.


Chính sách hỗ trợ đối với các biến động của giá thông qua điều
chỉnh tiền tệ và tỷ giá sẽ tác động đến quá trình hình thành tiền
lương trong nền kinh tế. Theo chính sách đó thì người lao động sẽ
không quan tâm nhiều đến tác động lên công ăn việc làm của việc
định ra tiền lương danh nghĩa cao hơn, vì các công ty có đủ khả năng
chuyển chi phí tiền lương cao hơn sang giá cao hơn, vì vậy sự tăng
lương sẽ phản ánh đầy đủ trong tiền lương và tăng giá cả tiếp tục
theo đó. Tác động lên tổng sản phẩm của các chính sách hỗ trợ tài
chính và tỷ giá hối đoái sẽ phụ thu vào nguồn gây nên biến động.
Nếu cơn sốt cung thống trị, thì biến động của tổng sản phẩm sẽ tăng
lên do chỉ số hoá đầy đủ tỷ giá hối đoái. Ngược lại, nếu cơn sốt cầu
thóng trị thì các chính sách hỗ trợ sẽ làm ổn định tổng sản phẩm.
Các nghiên cứu về hệ quả của quy tắc tỷ giá thực voà ổn định giá
chỉ mới bắt đầu gần đây và có ít. Ađam và Gros(1966) nghiên cứu
vấn đề bằng cách sử dụng một số mô hình phân tíc đơn giản với các

giả thiết khác nhau liên quan đến cơ cấu hàng hoá, tính cứng nhắc
của giá lương, độ tự do lưu chuyển vốn. họ kết luận rằng: “chính
sách tiền tệ có thể mất khả năng kiểm soát lạm phát nếu đặt tỷ giá
danh nghĩa theo quy tắc tỷ giá thực và nếu sau đó lại tìm cách kiểm
soát lạm phát, thì sẽ mất khả năng kiểm soát diễn biễn kinh tế vĩ mô
khác”, họ cũng lập luận rằng: “nếu tỷ giá hối đoái thực nâng quá
mức so với điểm cân bằng thì lạm phát chắc chắn sẽ cao hơn”.
Hoạt động của quy tắc tỷ giá thực và chính sách ngân sách liên quan
chặt chẽ với nhau Lizondc(1989) đưa ra lược đồ mối quan hệ giưã in
tiền do thiếu hụt ngân sách và tốc độ phá giá tỷ giá. Trong đó, giá trị
cân bằng lâu bền của tỷ giá thực là hàm không chỉ biến thực nêu
trên mà còn của tỷ lệ lạm phát trong nước. Đại lượng sau quyết định
tổng thu được của chính phủ thông qua thuế lạm phát, đến lượt nó
lại tác động lên giá trị tài sản của tư nhân và chi tiêu trong dài hạn
và do đó lên điểm cân bằng của tỷ giá thực. Mỗi một đích tỷ giá thực


gây ra một tỷ lệ lạm phát nội địa về dài hạn, khi các điều kiện khác
không thay đổi. Bên cạnh đó cần lưu ý không phải tất cả các đích tỷ
giá thực là khả thi và không phải tất cả các quy tắc tỷ giá đều đưa
nền kinh tế đến đích, ngay như nếu đích đó là khả thi.
Kinh nghiệm các nước lạm phát cao đã làm tăng sự phản đối việc
chấp nhận các quy tắc tỷ giá thực. Nhiều nước trên đã trải qua tình
trạng tỷ lệ lạm phát cao trong thập kỷ trước mà đặc trưng "mặt bằng
cao". Llạm phát nhảy từng bước đến các thời kỳ lạm phát cao hơn
nhưng lại tương đối ổn định. Trong một số trường hợp thì bước nhảy
như vậy liên quan đến phá giá từng đợt, tiếp theo là "cố định" dựa
vào các quy tắc tỷ giá so sánh sức mua. Trong các nỗ lực lớn hơn,
gần đây họ cố định tỷ giá danh nghĩa để cung cấp một mốc neo
danh nghĩa. Điều này cũng không kết luận rằng: gắn cố định dựa

trên cơ sở tỷ giá so sánh sức mua là gây nên lạm phát cao, nhưng
thực tiễn cho thấy nguy cơ ngày càng cao.
Tuy vậy, cũng cần nhận thấy một số lợi thế của quy tắc tỷ giá thực,
ví dụ: tỷ giá thực sẽ không cho phép chênh lệch xa điểm cân bằng, vì
vậy không phải lo lắng trước sự mất ổn định của giá nội địa.

֍ Tóm lại, một khi đích mục tiêu đặt ra đối với tỷ giá thực vẫn
còn đúng, thì tiềm năng gây lạm phát do sử dụng đích mục tiêu tỷ
giá thực gây ra có thể được kìm hãm bằng cách sử dụng các chính
sách ngân sách và tiền tệ thắt chặt, tiếp cận này sẽ ngăn ngừa sự
xuất hiện biến động gây mất ổn định của giá cả, ngay cả khi nếu tỷ
giá danh nghĩa được điều chỉnh để duy trì sức cạnh tranh quốc tế. khi
không biết chắc chắn giá trị cân bằng của tỷ giá thực thì không nên
quá chú trọng vào việc đặt ra đích mục tiêu tỷ giá thực, ngay cả khi
nếu các chính sách ngân sách và tiền tệ được sử dụng một cách thận
trọng. gánh nặng của điều chỉnh ít nhất là một phần do các chính
sách tài chính chịu, hơn là hoàn toàn dồn cho điều chỉnh tỷ giá. theo
nghĩa đó thì cần phải chú ý rằng các chính sách như vậy bản thân


chúng có thể chịu tác động bởi chế độ tỷ giá hối đoái mà chính phủ
đưa ra.
Để phân tích tác động của tỷ giá hối đoái tới nền kinh tế ta đưa
ra khái niệm khả năng cạnh tranh. khả năng cạnh tranh = epo/p
trong đó:

po: giá sản phẩm ngoài tính theo gía thi trường nước

ngoài.
p: giá sản phẩm cùng loại sản xuất trong nước tính

theo đồng nội tệ.
e: tỷ giá hối đoái của đồng tiền nước ngoài tính theo
đồng nội địa.
Với p và po không đổi khi e tăng , epo sẽ tăng. Giá của sản
phẩm nước ngoài trở nên đắt tương đối so với giá của sản phẩm
trong nước và ngược lại, giá của sản phẩm trong nước trở nên rẻ
tương đối so với sản phẩm nước ngoài. Sản phẩm trong nước do đó
có khả năng cạnh tranh cao hơn xuất khẩu sẽ tăng ( x tăng ), nhập
khẩu giảm đi (im giảm), điều này làm cho xuất khẩu ròng (nx= x_im)
tăng lên. vì ad=c+i+g+nv nên nx tăng lên làm cho ad dịch phải, trên
hình vẽ ta thấy sản lượng cân bằng q tăng lên tỷ lệ thất nghiệp giảm.


Như vậy sự thay đổi tỷ giá hối đoái danh nghĩa và do đó tỷ giá hối
đoái thực tế sẽ tác động đến cân bằng cán cân thương mại, do đó
tác động đến sản lượng, việc làm, giá cả.
Hãy mở rộng tác động của tỷ giá hối đoái với cán cân thanh toán,
ở đây có mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá hối đoái. Khi lãi suất
tăng lên, đồng tiền nội địa trở nên có giá trị hơn, tỷ giá hối đoái của
đồng nội địa tăng lên, trong điều kiện tư bản vận động một cách tự
do thì tư bản nước ngoài sẽ tràn vào thị trường trong nước, giả định
cán cân thương mại là công bằng thì cán cân thanh toán là thặng dư.
Như vậy tỷ giá hối đoái là một biến cố rất quan trong, tác động
đến sự cân bằng của cán cân thương mại và cán cân thanh toán, do
đó tác động đến sản lượng, việc làm cũng như sự cân bằng của nền
kinh tế nói chung. chính vì vậy, một số nước trên thế giới vẫn còn
duy trì tỷ giá hối đoái cố định, còn phần lớn các nước theo đuổi chính
sách tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý nhằm giữ cho tỷ giá hối đoái
chỉ biến động trong một phạm vi nhất định, để ổn định và phát triển
nền kinh tế.


TỔNG QUAN VỀ DOANH NGHIỆP
CTCP Kinh Đô (KDC) xuất phát điểm là một cơ sở nhỏ được thành
lập từ năm 1993 là Công ty TNHH Xây dựng và Chế biến Thực phẩm
Kinh Đô. Đây là một xưởng sản xuất nhỏ với 70 công nhân và vốn
đầu tư 1.4 tỷ đồng chuyên sản xuất và kinh doanh bánh snack.
Chính quyết định táo bạo mang tính chiến lược này đã làm bước đệm
quan trọng cho sự phát triển của Kinh Đô sau này. Doanh số trong
năm đầu tiên này của Kinh Đô đạt 10 tỷ đồng. Sau đó, vào năm


1994, KDC tăng vốn lên 14 tỷ đồng và nhập dây chuyền sản xuất từ
Nhật Bản.
Vào năm 2004, nhận thấy khả năng huy động vốn trên thị trường
chứng khoán, CTCP Chế biến Thực phẩm Kinh Đô miền Bắc đã chính
thức được niêm yết trên HOSE và làm bước đệm cho việc niêm yết
Kinh Đô sau này. Sau khi Kinh Đô miền Bắc niêm yết thành công,
Kinh Đô cũng chính thức lên sàn giao dịch với mã chứng khoán KDC.
Cổ phiếu KDC chào sàn đã kéo theo nhiều biến chuyển mạnh mẽ.
Kinh Đô liên tục nhận được sự đầu tư từ các quỹ lớn. Đánh dấu bước
chuyển mình cho giai đoạn Kinh Đô tăng tốc và mở rộng qui mô như
hiện nay.

Huy động vốn của doanh nghiệp
⁂ Phát hành cổ phiếu: Đây là hình thức huy động vốn chủ yếu
của DN.
Ví dụ về việc huy động vốn thông qua cổ phần của DN KDC như
sau:
 Tình hình huy động vốn của công ty cổ phần kinh đô năm 2012:
• 22/02/2012: phát hành riêng lẻ 14.000.000 cổ phiếu (10%

tổng lượng cổ phiếu sau khi phát hành) phát hành riêng lẻ
cho Ezaki Glico Co. Ltd.
• 27/02/2012 và 10/7 (cổ tức 2011): trả 311 tỷ đồng cho cổ
đông hiện hữu`
• 29/08/2012 trả 20% cổ phiếu thưởng cho cổ đông hiện
hữa.
• 20/12/2012: mua cổ phiếu quỹ kinh đô Bình Dương 13.043.112 cổ phiếu quỹ với giá trung bình 38.439 đồng.
• Đến hết năm 2012, số lượng cổ phiếu KDC hiện có là
166.522.625,

vốn

điều

lệ

của

công

ty



1.599.000.000.000.
 Tình hình huy động vốn của công ty cổ phần kinh đô năm 2013:


• 30/01/2013: phát hành 1.320.000 cổ phiếu cho ban điều
hành và chào bán với giá ưu đãi 5.281.000 cổ phiếu cho

hội đồng quản trị, ban kiểm soát và cán bộ công nhân viên.
• 27/02/2013: chi trả cổ tức lần 1 năm 2012, trả cho các nha
đầu tư 165 tỷ đồng theo tỷ lệ 10% mệnh giá/cổ phiếu.
• 27/06/2013: phát hành 1.105.645 cổ phiếu để hoán đổi cổ
phiếu Vinabico.
• 14/08/2013: chi trả cổ tức lần 2 năm 2012, trả cho các nhà
đầu tư 166 tỷ đồng theo tỷ lệ như trên.
• Đến hết 2013, số cổ phần hiện có của công ty là
166.136.014, vốn điều lệ là 1.676.282.700.000.
 Tình hình huy động vốn của công ty cổ phần kinh đô năm 2014:
• 27/2/2014: phát hành niêm yết bổ sung 1.105.645 cổ phiếu
nâng tổng số lượng chứng khoán sau khi thay đổi niêm yết
167.628.270 cổ phiếu.
• 24/03/2014: tạm ứng cổ tức đợt 1 năm 2013 bằng tiền mặt
1000 đồng/cổ phiếu.
• 22/05/2014: niêm yết bổ sung 6.500.000 cổ phiếu theo
chương trình lựa chọn cho người lao động trong công ty,
nâng tổng số lượng cổ phiếu sau khi niêm yết lên
174.128.270 cổ phiếu
• 28/05/2014; giao dịch niêm yết bổ sung 40.000.000 cổ
phiếu.
• 17/07/2014: chia cổ tức đợt 2 năm 2013 bằng tiền mặt,
• 11/09/2014: phát hành cổ phiếu để tăng vốn cổ phần từ
nguồn vốn chủ sở hữu. Số lượng chứng khoán thay đổi
niêm yết 42.525.127 cổ phiếu nâng số lượng cổ phiếu lên
256.653.397 cổ phiếu.
Sau khi thực hiện các đợt phát hành thêm 6.601.000 cổ phiếu cho
nhân viên và 1.105.645 cổ phiếu để hợp nhất kinh doanh vào năm
2013 vốn cp của công ty kinh đô đã tăng 77.066.450.000 VND. Như
vậy, vốn cp chiếm cơ cấu lớn trong tổng nguồn vốn của doanh

nghiệp.


⁂ Phát hành trái phiếu:
Vào quý IV/2016, KDC phát hành 1000 trái phiếu, Số trái phiếu này
được phát hành cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước (dưới
100 nhà đầu tư không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp).
Giá phát hành bằng mệnh giá trái phiếu tức 1 tỷ đồng/trái phiếu,
tương ứng tổng mệnh giá phát hành là 1.000 tỷ đồng. Đây là loại trái
phiếu không chuyển đổi, có tài sản bảo đảm, có bảo lãnh thanh toán;
và sẽ đáo hạn sau 5 năm. Kỳ thanh toán lãi trả dự kiến là 6
tháng/lần. Mục đích phát hành nhằm thực hiện bổ sung vốn cho hoạt
động sản xuất kinh doanh.



×