Tải bản đầy đủ (.pdf) (179 trang)

Nghiên cứu xác lập cơ sở khoa học phục vụ công tác đánh giá tác động môi trường chuyên ngành đối với các dự án khai thác lộ thiên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.13 MB, 179 trang )


Bộ tài nguyên và môi trờng
Viện KHOA HC địa chất và khoáng sản








BO CO TNG KT

TI: nghiên cứu xác lập cơ sở khoa học phục vụ
công tác đánh giá tác động môi trờng chuyên ngành
đối với các dự án khai thác lộ thiên



Ch nhim ti: MAI TH TON















6598
08/10/2007



Hà nội - năm 2007

Bộ tài nguyên và môi trờng
Viện KHOA HC địa chất và khoáng sản











Nghiên cứu xác lập cơ sở khoa học phục vụ
công tác đánh giá tác động môi trờng
chuyên ngành đối với các dự án khai thác
lộ thiên


C quan thc hin ti Ch nhim ti

Vin Khoa hc a cht v Khoỏng sn














Ths. Mai Th Ton












hà Nội - năm 2007


1
DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI THAM GIA


1. ThS Mai Thế Toản, Bộ Tài nguyên và Môi trường - Chủ nhiệm Đề tài.
2. PGS.TS Hồ Sĩ Giao, Hội Khoa học - Công nghệ mỏ Việt Nam.
3. TS Mai Trọng Tú, Trưởng phòng Khoa học Công nghệ và Hợp tác Quốc
tế, Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản - Phó chủ nhiệm Đề tài.
4. KS Vũ Đình Hiếu, Trường Đại học Mỏ - Địa chất Hà Nội
5. KS Nguy
ễn Thanh Liêm, Phó giám đốc Công ty tư vấn đầu tư Mỏ và
Công nghiệp (Tổng công ty than Việt Nam).
6. TS Lại Hồng Thanh, Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam.
7. TS Nguyễn Quốc Khánh - PGĐ Trung tâm Môi trường công nghiệp -
Viện Nghiên cứu mỏ và công nghiệp.
8. TS Bùi Xuân Nam, Trường đại học Mỏ-Địa chất Hà Nội.

















2
BẢNG THỐNG KÊ CHỮ VIẾT TẮT
ký hiệu Diễn giải
ANFO Ammonium NitrateFuel Oil (Hỗn hợp thuốc nổ amonit + dầu mỏ)
BOD
5
Biochemical Oxygen Demand (Yêu cầu oxy cho quá trình
sinh hoá trong 5 ngày)
BTC Bãi thải cố định
BTT Bãi thải tạm
BVMT Bảo vệ môi trường
CNH Công nghiệp hoá
CHLB Cộng hoà Liên bang
CHXHCN Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa
COD Chemical Oxygen Demand (Yêu cầu oxy cho phản ứng hoá)
DO Dissolved oxygen (Oxy hoà tan)
ĐTM Đánh giá tác động môi trường
GDP Gross Domestic Product (Tổng sản phẩm quốc nội)
HĐH Hiện đại hoá
HTKT Hệ thống khai thác
KTLT Khai thác lộ thiên
KSCI Khoáng sản có ích
LKM Luyện kim màu
MXTL Máy xúc thuỷ lực
NPV Net Present Value (Giá trị hiện tại ròng)
SS Chất rắn lơ lửng
TLGN Thuỷ lực gàu ngược
TLGT Thuỷ lực gàu thuận

TCCP Tiêu chuẩn cho phép
TCVN Tiêu chuẩn Việt Nam
TKV Tập đoàn Than Khoáng sản Việt Nam
TVĐT Tư vấn đầu tư
TNKS Tài nguyên khoáng sản
TP Thành phố
UBND Uỷ ban Nhân Dân
VLXD Vật liệu xây dựng




3

MôC LôC
MỞ ĐẦU 5
CHƯƠNG I: HIỆN TRẠNG KHAI THÁC KHOÁNG SẢN VIỆT NAM 10
I.1 Khái quát chung 10
I.2 Tình hình khai thác một số tài nguyên khoáng sản chính 11
I.3 Hiện trạng môi trường trên các mỏ lộ thiên 19
I.4. Công tác bảo vệ môi trường trên ba mỏ khảo sát 36
CHƯƠNG II: NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN HOẠT ĐỘNG KHOÁNG SẢN 64

II.1: Luật Khoáng sản (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2005) 64
II.2. Luật Bảo vệ môi trường (năm 2005) 65
II.3 Các văn bản dưới luật có liên quan đến bảo vệ môi trường trong hoạt
động khai thác khoáng sản 67

II.4. Tình hình thực hiện Luật Bảo vệ môi trường và Luật Khoáng sản. 68

CHƯƠNG III: ĐÁNH GIÁ TỔNG HỢP CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA KHAI
THÁC LỘ THIÊN TỚI CÁC THÀNH PHẦN CỦA MÔI TRƯỜNG. 74

III.1. Phân loại tác hại của khai thác lộ thiên 74
III.2. Các hoạt động gây ô nhiễm từ các mỏ lộ thiên 76
III.3. Các tác động chính của khai thác lộ thiên tới môi trường 77
CHƯƠNG IV: NGHIÊN CỨU CÁC GIẢI PHÁP CÔNG NGHỆ KỸ THUẬT
TRONG KHAI THÁC LỘ THIÊN NHẰM BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG 90

IV.1 Hạn chế sự chiếm dụng đất đai của khai thác lộ thiên. 90
IV.2. Tiết kiệm tài nguyên lòng đất 95
IV.3. Hạn chế sự suy giảm môi trường đất 95
IV.4. Phục hồi chức năng trồng trọt cho đất 101
IV.5. Hạn chế việc xả bụi, khí độc và tiếng ồn vào không khí. 104
IV.6. Xử lý nước thải trên mỏ lộ thiên. 114
IV.7. Xử lý quặng đuôi tuyển nổi và bùn tại hồ thải 121
IV.8. Tận dụng công trình mỏ cũ vào mục đích dân sinh khác. 123
CHƯƠNG V: PHỤC HỒI MÔI TRƯỜNG SAU KHAI THÁC 124
V.1.Công tác chuẩn bị 124
V.2.Khôi phục cải tạo khai trường 128
V.3.Chương trình phục hồi môi trường 135
V.4.Dự toán chi phí phục hồi môi trường 140
V.5. Ký quỹ môi trường 146
CHƯƠNG VI: LỰA CHỌN PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI
TRƯỜNG CHO CÁC DỰ ÁN KHAI THÁC MỎ 155

VI.1. Các phương pháp được khuyến cáo áp dụng 155
VI.2. Phương pháp liệt kê danh mục (checklist methodologies) 155

4

VI.3. Xây dựng ma trận môi trường dùng trong ĐTM các dự án khai thác
lộ thiên. 157

CHƯƠNG VII: NGHIÊN CỨU MỘT SỐ CHỈ TIÊU TRONG HOẠT ĐỘNG
KHAI THÁC LỘ THIÊN CÓ ẢNH HƯỞNG TỚI MÔI TRƯỜNG VÀ PHÁT
TRIỂN BỀN VỮNG 162

KẾT LUẬN 172
TÀI LIỆU THAM KHẢO 176



5
MỞ ĐẦU

Đất nước ta có nguồn tài nguyên khoáng sản khá phong phú và đa dạng
với khoáng sản hơn 5000 khoáng sàng và điểm quặng chứa 70 khoáng sản các
loại đã được tìm thấy, bao gồm các quặng kim loại (sắt, đồng, chì, kẽm, thiếc,
bauxit, titan, …), phi kim loại (apatit, pyrit, cát, sỏi, sét,…) vật liệu xây dựng (đá
granit, đá vôi, bazan, cát, sỏi, sét, ) và than (than antraxit, than nâu, than bùn)
phân bố khắp toàn lãnh thổ đất nước, tạo điều kiện cho ngành khai thác khoáng
sản phát triển, đặc biệt là ngành khai thác khoáng sản bằng phương pháp lộ thiên
(KTLT).
Hiện nay, 60 ÷ 65% than và 100% quặng các loại và vật liệu xây dựng
cung cấp cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu đều được khai thác bằng phương
pháp lộ thiên. Ngành KTLT hàng năm đóng góp vào GĐP hàng chục ngàn tỷ
đồng, tạo nên một khối lượng lớn về nguyên, nhiên vật liệu cho sự phát triển của
các ngành công nghiệp khác; góp phần củng cố và phát huy vị thế
kinh tế,…
chính trị của nước nhà đối với khu vực và thế giới; tham gia vào việc phát triển

và hoàn thiện môi trường kỹ thuật, môi trường xã hội (tạo dựng các tụ điểm dân
cư mới, nâng cao dân trí cho các cộng đồng dân cư vùng sâu, vùng xa); tạo công
ăn việc làm cho hàng chục vạn lao động Bên cạnh sự đóng góp không nhỏ của
ngành KTLT đối với sự phát triển của xã hội nói chung, thì những tác động xấu
của nó tới môi trường cũng khá trầm trọng.
Sự đào bới bề mặt đất đai của KTLT đã phá vỡ các cảnh quan và địa mạo
nguyên thủy của khu vực, gây những xáo trộn về dòng chảy và chế độ thủy văn
đầu nguồn, tổn hại đến rừng phòng hộ, thay đổi cảnh quan khu vực,…
Khai trường, bãi thải, các công trình phụ trợ (mặt bằng công nghiệp, kho
tàng và nhà x
ưởng, đường giao thông,…) của mỏ lộ thiên chiếm dụng một diện
tích khá lớn (chỉ riêng các khai trường lộ thiên vùng Cẩm Phả chiếm 45.10
6
m
2
).
Sự chiếm dụng đó đã làm thu hẹp thảm thực vật, diện tích cây trồng - điều đó
không chỉ gây ảnh hưởng làm thay đổi vi khí hậu toàn vùng mà còn làm ảnh
hưởng đến tính đa dạng sinh học của môi trường. (Một số thực vật bị biến mất,
một số động vật bị tiêu diệt hoặc phải di cư do bị tước mất điều ki
ện sinh sống
hoặc bị chết).
Đặc điểm của KTLT là khối lượng đất đá thải rất lớn gấp hàng chục lần
khối lượng khoáng sản thu hồi (hệ số bóc của than hiện là 8-10m
3
/t hay là 11-
14m
3
/m
3)

. Khối lượng đất đá thải này đã gây hậu quả làm bồi lấp sông suối, sa
mạc hóa đất đai canh tác vùng hạ lưu, phá hủy các công trình đường xá, cầu
cống lân cận (điển hình là các bãi thải đông nam Đèo Nai, tây nam Cọc Sáu-
Quảng Ninh).
Nước ngầm từ mỏ thoát ra kết hợp với nước mặt hòa tan hoặc kéo theo
các chất độc hại, các kim loại nặng,…trong đát đá mỏ, xả
xuống hạ nguồn làm
xấu chất lượng môi trường nước (mỏ pyrít Giáp Lai là một ví dụ), ảnh hưởng tới
năng suất cây trồng và vật nuôi. Đối với các mỏ lộ thiên sâu thì sự bơm thoát

6
nước ngầm ra khỏi đáy mỏ còn làm hạ thấp mực nước, thay đổi chế độ thủy văn
của hệ nước ngầm khu vực.
Hoạt động của các khâu sản xuất trên mỏ lộ thiên như khoan, nổ mìn, xúc
bóc, vận tải, đổ thải, …đều gây bụi, ồn và phát thải các khí độc hay khí nhà kính
vào môi trường không khí, làm ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe của người lao
độ
ng và cộng đồng dân cư vùng lân cận và tác động (dù là rất nhỏ) gây sự biến
đổi khí hậu toàn cầu …
Trước tình trạng nêu trên, đồng thời để hòa nhập vào xu thế chung của thế
giới trong trách nhiệm bảo vệ môi trường, năm1993, Quốc Hội đã thông qua luật
bảo vệ môi trường (BVMT)và sau đó, ngày 12/12/2005 Chủ tịch nước đã công
bố Luật BVMT mới có sửa chữa bổ sung, nhằm thể ch
ế hóa những chính sách
của nhà nước về công tác bảo vệ môi trường đối với tất cả các lĩnh vực của nền
kinh tế quốc dân, trong đó có lĩnh vực hoạt động khoáng sản. Theo đó, Nghị
định số 80/2006/NĐ-CP do Thủ tướng Chính phủ ký ngày 9/8/2006 đã hướng
dẫn chi tiết, cụ thể hơn về các chính sách nói trên; nêu rõ, các tổ chức sản xuất
kinh doanh có trách nhiệm nghiêm chỉnh thực hiện các quy đị
nh của pháp luật

về đánh giá tác động môi trường, đảm bảo thực hiện đúng các tiêu chuẩn môi
trường; phòng, chống, khắc phục suy thoái môi trường; đóng góp tài chính bảo
vệ môi trường, bồi thường thiệt hại do có hành vi gây tổn hại môi trường theo
quy định của pháp luật; tổ chức, cá nhân hoạt động khoáng sản phải tuân theo
tiêu chuẩn môi trường Việt Nam, bao gồm tiêu chuẩn môi trường trong khai thác
các mỏ lộ thiên và khai thác các mỏ hầm lò, Tiêu chu
ẩn khác về chất lượng
nước, không khí, độ rung, tiếng ồn,…
Các quy định về đánh giá tác động môi trường (ĐTM), thẩm định, phê
duyệt các báo cáo ĐTM hoặc cam kết bảo vệ môi trường trong hoạt động
khoáng sản được quy định cụ thể trong Luật BVMT năm 2005, Nghị định
80/2006/NĐ-CP và Thông tư số 08/2006/TT-BTNMT ngày 08/9/2006 về việc
hướng dẫn và lập báo cáo ĐTM.
Trong quá trình thực thi Luật BVMT đã n
ảy sinh nhu cầu về việc cần có
những hướng dẫn chi tiết về lập báo cáo ĐTM riêng cho từng ngành, từng lĩnh
vực hoạt động kinh tế, năm 1999 Cục Môi trường thuộc Bộ KHCN và MT đã
ban hành “hướng dẫn lập báo cáo đánh giá tác động môi trường dự án khai thác
chế biến đá và sét”-là một trong 8 lĩnh vực hoạt động kinh tế khác nhau có bản
hướng dẫn lập báo cáo ĐTM. Bản hướng d
ẫn đã trình bày một cách chi tiết và
đầy đủ nội dung cũng như phương pháp ĐTM cho một dự án khai thác chế biến
đá và sét như mô tả sơ lược dự án; khảo sát đánh giá hiện trạng môi trường nền;
dự án và đánh giá tác động của dự án tới môi trường, cuối cùng là chương trình
quản lý và quan trắc giám sát môi trường. Nhờ có bản hướng dẫn này mà những
báo cáo ĐTM của các dự án khai thác đá và sét trong thời gian qua
đã được trình
bày thống nhất về hình thức kết cấu, đầy đủ chi tiết về nội dung, giúp cho việc
thẩm định, phê duyệt của các cơ quan chức năng được thuận lợi và nhanh chóng
hơn, giúp cho các chủ đầu tư cũng như cơ quan tư vấn có cơ sở pháp lý để xây


7
dựng các báo cáo ĐTM, đáp ứng các yêu cầu về bảo vệ môi trường theo các luật
định Nhà nước ban hành.
Tuy nhiên, khai thác chế biến đá và sét thuộc lĩnh vực khai thác lộ thiên
(KTLT) nhưng chưa đặc trưng đầy đủ cho KTLT các mỏ lộ thiên khai thác đá và
sét có những đặc điểm khác với các mỏ lộ thiên khai thác quặng kim loại, phi
kim loại, than,
Về mặt cấu tạo các khoáng sàng đá, sét thường có cấu tạo dạng khố
i,
dạng ổ, phân bố sát bề mặt đất hoặc nổi trên mặt đất, không có (hoặc có không
đáng kể) lớp đất phủ; Trong khi các khoáng sàng quặng và than thường có cấu
taọ phức tạp, vùi lấp sâu, đất phủ dày,…Đặc điểm này dẫn đến cần coi trọng các
giải pháp môi trường khi khai thác xuống sâu, khi đổ thải, trong bơm thoát nước
mỏ,…
Các khoáng sàng đá, sét thường phân bố tập trung, chiếm ít diện tích, ít
pha tạp chất độc hại. Còn các khoáng sàng quặng, than thường phâm bố rải rác,
phân tán, trải rộng, đòi hỏi phải có diện tích lớn để bố trí khai trường bãi thải và
các công trình công nghiêp phụ trợ và thường tác động tiêu cực đến môi trường
nhiều hơn. Nhất là một số khoáng sàng có chứa chất độc hại, các kim loại quặng
hoặc trong quá trình hoạt động khai thác chế biến có sử dụng các hóa chất độc
hại.
Tài nguyên khoáng s
ản là loại tài nguyên không tái tạo được, trữ lượng có
hạn và ngày càng cạn kiệt, cho nên vấn đề tiết kiệm và khai thác, sử dụng hợp
lý chúng hiện đang là quốc sách hàng đầu nằm trong chiến lược BVMT của
nhiều quốc gia trên thế giới. Đây cũng là vấn đề nhạy cảm đối với quá trình khai
thác các khoáng sàng chứa quặng các loại và than, do vậy, vấn đề tận dụng tối
đa tài nguyên lòng đất, giảm thiể
u tới mức có thể sự tổn thất và làm nghèo (chất

lượng) khoáng sản trong quá trình khai thác cần được xem xét nghiêm túc hơn
so với các khoáng sàng đá văng bằng cách xem vấn đề tổn thất và sử dụng hợp
lý tài nguyên khoáng sản trong khai thác mỏ nói chung, khai thác lộ thiên nói
riêng là một tiêu chí môi trường khi đánh giá phê duyệt dự án. Mạnh dạn đình
chỉ những dự án áp dụng công nghệ gây tổn thất tài nguyên nhiều. Bởi lẽ dành
dụm tài nguyên để lạ
i cho các thế hệ mai sau cũng là một nội dung của chiến
lược phát triển bền vững mà các nước phát triển đang thực hiện.
Bên cạnh những vấn đề nêu trên, báo cáo ĐTM đối với ngành KTLT
cũng cần đề cập tới hiệu quả sử dụng đất của dự án, bởi vì không phải bào giờ
việc sử dụng đất vào việc khai thác khoáng sản cũng mang lại lợi ích lớn h
ơn so
với việc sử dụng chúng vào mục đích kinh tế khác (trồng trọt, du lịch,…).Sự
quan tâm này còn có tác dụng thúc đẩy các chủ dự án tiết kiệm diện tích đất đai
sử dụng, tìm tòi giải pháp thu hẹp diện tích đất đai chiếm dụng của dự án.
Tóm lại, trong hoạt động khoáng sản thì ngành KTLT là đối tượng chủ
yếu, có quy mô, số lượng lớn và ngày càng phát triển về phạm vi hoạt
động,
thiết bị sử dụng, nhân lực tham gia và cũng là đối tượng chính gây ra nhiều tác
động xấu đến môi trường. Để hạn chế và ngăn chặn tới mức có thể những tác

8
nhõn suy gim mụi trng t hot ng KTLT, bờn cnh nhng gii phỏp k
thut, cụng ngh l cỏc gii phỏp v qun lý, giỏo dc thụng qua cỏc lut v vn
bn phỏp quy di lut. cỏc bỏo cỏo TM ca cỏc d ỏn KTLT khụng mang
tớnh hỡnh thc, i phú, m thc s tr thnh mt b phn ca d ỏn u t, tr
thnh mt cụng c giỳp cho ch u t cng nh nh qun lý thc thi ngha v
v chc nng ca mỡnh trong trỏch nhim bo v mụi trng thỡ cn xõy dng
mt vn bn phỏp quy hng dn chi tit vic lp bỏo cỏo TM cho ngnh
KTLT (hin cha cú trong h thng vn bn nh nc), trong ú c bit quan

tõm n ni dung TM ca nhng i tng cú mc nh hng vi tm
quan trng tng i vi mụi trng. Mt khỏc cn th
ch húa gii phỏp sao
cho bỏo cỏo TM thc s kh thi, cỏc cụng trỡnh phũng chng suy gim, bo v
mụi trng ca bỏo cỏo TM tr thnh mt b phn ca d ỏn, c ch u t
thc hin mt cỏch nghiờm tỳc.
T ú, vic tin hnh ti Nghiên cứu xác lập cơ sở khoa học phục vụ
công tác đánh giá tác động môi trờng chuyên ngành đối với các dự án khai thác
lộ thiên l thc s cn thit v bc bỏch i vi nhu cu phỏt trin hin ti
cng nh lõu di ca ngnh KTLT.
Mc ớch ca ti:
1. To lp c s khoa hc phc v cụng tỏc ỏnh giỏ tỏc ng mụi
trng chuyờn ngnh i vi cỏc d ỏn khai thỏc m l thiờn.
2. a ra Bn hng dn k thut lp bỏo cỏo ỏnh giỏ tỏc ng mụi
trng i vi d ỏn khai thỏc m l thiờn.
Phng phỏp nghiờn cu ca ti:
- Thu thp, phõn tớch v ỏnh giỏ chung v cụng tỏc lp v thm
nh bỏo
cỏo TM vi cỏc d ỏn khai thỏc l thiờn.
- Kho sỏt thc t: thu thp cỏc s liu quan trc v phõn tớch cỏc thụng s
mụi trng, c bit l mụi trng khụng khớ, mụi trng nc, ting n v cht
thi rn ti mt s m khai thỏc l thiờn.
- Phng phỏp so sỏnh: i chiu v so sỏnh kt qu iu tra v phõn tớch
vi Tiờu chun Vit Nam v mụi trng;
- Phng phỏp chuyờn gia: Nghiờn cu c lp v cỏc vn
liờn quan
n khai thỏc m, bo v mụi trng trong khai thỏc m, cỏc chớnh sỏch phỏp
lut, t chc ly ý kin chuyờn gia thụng qua tham vn, hi tho,
Trong khuõn kh ca bn bỏo cỏo ny, cỏc vn c trỡnh by l:
1. Hin trng khai thỏc l thiờn i vi cỏc khoỏng sng qung kim loi v

phi kim loi, vt liu xõy dng v than.
2. Cỏc vn bn phỏp quy v mụi trng cú liờn quan n ngnh khai thỏc
khoỏng sn.

9
3. Hiện trạng ĐTM trong ngành KTLT: triển khai thực hiện giải pháp
BVMT trên các mỏ lộ thiên, công tác quản lý môi trường trên các mỏ lộ thiên.
4. Những giải pháp công nghệ kỹ thuật trong KTLT nhằm bảo vệ môi
trường.
Báo cáo không đi sâu vào vấn đề ô nhiễm môi trường trên các mỏ lộ thiên
mà chỉ lồng ghép vấn đề này để làm sáng tỏ các mục tiêu trình bày trong các
phần thích ứng.


10
CHƯƠNG I:
HIỆN TRẠNG KHAI THÁC KHOÁNG SẢN VIỆT NAM
I.1 Khái quát chung
Trong sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, công nghiệp
mỏ giữ vị trí quan trọng để phát triển các ngành kinh tế như năng lượng, xi
măng và vật liệu xây dựng, luyện kim đen và luyện kim màu, phục vụ xuất khẩu
với nguồn thu ngoại tệ lớn cũng như đáp ứng nhu cầu đời sống của nhân dân.
Công nghiệp mỏ Việt Nam bao gồm: ngành than (khai thác chế biến than
antraxit, than nâu, than mỡ, diệp thạch cháy); ngành quặng (khai thác chế biến
quặng kim loại: kim loại đen, kim loại màu, phi kim loại như sắt, mangan, titan,
crôm, bauxit, pyrit, đồng, chì, kẽm, thiếc, nikel, antimoan, moliđen, uranium,
vàng, bạc, đá quý, apatit, graphit, đất hiếm, thuỷ ngân); ngành vật liệu xây
dựng (khai thác chế biến các loại khoáng sản để làm vật liệu xây dựng như đá
vôi làm xi măng, sành sứ, v
ật liệu chịu lửa, cao lanh, thạch anh, amiăng, cát xây

dựng, cát làm thuỷ tinh, cát cuội, sỏi…)
Các khoáng sàng được khai thác chủ yếu là than antraxit, than mỡ, than
nâu, quặng sắt, và kim loại màu; đá cát sỏi làm vật liệu xây dựng; hoá chất công
nghiệp như apatit, pyrit,… Số lượng mỏ đang được khai thác một số khoáng sản
chủ yếu bao gồm: Than (53), than bùn (21), sắt (22), thiếc (12), vàng (11),
mangan (10), chì kẽm (8), inmênít (17), đá vật liệu xây dựng thông thường
(433), đá xi m
ăng (37), đá ốp lát (27), đá phụ gia xi măng (5), sét gạch ngói
(88), cát, sỏi xây dựng (81), sét xi măng (13), đôlômít (8), cao lanh (14), nước
khoáng (50).
Về quy mô khai thác khoáng sản, các mỏ có công suất lớn tập trung trong
ngành công nghiệp than, năm 2004 có 15 mỏ than đạt sản lượng > 1 triệu tấn
nguyên khai/năm; đá vôi phục vụ sản xuất xi măng (sản lượng > 1 triệu tấn
/năm, cát sỏi (>1 triệu m
3
/năm); apatít (> 500 nghìn tấn quặng/năm). Còn lại các
mỏ khoáng sản có quy mô nhỏ hoặc rất nhỏ (5.000 ÷ 10.000 tấn/năm). Từ góc
độ quy mô sản lượng có thể phân ra các doanh nghiệp như sau:
- Các doanh nghiệp khai thác khoáng sản quy mô lớn (> 1 triệu tấn /năm
sản phẩm) có thể kể tới một số công ty khai thác than trong thành phần Tổng
công ty than Việt Nam, một số công ty khai thác đá vôi cho xi măng và khai
thác vật liệu xây dựng trong thành phần Tổng công ty xây dựng Việ
t Nam, xí
nghiệp liên doanh hoặc đầu tư nước ngoài 100%, công ty khai thác apatit trong
thành phần Tổng công ty hoá chất Việt Nam.
- Các doanh nghiệp khai thác khoáng sản quy mô nhỏ và vừa bao gồm
phần lớn các công ty khai thác khoáng sản kim loại và phi kim loại trong thành
phần Tổng công ty thép Việt Nam, Tổng công ty khoáng sản Việt Nam, các
công ty khoáng sản địa phương.


11
- Khai thác quy mô cá thể, tự phát và thủ công tại những vùng có quặng là
hiện trạng rất phổ biến và mang tính hai mặt trong hoạt động khai thác khoáng
sản ở Việt Nam.
Giá trị tổng sản phẩm của các ngành công nghiệp mỏ trong tổng sản phẩm
toàn quốc (GDP) và giá trị sản xuất khoáng sản công nghiệp mỏ được trình bày
trong bảng 1.4 và 1.5
Bảng 1.1: Giá trị tổng sản phẩm của các ngành công nghiệp mỏ trong
tổng s
ản phẩm toàn quốc (Đơn vị GDP: 10
9
đồng)
Năm
GDP cả nước
(theo giá hiện
hành)
GDP công
nghiệp và xây
dựng
GDP của công
nghiệp mỏ
Tỷ lệ GDP công
nghiệp mỏ so
với cả nước (%)
1 2 3 4 5 = 4/2
1995 228.892 65.820 11.009 4,8
1996 272.037 80.876 15.282 5,62
1997 313.623 100.594 19.768 6,30
1998 316.016 117.299 24.196 6,70
1999 399.942 137.959 33.703 8,43

2000 441.646 162.220 42.606 9,64
2001 481.295 183.291 44.544 9,25

Bảng 1.2: Giá trị sản xuất khoáng sản công nghiệp mỏ
(Theo giá cố định 1994 - Đơn vị: 10
9
đồng)
Giá trị
sx
1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001
Dầu khí 10.845 12.467 14.329 16.869 20.582 22.746 23.701
Than 1677 1930 2229 2138 2048 2366 2695
Quặng 236 283 172 200 191 209 230
VLXD 1162 1288 1674 1911 1759 2015 2322
Cộng 13.920 15.968 18.404 21.118 24.580 27.336 28.948
I.2 Tình hình khai thác một số tài nguyên khoáng sản chính.
+ Quặng sắt: Số lượng quặng sắt khai thác và chế biến của Việt Nam giai
đoạn từ 1995 ÷ 2002 rất ít, chỉ khoảng 300.000 ÷ 450.000 tấn/năm, trong đó các
doanh nghiệp của Nhà nước chiếm khoảng 80%, doanh nghiệp tư nhân và các
địa phương là 20%.

12
Công suất thiết kế khai thác mỏ ở quy mô công nghiệp không lớn, cao
nhất chỉ 350.000 tấn/năm. Thực tế sản lượng khai thác lớn nhất một mỏ đạt
250.000 tấn/năm. Chất lượng quặng sắt sau khi khai thác, chế biến không ổn
định, có xu hướng giảm dần theo chiều sâu khai thác.
Các mỏ khai thác tận thu thường không có thiết kế hoặc có nhưng khai thác
không tuân theo thiết kế. Nhiều doanh nghiệp khai thác tận thu đã khai thác bừa bãi
làm tổn thất tài nguyên (không thu được quặng cám có cỡ hạt từ 0 ÷ 20 mm) và làm
suy giảm môi trường.

+ Quặng Crômit: Cho tới thời điểm hiện nay, công nghiệp khai thác, chế
biến quặng crômit tại mỏ Cổ Định tồn tại ở 2 dạng: khai thác quy mô công
nghiệp (sức nước, tàu cuốc) và khai thác thủ công (sức nước). Theo kết quả
thống kê, sản lượng quặng khai thác quy mô công nghiệp đạt cao nhất trong giai
đoạn những n
ăm 1960 ÷ 1964. Trong những năm từ 1995 trở lại đây, sản lượng
quặng khai thác quy mô công nghiệp chỉ chiếm tỷ trọng khoảng 20% trong tổng
sản lượng tinh quặng crômit hàng năm.
Mặc dù khai thác thủ công đem lại sản lượng đáng kể nhưng hậu quả để
lại cho môi trường, môi sinh là đáng kể và đã gây tổn thất tài nguyên khoáng sản
(không khai thác hết tầng quặng lớp dưới, hệ s
ố thu hồi khi tuyển thủ công
thấp…).
+ Quặng Bauxit: Công nghiệp khai thác bauxit và luyện nhôm ở nước ta
hiện nay chưa phát triển. Hiện chỉ có mỏ bauxit Bảo Lộc đang khai thác lộ thiên
bằng ôtô, máy xúc kết hợp với máy gạt và máy xúc tải, tuyển trọng lực rửa bằng
nước với quy mô vài chục nghìn tấn bauxit mỗi năm để cấp cho Công ty hoá
chất Tân Bình thành phố Hồ Chí Minh làm phèn chua. Dự kiến trong thời gian
tới, tổ
hợp này sẽ tăng công suất lên gấp đôi.
Dự án khả thi xây dựng tổ hợp khai thác bauxit, sản xuất alumin và nhôm
Tân Rai Lâm Đồng với công suất 300.000 tấn/năm alumin và 72.000 tấn/năm
nhôm kim loại đã hoàn thành và đang trong giai đoạn phê duyệt. Dự án tiền khả thi
liên doanh với nước ngoài khai thác bauxit và sản xuất alumin Daknông Daklắc với
công suất 1.000.000 ÷ 2.000.000 tấn/năm alumin đang được triển khai.
+ Quặng kẽm chì: Hiện nay việc khai thác qu
ặng và luyện kẽm chì ở quy
mô công nghiệp tập trung ở Công ty LKM Thái Nguyên. Quặng ôxyt kẽm chủ yếu
được khai thác bằng phương pháp lộ thiên để sản xuất bột ôxyt kẽm với sản lượng
4.000 ÷ 5.000 tấn/năm. Quặng sunphua kẽm chì khai thác chủ yếu bằng phương

pháp hầm lò, quy mô nhỏ với sản lượng 10.000 tấn/năm quặng nguyên khai và
được làm giàu bằng công nghệ tuyển nổi cho tinh quặng tinh kẽm đạt 50 ÷ 52 % Zn
và tinh quặng chì đạt 60% Pb. Sản lượng tinh quặng kẽm chì hiện nay đạt 2.000
tấn/năm. Thực thu tuyển nổi kẽm chì hiện nay đạt khoảng 75% với tinh quặng kẽm,
chì cao. Hàm lượng kẽm chì quặng vào là 10 ÷ 12%, nếu hàm lượng vào < 10%, thì
thực thu sẽ giảm.

13
+ Quặng Titan: Giai đoạn đầu quặng titan được tận thu từ các xí nghiệp
sản xuất thiếc như là một sản phẩm phụ cộng sinh, tập trung ở các xí nghiệp
thiếc Tĩnh Túc (Cao Bằng), Sơn Dương (Tuyên Quang). Những năm 1978 ÷
1984 sản lượng quặng tinh inmenhit tận thu đạt ~ 500 ÷ 600 tấn/năm với hàm
lượng 46 ÷ 48% TiO
2
.
Vào cuối những năm 80, hình thành xí nghiệp khai thác - tuyển quặng
titan ở Xương Lý - Bình Định, Hà Tĩnh, Thừa Thiên Huế, Bình Thuận chế biến
quặng titan cung cấp quặng tinh cho sản xuất que hàn ở trong nước và xuất
khẩu. Hiện nay có hàng chục công ty suốt dọc bờ biển từ Thanh Hoá tới Thuận
Hải đang khai thác, chế biến và xuất khẩu quặng tinh titan. Các Công ty lớn là
MITRACO Hà Tĩnh, HUMEXCO Huế, BIMAL Bình Định. Sản phẩm chính
hiệ
n nay là tinh quặng inmenhit trên 52% TiO
2
, tinh quặng zircon trên 57%
ZrO
2
, tinh quặng rutin trên 82%. Gần đây Công ty MITRACO Hà Tĩnh và
HUMEXCO Huế đã nhập công nghệ và thiết bị để sản xuất sản phẩm zircon
siêu mịn chứa trên 65% ZrO

2
. Tổng sản lượng các sản phẩm từ khai thác quặng
titan hiện nay đã vượt trên chục vạn tấn/năm.
Công nghệ khai thác sa khoáng titan ven biển phát triển theo các giai
đoạn như sau:
- Giai đoạn trước năm 1990: Chưa hình thành ngành khai thác - chế biến
sa khoáng titan, trừ một số địa phương khai thác thủ công quặng giàu > 85%
khoáng vật nặng cung cấp cho sản xuất que hàn ở trong nước.
- Giai đoạn 1990 ÷ 1995: Hình thành nhiều xí nghiệp, công ty khai thác
chế
biến quặng titan. Tốc độ phát triển nhanh. Chủ yếu là khai thác, tuyển
thu hồi quặng tinh inmenhit, zircon và rutin, đáp ứng nhu cầu sản xuất que
hàn trong nước. Công nghệ khai thác chủ yếu bằng thủ công chọn lọc những
lớp quặng giàu 80÷85% khoáng vật nặng. Một số cơ sở khai thác thủ công
đưa về tuyển bằng bãi đãi, máng thủ công tách cát và thu hồi khoáng vật
nặng. Tiếp đó tuyển tinh bằng máy tuyển t
ừ, tuyển điện - bàn đãi thu các loại
quặng tinh inmenhit > 52% TiO
2
, zircon 55 ÷ 60% ZrO
2
, rutin đạt > 85%
TiO
2
.
- Giai đoạn 1995 đến nay: Đối với các mỏ lớn như Cẩm Hoà, Kỳ Khang,
Đề Di, Bàu Dòi, Chùm Găng đã áp dụng công nghệ khai thác cơ giới bằng máy
xúc - máy gạt, máy bốc, tập trung quặng về các cụm tuyển thô. Công nghệ tuyển
thô sử dụng phân li côn, vít đứng, v.v. tuyển tinh bằng tuyển từ, tuyển điện, bàn
đãi khí. Đã hình thành bãi thải trong, có quy trình hoàn thổ và sử dụng lại nước

tuần hoàn. Đối với nh
ững mỏ nhỏ nằm phân tán thì được khai thác bằng cơ giới
kết hợp thủ công. Công nghệ tuyển thô sử dụng các cụm vít đứng di động hoặc
máng đãi di động.
+ Quặng thiếc: Việt Nam đã từng bước tiếp thu công nghệ của Liên Xô
(cũ) để khai thác và luyện quặng thiếc ở quy mô công nghiệp như hiện nay. Về
quy mô khai thác kết hợp hình thức khai thác tập trung và phân tán, kết hợp quy

14
mô lớn, vừa và nhỏ, kết hợp với cơ giới, bán cơ giới và thủ công trong cả các
công đoạn khai thác - tuyển khoáng và luyện kim. Cho tới nay quặng thiếc ở
Việt Nam được khai thác chủ yếu bằng phương pháp lộ thiên ở các mỏ sa
khoáng và luyện thiếc bằng công nghệ lò phản xạ và lò điện hồ quang.
Khai thác, tuyển quặng thiếc tự phát thủ công là một đặc điểm nổi b
ật của
ngành thiếc Việt Nam. Nhược điểm lớn của loại hình khai thác này là hủy hoại
môi trường, lãng phí tài nguyên, không an toàn.
Hiện nay ngành thiếc đang đứng trước khó khăn lớn là tình hình cạn kiệt
tài nguyên. Quặng sa khoáng, quặng giàu và chất lượng quặng nói chung đang ở
xu thế giảm. Do vậy cần đầu tư tìm kiếm phát hiện bổ sung tài nguyên, khai thác
và xử lý quặng gốc, quặng nghèo, quặng kém chất lượng, tăng thực thu kim loạ
i,
tăng mức xử lý tổng hợp tài nguyên, tăng các biện pháp bảo vệ môi trường.
+ Quặng đồng: Mỏ đồng Sin Quyền đang khai thác quy mô nhỏ, cho sản
phẩm cuối cùng là tinh quặng đồng với sản lượng 2.500 ÷ 3.000 tấn/năm. Dự án đầu
tư xây dựng liên hợp mỏ tuyển luyện đồng Sin Quyền quy mô lớn đang được thực
hiện công nghệ khai thác là kết hợp khai thác lộ thiên và khai thác h
ầm lò, áp dụng
công nghệ tuyển nổi để cho tinh quặng đồng, tinh quặng đất hiếm và tinh quặng
inmenhit.

+ Quặng vàng: Hiện nay một số xí nghiệp khai thác vàng trong nước và
liên doanh với nước ngoài quy mô nhỏ đang hoạt động, sản lượng khoảng 70
kg/năm. Công nghệ khai thác chủ yếu là thủ công kết hợp với cơ khí. Các xí
nghiệp khai thác vàng quốc doanh thường bị lỗ vì công nghệ lạc hậu, thiếu vốn,
thi
ết bị không đồng bộ, công tác quản lý kém. Hiện nay khai thác thủ công là
chủ yếu, chỉ khai thác quặng giàu, không có khả năng thu hồi được các nguyên
tố đi kèm và gây ô nhiễm môi trường.
+ Quặng antimon: Được khai thác ở mỏ Làng Vài - Tuyên Quang từ năm
1969. Sản lượng khai thác 50 ÷ 200 tấn/năm để sản xuất Sb kim loại. Tổng số
quặng đã khai thác khoảng 8000 tấn. Đến năm 1990 các thân quặng giàu đã khai
thác hết. Trữ lượng còn lạ
i có hàm lượng dưới 5% Sb, nên sản xuất không có lãi
phải tạm ngừng. Hiện tại xí nghiệp khai thác, tuyển, luyện antimon Hà Giang
của Công ty khoáng sản Hà Giang đã đi vào hoạt động vào đầu năm 2003. Công
suất thiết kế là 1000 tấn/năm antimon kim loại.
Nhu cầu antimon ở nước ta hiện nay khoảng 1000 tấn/năm chủ yếu dùng
làm hợp kim chì - antimon, dùng trong công nghiệp sản xuất ắc quy, hợp kim
chữ in, hợp kim chịu mài mòn và một phần nhỏ sunphát atimon dùng trong công
nghiệp thuốc nổ.
+ Quặng mangan: Được sử dụng chủ yếu cho sản xuất feromangan trong
ngành luyện kim và sản xuất pin. Mỏ mangan Tốc Tác, Trà Lĩnh - Cao Bằng hiện
đang khai thác lộ thiên thân quặng deluvi, công nghệ thủ công, khai thác tận thu với
công suất 12.000 ÷ 15.000 tấn/năm dùng cho sản xuất feromangan. Ngoài ra mỏ

15
Làng Bài - Tuyên Quang cũng được khai thác với sản lượng 2000 ÷ 2500 tấn
quặng tinh năm để phục vụ cho sản xuất pin.
+ Quặng đất hiếm: Công tác nghiên cứu khoa học công nghệ xử lý quặng
đất hiếm ở trong nước đã được triển khai từ cuối những năm 60. Ở quy mô

phòng thí nghiệm và pilot, đã có công nghệ xử lý quặng đất hiếm để cho các sản
phẩm như tinh quặng đất hi
ếm trên 30% ReO, tổng oxyt đất hiếm trên 90% tổng
ReO, các oxyt đất hiếm riêng rẽ trên 90% ReO, hợp kim trung gian đất hiếm,
fero đất hiếm và một số kim loại đất hiếm. Tuy nhiên do chưa có thị trường nên
các sản phẩm nêu trên chưa có điều kiện trở thành thương phẩm. Đất hiếm là
một thế mạnh về tài nguyên khoáng sản của Việt Nam. Tuy nhiên tiềm năng này
còn chưa được khai thác ở mức cần thiết, thực ch
ất, ở Việt Nam chưa có khai
thác và chế biến đất hiếm ở quy mô công nghiệp.
+ Quặng Apatit: Mỏ Apatit Lào Cai bắt đầu khai thác từ 1957 theo đề án
thiết kế của Liên Xô với công suất 500.000 tấn/năm quặng loại I, Quặng III thu
hồi nhân thể trong biên giới khai thác chưa có điều kiện sử dụng được về lưu
kho ở các bãi chứa. Năm 1981, để đáp ứng yêu cầu quặng apatit cho sản xu
ất
phân bón ngày càng lớn, đã tiến hành thiết kế mở rộng mỏ và xây dựng nhà máy
tuyển để làm giàu quặng III.
Tổng sản lượng apatit trong một số năm lại đây ổn định ở mức 580.000
tấn/năm, trong đó 260.000 tấn/năm là quặng tinh, chủ yếu cho nhu cầu nội địa.
Hiện tại, các khu vực khai thác thuận lợi đã dần hết quặng, số còn lại đi
ều kiện
khai thác khó khăn hơn.
+ Quặng cao lanh: Ở Việt Nam, do chưa có công nghệ chế biến cao lanh,
nên chỉ xuất khẩu cao lanh loại tốt, được lựa chọn ra từ cao lanh nguyên khai.
Loại kém chất lượng phải thải bỏ, gây lãng phí tài nguyên. Trong khi đó, phải
nhập cao lanh đã chế biến với giá cao hơn 3 ÷ 4 lần so với giá xuất.
Khai thác cao lanh phát triển ở vùng Đông Nam Bộ và Lâm Đồng. Năm
1999, có gần chụ
c cơ sở khai thác cao lanh ở các mỏ Đất Quốc, Chành Lưu, Lái
Thiêu thuộc Sông Bé, Đồng Nai, TP Hồ Chí Minh, sản lượng của các mỏ này

đạt 375 ngàn tấn/năm.
Ngoài hai vùng trên, cao lanh còn được khai thác ở Lào Cai, Hà Tĩnh,
Quảng Bình, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Khánh Hoà, Lâm Đồng. Tổng sản lượng
khoảng trên 100 ngàn tấn/năm.
Sản lượng khai thác tự do trong dân chúng hàng năm cũng vào khoảng
500 ngàn tấn, tập trung ở Đồng Nai, Sông Bé, TP Hồ Chí Minh, Vĩnh Phú, Yên
Bái, Quảng Nam.
Riêng quặng kaolin - pyrophilit khai thác ở mỏ
Tấn Mài - Quảng Ninh.
Đến năm 1994 đạt 27 ngàn tấn/năm. Từ năm 1997 trở lại đây, sản lượng tăng lên
tới 35 ÷ 50 ngàn tấn/năm, chủ yếu khai thác chọn lọc lấy quặng tốt để xuất khẩu
hoặc bán trong nước.

16
+ Quặng graphit: Nhu cầu sử dụng graphit ở nước ta còn nhỏ, chủ yếu
chỉ để sản xuất pin và điện cực. Dự báo năm 2005, nhu cầu graphit trong nước
sẽ có thể vượt trên 5.000 tấn/năm.
Các mỏ đang khai thác - chế biến graphit là Mậu A - Yên Bái, Nậm Thi
(Lào Cai), Hưng Nhượng - Quảng Ngãi. Công nghệ khai thác lộ thiên, được cơ
giới hoá bằng ôtô - máy xúc kết hợp thủ công chọn lựa trong khai thác để bóc
đấ
t đá vách và đá kẹp như ở Mậu A. Làm giàu quặng graphit bằng tuyển nổi.
Sản lượng graphit các năm gần đây (1995 ÷ 1998) đạt từ 1.450 ÷ 1.850 tấn. Mỏ
Nậm Thi (Lào Cai) từ trước năm 1996 đã liên doanh với Công ty Paslsa
(Australia). Trong nước hiện chưa có công nghệ tuyển để đưa hàm lượng cacbon
lên > 95%. Việc khai thác graphit cần tính đến công nghệ tận thu các khoáng sản
có ích đi kèm để tăng thêm giá trị kinh tế.
+ Quặ
ng Barit: Barit được khai thác từ năm 1939 ÷ 1942 ở khu núi chùa
Hà Bắc với 3.000 ÷ 4.000 tấn, năm 1965 ÷ 1978 xí nghiệp barium thuộc sở

Công nghiệp Bắc Giang khai thác barit được 9588 tấn, trung bình 685 tấn/năm.
Từ năm 1939 đến năm 1982, sản lượng nâng lên trung bình 2000 tấn/năm. Năm
1983 chuyển sang khai thác ở khu Làng Cao với sản lượng 2000 tấn/năm. Mỏ
Sơn Thành khai thác từ năm 1980 - 1981 với sản lượng 2.400 ÷ 2.600 tấn/năm,
tổ
ng cộng đến năm 1996 đã khai thác 14.500 tấn.
Ngoài ra, từ năm 1989 đã tiến hành khai thác barit tại các mỏ Đại Từ (Bắc
Thái), Tân Trào (Tuyên Quang), sản lượng trung bình vài nghìn tấn/năm. Tính
tổng cộng từ thời Pháp thuộc đến nay đã khai thác khoảng 200.000 ngàn tấn
quặng barit, trong đó lượng khai thác năm 1954 được khoảng 100.000 ngàn tấn.
+ Quặng Pyrit: Hiện tại giá lưu huỳnh nguyên tố ngày càng giảm, vì vậy
từ nay đến 2010, không có kế hoạch
đầu tư khai thác, chế biến quặng pyrit. Các
nhà máy hoá chất - supe phốt phát Lâm Thao, Long Thành, Thủ Đức đã và sẽ
không sử dụng pyrit để sản xuất axit sunfuric. Mỏ pyrit Giáp Lai đã đóng cửa.
Khi tổ hợp Đồng Sin Quyền Lào Cai đi vào sản xuất thì sản lượng axit sunfuric
của tổ hợp theo sẽ đạt trên 40 ngàn tấn/năm. Sản lượng tinh quặng lưu huỳnh có
S > 38% đạt khoảng 18 ngàn tấn/năm sẽ đủ đáp
ứng nhu cầu trong nước.
+ Quặng Bentonit: Bentonit được sử dụng trong nhiều ngành công nghiệp
của nền kinh tế quốc dân. Tuy vây, hiện tại sản lượng khai thác - chế biến còn rất
thấp. Theo niên giám thống kê 1998, sản lượng các năm chỉ đạt dưới 5.000 tấn.
Trong tương lai, việc sử dụng bentonit sẽ được mở rộng do nhu cầu làm
dung dịch khoan dầu khí, chất tẩy lọc trong công nghiệp và công nghệ lọc dầu.
Hiện tại, các lĩnh vực sản xuất chế biến thực phẩm (như làm bia, nước chấm,…)
còn phải nhập ngoại bentonit chất lượng cao.
Công nghệ chế biến bentonit của Việt Nam chưa đạt được sản phẩm cao
cấp đáp ứng mọi yêu cầu của nền kinh tế quốc dân.
+ Khoáng sản làm vật liệu xây dựng: Ngành công nghiệpVLXD gồm hai
mảng: khai thác và chế biế

n trực tiếp tạo ra VLXD như đá xây dựng, cát vàng,

17
cát đen xây dựng, sỏi cuội xây dựng; khai thác, chế biến và nung luyện tạo ra
sản phẩm VLXD như đá làm xi măng, đá làm kính xây dựng.
Trước thời kỳ đổi mới, khai thác và chế biến TNKS làm VLXD đều có
trang bị kỹ thuật kém, chủ yếu làm thủ công, tỷ trọng thiết bị máy móc trong các
mỏ vật liệu chỉ đạt < 50% và phần lớn là không đồng bộ.
Từ năm 1986 việc khai thác và chế biế
n tài nguyên làm VLXD bắt đầu
phát triển mạnh: từ chỗ khai thác TNKS làm VLXD thông dụng như xi măng,
gạch, ngói, đá, cát sỏi, vôi xây dựng,… đến nay chúng ta đã sản xuất được cả
các chủng loại VLXD cao cấp như gạch ceramic, gạch granit nhân tạo, sứ vệ
sinh, kính xây dụng, đá ốp lát,… Một số loại nguyên liệu và sản phẩm VLXD đã
được xuất khẩu ra nước ngoài như cát trắng, cát vàng, đá ốp lát, g
ạch ngói nung,
kính xây dựng, sứ vệ sinh, gạch ceramic và một số loại vật liệu trang trí hoàn
thiện khác.
- Đá vôi làm xi măng: Xi măng là chủng loại VLXD quan trọng nhất của
ngành xây dựng, do vậy việc khai thác và chế biến đá làm xi măng được quan
tâm số một của lĩnh vực xi măng.
- Đá vôi làm xi măng đòi hỏi hàm lượng: CaCO
3
≥ 96%; MgCO
3
≤ 1,5%.
Hiện nay, cả nước có 63 mỏ đá vôi với khả năng khai thác 16 ÷ 17 triệu
m
3
/năm để đảm bảo cho năng lực sản xuất 15,73 triệu tấn xi măng/năm. Trong

đó có 9 mỏ đá lớn với năng lực khai thác và chế biến 14 triệu m
3
/năm, phục vụ
cho 9 nhà máy xi măng lò quay (năng lực sản xuất 12,73 triệu tấn/năm) và 55
mỏ nhỏ năng lực khai thác 3 triệu m
3
đá/năm, phục vụ cho 55 nhà máy xi măng
lò đứng của địa phương là chủ yếu (năng lực sản xuất 30 triệu tấn/năm).
- Đá xây dựng và làm đường giao thông: Cho tới thời điểm 1997 cả nước
có khoảng 100 cơ sở khai thác, chế biến đá làm đường do cấp Trung ương và
tỉnh quản lý, nhưng chỉ có 28 xí nghiệp được đầu tư thiết bị hiện đại, trong
đó có
5 xí nghiệp liên doanh với nước ngoài và chiếm 1/3 sản lượng (52 triệu tấn), số
lượng còn lại do 70 xí nghiệp với thiết bị đã cũ của Liên Xô (cũ), Ba Lan và
khoảng 200 cơ sở khai thác của tư nhân (hoặc địa phương cấp huyện quản lý) sử
dụng máy nghiền loại nhỏ đảm nhận.
- Cát sỏi xây dựng: Trong tự nhiên cát và sỏi thường tồn tại xem lẫn
nhau. Những mỏ
có nhiều sỏi, lắng đọng thành lớp ở dưới tầng cát, thì có
thể khai thác cát riêng, khai thác sỏi riêng. Hiện nay, khai thác cát tự
nhiên là chính vì có trữ lượng rất lớn. Còn sỏi thì đã có đá thay thế, nên
khai thác sỏi riêng chỉ khi có đủ điều kiện, còn lại chỉ là sàng lọc tận
dụng các loại sỏi ở trong cát.
Khai thác sỏi ở miền Bắc đã được tiến hành ở Sông Lô bằng tàu cuốc sỏi,
mỗi năm vài ch
ục ngàn khối, còn lại chủ yếu là lượng sỏi do tư nhân xúc chọn ở
các lòng suối cạn. Cả nước ước tính một vài triệu m
3
/năm.


18
Cát xây dựng, đặc biệt là cát đen, phân bố tương đối rộng dọc các triền
sông suối. Năm 2001 cả nước đã khai thác 24,8 triệu m
3
cát vàng cho xây dựng
(chưa kể lượng cát cho ngành giao thông làm đường). Cát đen làm vữa xây và
để san lấp có số lượng lớn gấp 2 ÷ 4 lần số lượng cát vàng.
- Cát trắng (cát thủy tinh): Cát trắng ở Việt Nam dùng để sản xuất thủy
tinh có trữ lượng lớn, song loại có thành phần hóa học tốt nhất (không phải điều
chỉnh lại thành phần hóa học) có thể sản xuất được thủy tinh cao cấp là mỏ cát
trắng Vân Hải ở Miền Bắc và mỏ cát trắng ở Cam Ranh, Miền Trung.
- Đất sét phục vụ sản xuất xi măng: Đất sét là nguyên liệu cho sản xuất xi
măng chiếm khoảng 24% tổng số các nguyên liệu. Hiện nay có 64 mỏ sét được
khai thác phục vụ sản xuất xi măng. Các mỏ này có năng lực khai thác trên 7,65
triệu tấn/năm. Trong đó có 9 mỏ sét lớn phục vụ các nhà máy xi măng lò quay
với tổng nă
ng lực khai thác trên 5,76 triệu tấn/năm và 55 mỏ sét nhỏ phục vụ các
nhà máy xi măng lò đứng có tổng năng lực khai thác trên 1,35 triệu tấn/năm.
Theo nhu cầu sản xuất xi măng, các mỏ sét năm 2002 đã cung cấp đủ với khối
lượng đạt 9,313 triệu tấn sét.
- Đất sét làm gạch ngói nung: Gạch ngói nung là loại VLXD thông dụng
từ lâu đời và nhu cầu cho xây dựng các công trình công cộng và cho nhân dân
ngày càng phát triển, chỉ tính năm 2001 cả nước sản xu
ất được 8,471 tỷ viên
gạch và 467 triệu viên ngói và đã phải khai thác tổng cộng là 17,123 triệu m
3
đất
gạch ngói.
- Cao lanh: Ở Việt Nam có tới 203 mỏ cao lanh lớn, nhỏ nhưng theo
thống kê hiện mới có 17 mỏ được cấp giấy phép hoạt động. Sản phẩm cao lanh

dùng làm sứ vệ sinh, gạch men sứ, sứ cách điện cung cấp cho ngành y tế và các
ngành khác.
- Sét chịu lửa: Chủ yếu được khai thác tại mỏ sét trắng Tuyên Quang và
mỏ sét trắng Trúc Thôn.
Mỏ sét trắng Tuyên Quang được khai thác từ năm 1931 và liên tục cho
đến nay. Tính
đến năm 1996 mỏ đã bóc được 203.353 m
3
đất phủ và lấy được
385.897 tấn sét. Sản lượng sét hàng năm khai thác dao động từ 1217 tấn (1969)
đến 18.379 tấn (1988) đến 20.000 tấn (2000). Hệ số bóc đất dao động từ 0 ÷ 1,8
m
3
/tấn sản phẩm, trung bình 0,61 m
3
/tấn. Hiện tại, đã khai thác hết sét ở các khu
Tân Phủ, Gốc Si, Đầm Chàng, Ao Ấn, Núi Đá, Đường Hiên. Đầm Sen, Hưng
Kiều, Bắc Đầm Thắm. Trong những năm tới sẽ khai thác ở Bắc Đầm Sen, và
Nghiêm Sơn. Trữ lượng sét còn lại khoảng 730.000 tấn chất lượng có thể xấu
hơn.
Mỏ sét trắng Trúc Thôn được khai thác từ những năm 1965 đến nay để
cung cấp sét cho nhà máy gạch chịu l
ửa Cầu Đuống và khu gang thép Thái
Nguyên. Sản lượng của mỏ lên xuống thất thường: 1965 ÷ 1966 là 3.500
tấn/năm, năm 1973 chỉ đạt hơn 1.000 tấn, đến năm 1975 tăng lên 10.750 tấn sau
đó giảm dần đạt trung bình 3.200 ÷ 5.600 tấn/năm. Những năm sau này sản

19
lượng tăng nhanh 1.700 tấn (1993) và 16.000 tấn (1997). Tính đến 1992 mỏ đã
khai thác tổng cộng 132.445 tấn, bóc đất 373.356 m

3
. Hệ số bóc đất ở công
trường đất chịu lửa và công trường sét trắng của mỏ tương tự như nhau, trung
bình là 2,82 m
3
/tấn. Trữ lượng còn lại hiện nay 8.338.890 tấn. Hệ số tổn thất tài
nguyên của mỏ là 5%.
- Đá ốp lát: Hiện nay, sản xuất đá ốp lát của nước ta được tiến hành trên
15 tỉnh, thành phố, gồm 35 cơ sở với năng lực sản xuất đạt 1.260 ngàn m
2
.
Trong giai đoạn vừa qua, đã xuất khẩu đá ốp lát ra một số nước như: Nhật
Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, Ả Rập Xêút, Canađa…, song với khối
lượng chưa nhiều do thiết bị sản xuất thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu
kỹ thuật của khách hàng.
+ Tình hình khai thác than: Ở Việt Nam khai thác than là ngành sản xuất
có quy mô công nghiệp lớ
n nhất trong lĩnh vực khai thác khoáng sản và tập
trung chủ yếu ở tỉnh Quảng Ninh, ngoài ra khai thác than còn được tiến hành ở
một số tỉnh miền Bắc và miền Trung.
Trong giai đoạn 10 năm trở lại đây, tốc độ tăng trưởng sản lượng khai
thác than dao động từ 7,1% đến 37%, trung bình 15% năm. Năm 2004, toàn
ngành Than đã khai thác 27,3 triệu tấn than nguyên khai. Trong khai thác than
sử dụng hai công nghệ là hầm lò và lộ thiên.
Đối với công ngh
ệ khai thác lộ thiên, các thiết bị công nghệ tương đối
đồng bộ và hiện đại, đạt được sản lượng cao. Hiện nay sản lượng than lộ thiên
chiếm khoảng 64% tổng sản lượng khai thác than.
Theo dự báo hiện nay, nhu cầu than thương phẩm cho nội địa và xuất
khẩu đến năm 2010 khoảng 39 ÷ 42 triệu tấn, 2015: 48 ÷ 51 triệu tấn và 2020:

53 ÷ 56 triệu tấn. Để đạt được mụ
c tiêu và đáp ứng nhu cầu trên, ngành than
đang tiếp tực quy hoạch mở rộng các mỏ hiện đang khai thác và xây dựng các
mỏ mới theo hướng mở rộng tối đa biên giới các mỏ lộ thiên (cả chiều rộng lẫn
chiều sâu).
I.3 Hiện trạng môi trường trên các mỏ lộ thiên
Quá trình khai thác lộ thiên xảy ra hầu hết ở mọi loại khoáng sản từ nhiều
năm nay, trước khi xuất hiện các Luậ
t và văn bản pháp quy dưới luật về môi
trường. Những hậu quả để lại của khai thác lộ thiên đối với môi trường nhìn
chung là nặng nề và khá trầm trọng. Dưới đây trình bày một số tình trạng cụ thể
về ô nhiễm môi trường gây ra do một số hoạt động khai thác lộ thiên.
I.3.1 Hiện trạng môi trường trên các mỏ than
* Môi trường không khí
a) Bụi: ở tất cả các công đoạn sản xu
ất mỏ đều sinh ra bụi.
- Khoan nổ mìn ở các mỏ lộ thiên và hầm lò: Khi phá nổ 1m
3
đất đá tạo ra
từ 0,027
÷0,17kg bụi, mỗi mỏ lộ thiên lớn phá nổ từ 5
÷
10 triệu m
3
đất đá /năm,

20
lượng bụi sinh ra vô cùng lớn. Trong một đợt nổ mìn ở các mỏ lộ thiên tạo ra
đám bụi cao 150
÷200m, ở khoảng cách xa bãi nổ khoảng 30-40m có hàm lượng

bụi từ 800
÷5000mg/m
3
, trong khi nếu máy xúc không làm việc nồng độ bụi chỉ
có 18,5 mg/m
3
.
- Các bãi thải, nhất là bãi thải nam mỏ Hà Tu, bãi thải mỏ Đèo Nai- Cọc
Sáu, cao hàng trăm mét, nằm sát khu vực dân cư khi bị xói mòn do gió thổi và
đổ thải tao ra lượng bụi rất lớn, phạm vi tác động rộng. Trong khi đó khu vực
đệm giữa bãi thải và khu vực dân cư chỉ hẹp khoảng 100
÷
200m chưa đủ để
ngăn chặn bụi lan toả.
- Việc tồn tại nhiều mỏ nhỏ, lộ vỉa (hợp pháp và không hợp pháp), vận tải
than bằng ô tô qua khu vực dân cư đã gây ô nhiễm thêm về bụi. Bụi sinh ra từ cá
hoạt động quy mô nhỏ tuy ít, nhưng do nhiều cơ sở nên tổng lượng bụi và nồng
độ bụi đủ để gây tác hại và tàn phá môi trường. Theo các số liệu thống kê khai
thác 1000 tấn than khai thác ở các mỏ hầm lò tạo 11
÷
12 kg bụi, khai thác lộ
thiên lượng bụi sinh ra lớn gấp hai lần.
Tổng lượng bụi sinh ra trong các công đoạn sản xuất chính (khai thác, vận
chuyển, sàng tuyển) năm 1995 với sản lượng than 7,5 triệu tấn, ước tính khoảng
340 tấn bụi, năm 1995 là 400tấn, năm 1998 là 484 tấn với tốc độ gia tăng sản
lượng than hàng năm trên 10%, tổng lượng bụi và nồng độ bụi chung của vùng
than Quảng Ninh cũng s
ẽ tăng nhanh theo thời gian và làm suy giảm chất lượng
khô khí toàn vùng.
Bảng 1.3: Tổng hợp chất lượng không khí tại các mỏ than lộ thiên

Nồng độ bụi Khí độc
Địa điểm
đo và khảo
sát

Tổng
mg/m
3
Hạt/
cm
3
%hạt
<
µ
m
Hô hấp
mg/m
%
SiO
2

%
CO
2
CO
Mg/m
3
NO
2
mg/m

3
Ngoài khu
vực khai
thác than
4
÷
10
2800
÷

1500
88 12
14
÷
30

0,8 ÷0,2

13 ÷2


Khu vực
trung tâm
khai thác
đáy moong
130
÷
90
4200
÷


2000
85 25
12
÷
16

2,5 ÷1

16 ÷2

2,5
÷
0,5
Khu vực
sườn
moong (lân
cận)
140
÷
50
4550
÷

2000
90 30
10
÷
24


2,8 ÷1,5

18 ÷2,2

2,5
÷
0,5
Nơi đặt
thiết bị máy
móc
145
÷
50
4600
÷

2000
85 28
16
÷
22

3,8 ÷4,2

25 ÷2

4
÷
1



21
Bảng 1.3 là số liệu đo đạc chất lượng không khí. Cho đến nay chúng ta
chưa có sơ sở dữ liệu về môi trường nên không có số liệu để so sánh đánh giá
qua từng thời kỳ, từng năm. Chúng ta cũng chỉ mới xác định lượng bụi lơ lửng,
chưa có số liệu về lượng bụi lắng đọng.
Những tác hại do bụi gây ra đối với môi trường vùng Quảng Ninh gồm:
- Tác hại về sức khoẻ: gây ra bệnh phổi và bệnh về đường hô hấp. Theo số
liệu thống kê, tỉnh Quảng Ninh hiện nay có khoảng 4000 người mắc bệnh phổi,
chiếm gần 50% con số toàn quốc. Tỷ lệ thợ lò bị bệnh silicosis chiếm tới 80%
tổng số công nhân ngành than bị bệnh này.
- Tác hại đến các công trình, máy móc và vật liệu: Do bụi có chứa các chất
hoá học, ăn mòn kim loại, làm xuống cấ
p chất lượng các công trình, máy móc,
nhất là trong điều kiện nước ta độ ẩm cao.
- Tác hại đến hệ thực vật: sự tích tụ bụi trên các lá cây làm giảm khả năng
quang hợp, trong đó bụi có chứa các chất độc tố làm ảnh hưởng đến sự phát
triển của cây cối.
Trong thời gian qua đã áp dụng nhiều giải pháp để hạn chế bụi. Phương
pháp tưới nước dập b
ụi là phương pháp chủ yếu được áp dụng với các quy mô
khác nhau tại các mỏ lộ thiên, hầm lò cũng đã thử nghiệm nâng cấp đường mỏ,
áo đường bằng bê tông hay bê tông asphan và trồng cây xanh hai bên đường vận
tải chính để ngăn ngừa bụi lan toả. Hiệu quả của công tác tưới nước chống bụi bị
giảm xuống trong mùa hè và mùa khô vì tốc độ bay hơi của nước cao, đòi hỏi
lượng nướ
c tưới lớn, số lần tưới tăng lên. Hệ thống phun nước áp suất cao, tạo ra
sương mù được lắp đặt tại một số địa điểm trên đường giao thông, khu vực nhà
máy tuyển than, trạm trung chuyển than. Nói chung các giải pháp trên đã làm
giảm được lượng bụi bay lơ lửng, cần phải mở rộng áp dụng và lựa chọn hệ

thống ít phải sửa chữa, dễ bảo qu
ản.
Khi so sánh với các thành phố công nghiệp và ven biển khác ở Việt Nam,
vấn đề chống bụi ở thành phố Hạ Long, thị xã Cẩm Phả và các mỏ than vùng
Quảng Ninh được xem xét là trầm trọng do các hoạt động khai thác than quy mô
ngày càng lớn, khu vực bị ảnh hưởng rộng. Những giải pháp chống bụi đang
được áp dụng trong nhiều trường hợp chưa đáp ứng được tiêu chuẩn về sức khoẻ
và môi tr
ường hiện có.
Những số liệu về bụi, nhất là bụi lắng đọng chưa đủ cả về số lượng và chất
lượng để có thể xây dựng một chiến lược giảm thiểu bụi cho các mỏ cũng như
việc đánh giá mức độ ô nhiễm bụi do hoạt động khai thác mỏ so với các hoạt
động khác xảy ra trong khu vực.
b) Khí độc: Bao gồm hai dạng: Độ
chứa khí tự nhiên và phát sinh trong quá
trình sản xuất. Khí Mêtan (CH
4
) là khí đi kèm, chứa trong các vỉa than, trong
quá trình khai thác than, lượng khí này thoát ra và la toả vào không khí.

22
- Ở các mỏ lộ thiên, ngoài CH
4
có chứa trong tự nhiên còn có các loại khí
độc sinh ra do nổ mìn, đốt cháy xăng dầu của xe máy, than tự cháy vv nên
lượng khí độc ở mỏ lộ thiên lớn gấp nhiều lần so với các mỏ hầm lò.
Trong một năm mỗi xe ô tô loại tải trọng 30
÷
35 tấn, thải ra khoảng
100

÷150kg các chất khí hydrô cácbon, mỗi mỏ sử dụng hàng trăm xe ô tô như
vậy lượng khí độc thải ra sẽ rất lớn.
Khí độc thải ra do nổ mìn cũng rất lớn: sau vụ nổ 38 giây, ở khoảng cách
50m hàm lượng CO có trong không khí là 0,1%, khí NO
2
là 0,2%, khí CO còn
lưu lại trong đống đất đá nổ mìn cũng như vùng than lân cận trong khoảng cách
100
÷
200m. ở độ sâu 1,5
÷
10m của đống đá nổ mìn hàm lượng CO đạt tới 4,5%,
khí NO
2
là 0,025%.
Khảo sát ở moong mỏ Cọc Sáu ở độ sâu -50 nồng độ khí CO là 90mg/m
3
,
trong khi tiêu chuẩn cho phép chỉ có 5mg/m
3
.
Ở các mỏ lộ thiên, các khí độc tuy có nồng độ cao nhưng chỉ tập trung tức
thời ở khu vực khai trường, sau đó khuếch tán nhanh vào không khí, nên số liệu
nồng độ khí độc quan trắc trung bình ngày đều thấp hơn giới hạn cho phép.
c) Vi khí hậu: Trong điều kiện mỏ lộ thiên khi xuống sâu và mỏ hầm lò cần
nghiên cứu điều kiện vi khí hậu mỏ, trong đó lưu ý đến nhiệt độ
và khí độc.
- Các mỏ lộ thiên ngày càng xuống sâu. Hiện nay mỏ Cọc Sáu đang khai
thác ở mức -75, độ sâu đáy mỏ so với địa hình bao quanh là 200m, khi kết thúc
sẽ lên đến 300m, diện tích khai trường hẹp thông gió mỏ khó khăn. Mỏ ngày

càng sử dụng thiết bị cỡ lớn: máy xúc, ô tô, máy gạt, máy khoan, máy bơm nước
vv Các loại thiết bị này làm việc ở đáy mỏ thoát nhiệt vào môi trường rất lớn.
Các yếu tố ảnh h
ưởng đến chế độ nhiệt mỏ lộ thiên:
+ Năng lực bức xạ là yếu tố ảnh hưởng lớn nhất do nước ta vùng nhiệt đới.
Bảng 2.4 giới thiệu kết quả đo đạc thời gian chiếu sáng trong ngày và lượng bức
xạ thực tế ở vùng Quảng Ninh.
Bảng 1.4: Kết quả đo đạc thời gian chiếu sáng:
Tháng
Các
Chỉ tiêu
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Cả
năm
Thời
gian
chiếu
sáng
ngày, giờ
10,52 11,2 11,52 12,3 13 13,16 15,18 12,44 12,1 11,34 11,02 10,44

Lượng
bức xạ
Kcal/cm
3
7,3 5,8 7,3 9,8 13,4 11,5 13,1 13 11,1 11,3 8,6 6,2 620,1

23
Trong những ngày mặt trời chiếu sáng, bề mặt lớp đất đá hấp phụ một phần
năng lượng làm tăng nhiệt độ đất đá, một phần phản xạ lại không gian, một phần

truyền cho các lớp không khí nằm gần đó.
+ Áp suất cũng có ảnh hưởng lớn đến trạng thái của khí quyên trên công
trường nhất là trong những ngày lặng gió hay tốc độ gió dưới 2m/giây.
Do các yế
u tố đó tạo nên sự chênh lệch nhiệt độ ở đáy mỏ bao giờ cũng cao
hơn bề mặt từ 3-8
o
C. Lượng khí độc thường tích tụ ở đáy mỏ, đã xảy ra một số
trường hợp khi nổ mìn bị nổ và cháy khí.
Do nghiên cứu về khi hậu và tìm biện pháp cải thiện môi trường là một nội
dung quan trọng khí các mỏ lộ thiên xuống sâu. Vấn đề này đã được đề cập đến
từ cuối thập kỷ 70 của thế kỷ 20, nhưng chưa được quan tâm đúng mức và ch
ưa
thu được các kết quả khả thi.
d) Tiếng ồn và độ rung: Trong sản xuất than, tiếng ồn và độ rung do hoạt
động của máy móc và thiết bị là không thể chánh khỏi.
- Tiếng ồn: ở các mỏ lộ thiên, tiếng ồn do các thiết bị khoan, xúc, các loại
xe ôtô vận chuyển đất đá, do các máy nén khí, hệ thống sàng tại mỏ, các phân
xưởng cơ khí, bảo dưỡng xe máy mỏ vv Nhìn chung các thiết bị mỏ hoạt động
sinh ra tiếng ồn đều cao hơn mức tiêu chuẩn: máy xúc là 92dB, ôtô là 97-
104dB, sàng mỏ là 85- 95dB.
Tiếng ồn có ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ công nhân, đặc biệt là đối với
những người thường xuyên tiếp xúc với tiếng ồn có cường độ cao, ảnh hưởng
đến thính giác và các cơ quan khác, gây buồn nôn, chóng mặt, căng thẳng thần
kinh, mệt mỏi toan thân, tâm lý khó chịu, bực bội, mất tập trung vào công việc.
- Độ rung: Chủ y
ếu do thiết bị làm việc, đều vượt quá mức tiêu chuẩn cho
phép: Đường ôtô (cách 50m) 1,4; đường tàu hoả (cách 50m) 1,4; trạm quạt gió
1,3- 1,6.
- Độ rung là một trong những yếu tố có tác động đến máy móc và sức khoẻ

của người lao động. Máy càng rung càng nhanh chóng hỏng. Độ rung cũng gây
ra các loại bệnh cho con người như bệnh tiêu hoá, đau ngực, đau lưng, rối loạn
thần kinh, mất phản xạ, mất thăng bằng, thị lự
c giảm sút, triệu trứng về tim
mạch, suy nhược cơ thể, vv
* Môi trường nước
Hoạt động của sản xuất than có tác động mạnh mẽ đến chất lượng và lưu
lượng của nước mặt, nước ngầm và nước biển.
a) Suy giảm lưu lượng nước
b) Hệ thống thuỷ văn ở các khu vực có sản xuất than ở các khu vực có hoạt
động sản xu
ất than đã bị biến dạng mạnh mẽ về mọi phương diện: hình dáng,
độc lực dòng chảy, hệ thống bồn thu nước, mức độ liên tục của dòng chảy vv

×