Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Phân tích những đặc trưng của thuế tiêu thụ đặc biệt (so sánh với thuế giá trị gia tăng). Cho biết về sự thay đổi của danh mục hàng hóa chịu thuế tiêu thụ đặc biệt từ Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt năm 1990 cho đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.82 KB, 12 trang )

A.MỞ ĐẦU
Thuế tiêu thụ đặc biệt được áp dụng phổ biến ở các nước trên thế giới. Tại Việt Nam, thuế tiêu
thụ đặc biệt được đánh vào một số hàng hóa, dịch vụ đặc biệt nhằm điều tiết hướng dẫn sản xuất
và tiêu dùng. Luật thuế Tiêu thụ đặc biệt, và cả thuế giá trị gia tăng sau nhiều năm thực hiện đã
dần đi vào đời sống và có những tác động tích cực đến tình hình kinh tế - xã hội đất nước cũng
như góp phần đáng kể vào việc tăng nguồn thu cho ngấn sách nhà nước, đồng thời đem lại những
kết quả nhất định trong việc hướng dẫn sản xuất, tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ được coi là đặc biệt
và điều tiết thu nhập. Và kể từ sau những lần sửa đổi thì Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt càng đem lại
hiệu quả rõ rệt hơn cho Nhà nước trong việc phát triển xã hội tiêu dùng và nền kinh tế quốc gia.
Để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này, e xin chọn đề bài số 14 “Phân tích những đặc trưng của
thuế tiêu thụ đặc biệt (Trong đó có so sánh với thuế giá trị gia tăng). Cho biết về sự thay đổi
của danh mục hàng hóa chịu thuế tiêu thụ đặc biệt từ Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt năm 1990
cho đến nay” cho bài tập học kỳ lần này.

B.NỘI DUNG
I.Đặc trưng của Thuế tiêu thụ đặc biệt:
1.Khái quát chung về thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB):
1.1.Khái niệm:
Thuế tiêu thụ đặc biệt là loại thuế gián thu đánh vào một số hàng hóa đặc biệt do các doanh
nghiệp sản xuất và tiêu thụ tại. Thuế này do các cơ sở trực tiếp sản xuất ra hàng hoá đó nộp
nhưng người tiêu dùng là người chịu thuế vì thuế được cộng vào giá bán.
Như vậy, không phải tất cả hàng hóa, dịch vụ đều là đối tượng chịu thuế của thuế TTĐB. Thông
thường, thuế TTĐB đánh vào hàng hóa không được khuyến khích tiêu dùng, có thể do chúng có
khả năng gây ảnh hưởng bất lợi tới sức khỏe người sử dụng (thuốc lá, rượu, bia) hoặc đánh vào
những hàng hóa chỉ được sử dụng bởi những người có thu nhập cao và rất cao trong xã hội (ô tô,
tàu bay, du thuyền...) hoặc đánh vào việc sử dụng các dịch vụ không cần thiết cho cuộc sống (vũ
trường, massage, karaoke, casino). Việc thu thuế TTĐB giúp cho Nhà nước có thể định hướng
tiêu dùng xã hội, góp phần tích cực vào việc hình thành xu hướng tiêu dùng xã hội lành mạnh, xu
hướng tiêu dùng phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh kinh tế của đất nước. Bên cạnh đó, Nhà
nước còn có thể huy động một bộ phận thu nhập của những đối tượng có thu nhập cao và có khả
năng tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ không thiết yếu, không được khuyến khích tiêu dùng vào ngân


sách nhà nước để sử dụng cho những mục tiêu công cộng, góp phần bảo đảm công bằng xã hội.
1.2.Vai trò:


Thuế TTĐB là một trong những công cụ giúp Nhà nước thực hiện chính sách quản lý đối
với các cơ sở sản xuất kinh doanh và nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ,góp phần thúc đẩy sản
xuất, kinh doanh đối với hàng hóa, dịch vụ cùng loại sản xuất trong nước: Việc thu thuế
TTĐB ở khâu sản xuất giúp Nhà nước nắm bắt được một cách tương đối chính xác số
lượng thực tế các cơ sở sản xuất mặt hàng chịu thuế TTĐB trong nền kinh tế, cũng như
năng lực sản xuất của từng cơ sở sản xuất từng loại mặt hàng chịu thuế TTĐB, giúp Nhà
nước sắp xếp có hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doan các mặt hàng chịu thuế
TTĐB. Bên cạnh đó việc thu thuế TTĐB ở khâu nhập khẩu cũng giúp Nhà nước quản lí
được hoạt động nhập khẩu mặt hàng, dịch vụ được coi là đặc biệt, không khuyến khích
1


tiêu dùng. Thuế TTĐB thu vào hàng hóa, dịch vụ chịu thuế ở khâu nhập khẩu còn nhằm
hạn chế việc tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu từ nước ngoài, qua đó khuyến khích
việc tiêu dùng sản phẩn hàng hóa, dịch vụ sản xuất cùng loại ở trong nước.


Thuế TTĐB là một trong những công cụ kinh tế để Nhà nước điều tiết thu nhập của các
tầng lớp dân cư có thu nhập cao, hướng dẫn tiêu dùng hợp lí: Thuế TTĐB không đánh
vào tất cả các loại hàng hóa và dịch vụ mà chỉ đánh vào một số loại hàng hóa, dịch vụ đặc
biệt Nhà nước không khuyến khích tiêu dùng. Ví dụ, thuế TTĐB đánh vào những hàng
hóa không được khuyến khích tiêu dùng, có thể do chúng có khả năng gây ảnh hưởng bất
lợi tới sức khỏe con người như thuốc lá, rượu, bia, hoặc đánh vào những hàng hóa mà chỉ
được sử dụng bởi những người có thu nhập cao hoặc rất cao trong xã hội như: oto, tàu
bay, du thuyền, hoặc đánh vào việc sử dụng những dịch vụ không cần thiết cho cuộc sống
như vũ trường, massage, karaoke, casino…Thông qua việc thu thuế TTĐB, Nhà nước có

thể định hướng tiêu dùng xã hội, góp phần tích cực vào việc hình thành xu hướng tiêu
dùng xã hội lành mạnh, xu hướng tiêu dùng phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh kinh tế
của đất nước. Mặt khác, cũng thông qua việc tiêu thuế TTĐB, nhà nước còn huy động
một bộ phận thu nhập của những đối tượng có thu nhập cao và có khả năng tiêu dùng
hàng hóa, dịch vụ không thiết yếu, không được khuyến kích tiêu dùng vào ngân sách nhà
nước để sử dụng cho những mục tiêu công cộng, góp phần đảm bảo công bằng xã hội.



Thuế TTĐB là công cụ quan trọng được sử dụng nhằm ổn định và tăng cường nguồn thu
cho ngân sách nhà nước: Thuế TTĐB mặc dù có diện thu hẹp nhưng lại có thuế suất cao
hơn thuế suất của các loại thuế gián thu khác, vì vậy số tiền thu được từ thuế TTĐB
chiếm tỉ trọng đáng kể trong tổng thu ngân sách nhà nước. Theo các con số thống kê, thì
ở nước ta, tỉ trọng số thu từ TTĐB lớn thứ tư trong tỉ trọng các số thu của từng sắc thuế
hiện hành, số thu từ thuế TTĐB chiếm từ 15 đến 18% trong tổng số thu từ thuế gián thu,
chiếm từ 7 đến 10% trong tổng thu thuế và phí.

1.3.Chủ thể quan hệ pháp luật thuế TTĐB:


Cơ quan nhà nước là chủ thể quyền lực tham gia vào quan hệ pháp luật thuế TTĐB, có
thẩm quyền trong lĩnh vực thu thuế, xem xét và quyết định miễn, giảm thuế TTĐB gồm
Bộ tài chính, Tổng cục thuế và các cơ quan thu. Bộ tài chính và Tổng cục thuế tham gia
vào quan hệ pháp luật thuế TTĐB với tư cách chủ thể quyền lực, xem xét và quyết định
các trường hợp miễn hoặc giảm thuế TTĐB cho đối tượng nộp thuế khi nhận được hồ sơ
xin miễn, giảm thuế TTĐB của đối tượng này do cơ quan thu gửi tới. Cơ quan thu gồm
cơ quan thuế, hải quan, cơ quan tài chính tham gia vào quan hệ trên với tư cách chủ thể
quyền lực, có thâm quyền hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra việc thu nộp thuế TTĐB và áp
dụng các chế tài khi cần thiết.




Theo điều 4 Luật thuế TTĐB năm 2008, chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế TTĐB là các tổ
chức, cá nhân có sản xuất, nhập khẩu hoàng hóa hoặc kinh doanh dịch vụ thuộc đối tượng
chịu thuế TTĐB. Trường hợp tổ chức, cá nhân có hoạt động kinh doanh xuất khẩu mua
hàng hóa thuộc diện chịu thuế TTĐB của cơ sở sản xuất để xuất khẩu nhưng không xuất
khẩu mà tiêu dùng trong nước thì tổ chức cá nhân có hoạt động kinh doanh xuất khẩu là
người nộp thuế TTĐB. Phạm vi chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế TTĐB, vì vậy, phụ thuộc
2


hoàn toàn vào phạm vi đối tượng chịu thuế TTĐB. Bất kể chủ thể nào có thể sản xuất
hoặc nhập khẩu các mặt hàng hoặc kinh doanh các dịch vụ theo điều 2 luật thuế TTĐB
2008 đều phải có nghĩa vụ nộp thuế TTĐB.
2.Những điểm tương đồng và khác nhau giữa Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) và Thuế giá
trị gia tăng (GTGT):
2.1.Những điểm tương đồng giữa Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) và Thuế giá trị gia tăng
(GTGT):
2.1.1.Mục đích:
Mỗi loại thuế khác nhau, ý chí ấy cũng được biểu hiện ở những khía cạnh khác nhau nhưng luôn
xuất phát từ 2 mục đích lớn nhất và cơ bản nhất là nhằm phục vụ lợi ích của Nhà nước và tạo ra
trật tự chung cho xã hội. Với thuế GTGT và thuế TTĐB, chúng cùng thể hiện những mục đích có
thể kể đến như:









Đối với ngân sách nhà nước: nhằm đảm bảo và ổn định cho ngân sách nhà nước bởi chúng là
loại thuế đánh vào người tiêu dùng, được áp dụng rộng rãi đối với mọi tổ chức, cá nhân có
tiêu dùng sản phẩm hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ nên có thể tạo ra được nguồn thu lớn
cho ngân sách nhà nước.
Đối với hệ thống thuế Việt Nam: Thuế GTGT, thuế TTĐB được ban hành gắn liền với việc
sửa đổi bổ sung một số thuế khác nhau như: thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế thu nhập...
nhằm giúp cho hệ thống thuế của Việt Nam ngày càng hoàn thiện phù hợp với điều kiện phát
triển kinh tế của đất nước, tương đồng với hệ thống thuế trong khu vực và trên thế giới.
Đối với doanh nghiệp: nhằm thực hiện chính sách quản lý đối với các cơ sở sản xuất kinh
doanh và nhập khẩu hàng hoá dịch vụ và nhằm tăng cường công tác hạch toán kế toán trong
các doanh nghiệp thúc đẩy việc mua bán hàng hoá có hoá đơn chứng từ.
Đối với nền kinh tế: nhằm tạo điều kiện cho hàng xuất khẩu cạnh tranh thuận lợi trên thị
trường quốc tế (vì có những trường hợp được hoàn thuế) và thuế GTGT, thuế TTĐB kết hợp
với thuế nhập khẩu làm tăng giá vốn hàng nhập khẩu có tác dụng tích cực bảo vệ sản xuất
kinh doanh hàng nội địa, từ đó tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước
phát triển.

2.1.2.Phạm vi áp dụng
Đối tượng chịu thuế và không chịu thuế của Luật Thuế TTĐB được quy định tại điều 2 và 3 Luật
Thuế TTĐB 2008 còn đối tượng chịu thuế của Luật Thuế GTGT được quy định tại điều 3 và điều
5 Luật Thuế GTGT 2008. Cùng một mục đích nên Thuế GTGT và thuế TTĐB cũng có những nét
chung về phạm vi áp dụng như sau:


Đối tượng chịu thuế:
Hàng hóa:
a) Thuốc lá điếu, xì gà và chế phẩm khác từ cây thuốc lá dùng để hút, hít, nhai, ngửi,

ngậm;

b) Rượu;
c) Bia;

3


d) Xe ô tô dưới 24 chỗ, kể cả xe ô tô vừa chở người, vừa chở hàng loại có từ hai hàng ghế
trở lên, có thiết kế vách ngăn cố định giữa khoang chở người và khoang chở hàng;
đ) Xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh có dung tích xi lanh trên 125cm3;
e) Tàu bay, du thuyền;
g) Xăng các loại;
h) Điều hoà nhiệt độ công suất từ 90.000 BTU trở xuống;
i) Bài lá;
k) Vàng mã, hàng mã.
Dịch vụ:
a) Kinh doanh vũ trường;
b) Kinh doanh mát-xa (massage), ka-ra-ô-kê (karaoke);
c) Kinh doanh ca-si-nô (casino); trò chơi điện tử có thưởng bao gồm trò chơi bằng máy
giắc-pót (jackpot), máy sờ-lot (slot) và các loại máy tương tự;
d) Kinh doanh đặt cược;
đ) Kinh doanh gôn (golf) bao gồm bán thẻ hội viên, vé chơi gôn;
e) Kinh doanh xổ số.


Đối tượng không chịu thuế:

Hàng hóa nhập khẩu trong trường hợp viện trợ nhân đạo, viện trợ không hoàn lại; quà
tặng cho cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; quà biếu,
quà tặng cho cá nhân tại Việt Nam theo mức quy định của Chính phủ; đồ dùng của tổ chức, cá
nhân nước ngoài theo tiêu chuẩn miễn trừ ngoại giao; hàng mang theo người trong tiêu chuẩn

hành lý miễn thuế.
Hàng hoá chuyển khẩu, quá cảnh qua lãnh thổ Việt Nam; hàng hoá, dịch vụ được mua
bán giữa nước ngoài với các khu phi thuế quan và giữa các khu phi thuế quan với nhau.
2.2.Những điểm khác nhau giữa Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) và Thuế giá trị gia tăng
(GTGT):
Bên cạnh những điểm chung, Thuế TTĐB và thuế GTGT vẫn có những điểm khác biệt như sau:
2.2.1.Mục đích:



Thuế GTGT: Nhằm góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, mở rộng lưu thông phân phối
hàng hoá, bảo hộ hợp lý.
Thuế TTĐB: Nhằm hướng dẫn sản xuất và tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ được coi là đặc biệt,
điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư có thu nhập cao, thực hiện phân phối thu nhập
công bằng hợp lý.

2.2.2.Phạm vi áp dụng:


Thuế GTGT: Hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam là
đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng, trừ các đối tượng quy định tại Điều 5 của Luật này, bao
4




gồm cả những đối tượng chịu thuế TTĐB
Thuế TTĐB:
1.Hàng hóa:
a) Thuốc lá điếu, xì gà và chế phẩm khác từ cây thuốc lá dùng để hút, hít, nhai, ngửi,


ngậm;
b) Rượu;
c) Bia;
d) Xe ô tô dưới 24 chỗ, kể cả xe ô tô vừa chở người, vừa chở hàng loại có từ hai hàng ghế
trở lên, có thiết kế vách ngăn cố định giữa khoang chở người và khoang chở hàng;
đ) Xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh có dung tích xi lanh trên 125cm3;
e) Tàu bay, du thuyền;
g) Xăng các loại.
h) Điều hoà nhiệt độ công suất từ 90.000 BTU trở xuống;
i) Bài lá;
k) Vàng mã, hàng mã.
2. Dịch vụ:
a) Kinh doanh vũ trường;
b) Kinh doanh mát-xa (massage), ka-ra-ô-kê (karaoke);
c) Kinh doanh ca-si-nô (casino); trò chơi điện tử có thưởng bao gồm trò chơi bằng máy
giắc-pót (jackpot), máy sờ-lot (slot) và các loại máy tương tự;
d) Kinh doanh đặt cược;
đ) Kinh doanh gôn (golf) bao gồm bán thẻ hội viên, vé chơi gôn;
e) Kinh doanh xổ số.
2.2.3.Đối tượng chịu thuế:




Thuế GTGT: Người nộp thuế giá trị gia tăng là tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng (sau đây gọi là cơ sở kinh doanh) và tổ chức, cá nhân
nhập khẩu hàng hóa chịu thuế giá trị gia tăng (sau đây gọi là người nhập khẩu).
Thuế TTĐB: Người nộp thuế tiêu thụ đặc biệt là tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu hàng
hóa và kinh doanh dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. Trường hợp tổ chức,

cá nhân có hoạt động kinh doanh xuất khẩu mua hàng hoá thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc
biệt của cơ sở sản xuất để xuất khẩu nhưng không xuất khẩu mà tiêu thụ trong nước thì tổ
chức, cá nhân có hoạt động kinh doanh xuất khẩu là người nộp thuế tiêu thụ đặc biệt.

2.2.4.Đối tượng không chịu thuế:
Bên cạnh đó, đối tượng chịu thuế của thuế GTGT rộng hơn nhiều so với thuế TTĐB do thuế
TTĐB chỉ tập trung điều tiết một số mặt hàng và dịch vụ nhất định, không được nhà nước
khuyến khích tiêu dùng.
5


3.Đặc trưng của thuế TTĐB:
3.1.Đặc trưng của riêng thuế TTĐB:






Thuế tiêu thụ đặc biệt có tính chất gián thu, thể hiện ở chỗ: Thuế TTĐB đánh vào thu
nhập của người tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ chịu thuế TTĐB một cách gián tiếp thông
qua giá cả của hàng hoá, dịch vụ mà người đó tiêu dùng và người sản xuất và kinh doanh
hàng hoá, dịch vụ chịu thuế TTĐB là người nộp thuế cho nhà nước thay cho người tiêu
dùng. Như vậy, người sản xuất, nhập khẩu hàng hoá, kinh doanh dịch vụ sẽ nộp thuế
TTĐB và khoản thuế này được chuyển vào giá bán sản phẩm và chuyển sang cho người
tiêu dùng cuối cùng phải gánh chịu. Thuế TTĐB tập trung vào điều tiết một số dịch vụ
không được Nhà nước khuyến khích tiêu dùng. Nhìn chung các quốc gia thường đánh
thuế TTĐB vào một số mặt hàng được coi là cao cấp và không thiết yếu, Nhà nước không
khuyến khích tiêu dùng.
Thuế suất thuế TTĐB có thể là thuế suất cố định hoặc thuế suất tỉ lệ và thường cao hơn

so với thuế suất của các loại thuế gián thu khác. Thuế suất TTĐB có thể là thuế suất cố
định hoặc thuế suất tỉ lệ. Đối với thuế suất tỉ lệ, việc điều chỉnh mức thu thường được đặt
ra khi Nhà nước chủ trương thay đổi chính sách hướng dẫn phát triển sản xuất, kinh
doanh, tiêu dùng xã hội, hoặc khi cần thay đổi tỉ lệ động viên vào ngân sách nhà nước.
Đối với thuế suất cố định, ngoài chịu ảnh hưởng của những yếu tố dẫn đến việc sửa đổi
mức thu, mức độ lạm phát cũng là một tác nhân quan trọng phải thường xuyên chỉnh sửa
mức thu theo kịp sự biến động giá trị của đồng tiền.
Thuế TTĐB chỉ được thu một lần ở khâu sản xuất hoặc xuất nhập khẩu. Cùng một mặt
hàng chịu thuế TTĐB, khi luân chuyển qua khâu lưu thông sẽ không bị đánh thuế TTĐB.
Đặc điểm này cho thấy thuế TTĐB khác với thuế doanh thu và thuế GTGT ở chỗ các loại
thuế này đánh trên toàn bộ doanh thu bán hàng hoặc trên giá trị tăng thêm của hàng hòa ở
mỗi khâu lưu thông.



Thuế TTĐB thường có mức thuế suất cao nhằm điều tiết sản xuất và hướng dẫn tiêu dùng
hợp lý, thông qua đó nhằm điều tiết một phần thu nhập của những người tiêu dùng các
hàng hoá, dịch vụ này. Do đối tượng của Thuế TTĐB chỉ áp dụng với một số hàng hoá,
dịch vụ nên các nước thường áp dụng mức thuế suất thuế TTĐB cao để hướng dẫn sản
xuất, tiêu dùng qua đó cũng điều tiết một phần thu nhập của những người tiêu dùng các
hàng hoá dịch vụ có thu nhập cao, đảm bảo công bằng xã hội.



Thuế TTĐB chỉ thu ở khâu sản xuất hoặc khâu nhập khẩu, cung ứng hàng hoá dịch vụ.
Khi hàng hoá và dịch vụ này chuyển qua khâu lưu thông thì không phải chịu thuế TTĐB.



Số thuế TTĐB phải nộp= Số thuế TTĐB phải nộp của hàng xuất kho tiêu thụ trong kỳ Số thuế TTĐB đã nộp ở khâu nguyên vật liệu mua vào tương ứng với số hàng xuất kho

tiêu thụ trong kỳ. Đặc điểm này cho phép phân biệt thuế TTĐB với thuế GTGT. Thuế
GTGT được thu trên mỗi khâu sản xuất luân chuyển của hàng hoá, dịch vụ. Vì vậy, việc
quản lý thuế TTĐB đòi hỏi phải kiểm tra, giám sát chặt chẽ, đảm bảo hạn chế đến mức
tối đa sự thất thu thuế TTĐB tại khâu sản xuất, cung ứng dịch vụ hoặc nhập khẩu.

3.2.Mối liên hệ giữa thuế TTĐB và thuế GTGT:


Thuế nhập khẩu có mục đích bảo hộ, thuế TTĐB có mục đích điều tiết đặc biệt, thuế
GTGT có mục đích điều tiết phổ cập. Mỗi mục đích được một sắc thuế đảm nhiệm, vì
6


vậy chúng độc lập với nhau. Chúng có quan hệ với nhau thông qua việc chuyển thuế
thông qua việc chuyển thuế vào giá cả hàng hoá, dịch vụ.


Hàng hóa, dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt thì phải chịu thuế giá trị gia tăng đối với số
lượng hàng hóa, dịch vụ đã kê khai nộp thuế tiêu thụ đặc biệt. Chẳng hạn, cơ sở trực tiếp
sản xuất khi bán ra những mặt hàng thuộc diện chiụ thuế tiêu thụ đặc biệt thì cơ sở này kê
khai nộp thuế tiêu thụ đặc biệt đồng thời phải kê khai nộp thuế giá trị gia tăng để đảm bảo
tính liên hoàn của thuế GTGT.



Các hàng hóa, dịch vụ đã chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, khi lưu thông trên thị trường, tức là
được chuyển qua khâu thương nghiệp thì các cơ sở kinh doanh các mặt hàng này không
phải nộp thuế tiêu thụ đặc biệt nhưng phải nộp thuế giá trị gia tăng .




Cơ sở nhập khẩu hàng hoá chịu thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp thuế tiêu thụ đặc biệt cùng
với thuế Nhập khẩu và thuế GTGT theo từng lần nhập khẩu.

II.Sự thay đổi của danh mục hàng hóa chịu thuế tiêu thụ đặc biệt từ Luật Thuế tiêu thụ đặc
biệt năm 1990 cho đến nay:
- Ở nước ta, Luật Thuế TTĐB lần đầu tiên được ban hành vào năm 1990 trong chương trình
cải cách thuế giai đoạn I. Quá trình thực hiện, thuế TTĐB đã được sửa đổi và hoàn thiện nhiều
lần để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong từng giai đoạn và các yêu cầu
đặt ra trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Những lần sửa đổi, bổ sung quan trọng nhất là các
Luật được ban hành trong các năm 1998, 2003 và 2005. Gần 20 năm thực hiện luật Thuế TTĐB
và các Luật sửa đổi, bổ sung đã cho thấy về cơ bản, thuế TTĐB đã đạt được mục tiêu đặt ra là
hướng dẫn sản xuất, tiêu dùng của xã hội, điều tiết thu nhập của người tiêu dùng một cách hợp
lý, và tăng cường quản lý sản xuất, kinh doanh đối với một số hàng hoá và dịch vụ. Thuế suất
cao áp dụng đối với nhiều mặt hàng như thuốc lá, rượu, bia, ôtô du lịch, kinh doanh vũ trường,...
không chỉ nhằm mục tiêu động viên nguồn thu cho ngân sách nhà nước mà còn thực hiện vai trò
định hướng tiêu dùng. Chính sách miễn, giảm thuế TTĐB được công bố trước theo lộ trình giảm
dần bảo hộ đối với doanh nghiệp sản xuất bia hơi, sản xuất, lắp ráp ôtô trong nước,... tạo điều
kiện thuận lợi cho việc sắp xếp lại SXKD trong nước và cùng với thuế nhập khẩu đã góp phần
vào việc hình thành nên một ngành công nghiệp mới. Mặc dù đạt được nhiều kết quả thiết thực
nhưng trước đòi hỏi của sự phát triển kinh tế xã hội hiện nay và trong thời gian tới, luật Thuế
TTĐB của nước ta vẫn cần được tiếp tục hoàn thiện.
-Ngày 14/11/2008, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội Khoá XII đã thông qua Luật Thuế tiêu thụ đặc
biệt với nhiều nội dung đổi mới. Đến nay, Chính phủ, Bộ Tài chính đã hoàn tất công việc ban
hành văn bản hướng dẫn để triển khai thực hiện Luật đúng thời điểm hiệu lực từ ngày 01/4/2009.
Dưới đây là những thông tin mới về nội dung chính sách và công tác quản lý thuế TTĐB được
thể hiện trong Luật và các văn bản hướng dẫn.
-Về đối tượng chịu thuế TTĐB, trong lần sửa đổi gần đây nhất, Luật Thuế TTĐB có phạm vi
điều chỉnh rộng, ngoài các mặt hàng truyền thống (đồ uống có cồn như rượu, bia; thuốc lá; xăng
và các chế phẩm dùng để pha chế xăng, điều hoà nhiệt độ, ôtô du lịch dưới 24 chỗ ngồi,... một số

mặt hàng mới được bổ sung vào đối tượng chịu thuế, đáng lưu ý là:
• Xe mô tô có dung tích xi lanh trên 125 phân khối (cm3), với đặc thù là đại bộ phận thuộc loại
xe tay ga, xe đua, thường có giá trị lớn, chủ yếu được sử dụng và lưu thông ở các thành phố
lớn, người sử dụng phần đông là bộ phận dân cư có thu nhập cao. Việc đưa loại xe môtô có
7








dung tích xi - lanh trên 125 cm3 vào diện chịu thuế TTĐB không ảnh hưởng đến các đối
tượng sử dụng xe máy phổ thông là bà con nông dân, người lao động có thu nhập trung bình
trở xuống mà vẫn bảo đảm được yêu cầu định hướng tiêu dùng, khuyến khích sử dụng năng
lượng có hiệu quả, tiết kiệm nhiên liệu và góp phần giảm ô nhiễm môi trường. Đối với mặt
hàng ôtô du lịch, trong nhiều năm, Luật thuế TTĐB quy định mức thuế suất áp dụng đối với
ôtô chở người được phân biệt theo tiêu chí số chỗ ngồi. Theo đó, ôtô từ 5 chỗ ngồi trở xuống
áp thuế suất 50%; ôtô từ 6 đến 15 chỗ áp thuế suất 30%; ôtô từ 16 đến dưới 24 chỗ áp thuế
suất 15%. Quy định như vậy trong thực tế thực hiện đã bộc lộ hạn chế, bất cập. Đối với loại
xe từ 6 đến 9 chỗ ngồi được sử dụng chủ yếu làm phương tiện đi lại cho cá nhân, song chỉ
chịu mức thuế suất bằng 60% so với mức thuế suất áp dụng cho xe từ 5 chỗ ngồi trở xuống.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, tại nhiều nước, bên cạnh việc sử dụng tiêu chí số chỗ ngồi, họ
còn kết hợp với một số tiêu chí khác để định ra mức thuế TTĐB như dung tích xi lanh (hoặc
công suất động cơ), kích thước xe liên quan đến diện tích chiếm chỗ,... Trong lần sửa đổi này
đã có sự lựa chọn kết hợp nhiều tiêu chí phân loại để sắp xếp, cơ cấu lại thuế suất giữa các
nhóm xe, có tính đến diện tích chiếm chỗ ảnh hưởng đến giao thông, nguồn năng lượng sử
dụng. Đối với chủng loại xe từ 6 đến 9 chỗ ngồi sẽ được xếp vào cùng nhóm với các chủng
loại xe 5 chỗ ngồi trở xuống để áp dụng một mức thuế suất phân biệt theo dung tích xi lanh

với nguyên tắc: dung tích xi lanh lớn hơn sẽ phải chịu mức thuế suất cao hơn; Đối với loại xe
có dung tích từ 2.000 cc trở xuống áp dụng mức thuế suất là 45%, dung tích trên 2.000 cc
đến 3.000 cc mức thuế suất áp dụng là 50%, dung tích trên 3.000 cc sẽ áp mức thuế 60% là
mức thuế suất cao nhất. Các mức thuế suất mới được áp dụng sẽ không gây ảnh hưởng đến
hoạt động và hiệu quả kinh doanh của các nhà sản xuất, lắp ráp trong nước: Với cơ cấu hiện
tại, các chủng loại xe từ 5 chỗ ngồi trở xuống phần lớn có dung tích xi lanh dưới 2000 cc nên
sẽ có lợi hơn (thuế suất giảm từ 50% xuống còn 45%); Trong khi đó, xe sản xuất trong nước
loại dung tích xi lanh trên 3.000 cc (chịu mức thuế suất tăng từ 50% lên 60%) chiếm tỷ trọng
rất nhỏ (khoảng 3% số lượng xe sản xuất và tiêu thụ thuộc diện chịu thuế TTĐB). Đối với
loại xe từ 6 đến 9 chỗ ngồi sẽ chịu tác động của việc điều chỉnh cách tính thuế do mức thuế
suất được điều chỉnh tăng từ 30% lên 45%, 50% và 60% tuỳ theo dung tích xi lanh. Tuy
nhiên, trong từng doanh nghiệp sản xuất xe ôtô hiện nay đều có sản xuất cả loại xe từ 5 chỗ
ngồi trở xuống và xe từ 6 đến 9 chỗ, do đó về cơ bản sẽ không ảnh hưởng lớn đến tình hình
sản xuất kinh doanh. Mặt khác, loại xe từ 6 đến dưới 9 chỗ có dung tích trên 3.000cc với mức
tăng thuế cao nhất (từ 30% lên 60%), hiện trong nước sản xuất không đáng kể, chỉ chiếm
khoảng 0,8% tổng số xe sản xuất trong nước thuộc diện chịu thuế TTĐB.
Tàu bay và du thuyền (trừ loại được sử dụng cho mục đích kinh doanh vận chuyển hàng hoá,
hành khách, khách du lịch) là những mặt hàng cao cấp phục vụ cho các đối tượng có thu
nhập rất cao. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và thiên hướng tiêu dùng xã hội, một bộ
phận dân cư có thu nhập cao có khả năng sở hữu tàu bay, du thuyền để phục vụ nhu cầu tiêu
dùng riêng. Vì vậy, luật Thuế TTĐB đã bổ sung vào diện chịu thuế TTĐB các đối tượng này
nhằm thực hiện chính sách điều tiết thu nhập.
Bổ sung vào diện áp thuế TTĐB đối với những mặt hàng là “các chế phẩm khác từ cây thuốc
lá” để bao quát hết các sản phẩm thuốc lá. Nội dung này nhằm đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn
cuộc sống là trên thị trường hiện nay, ngoài thuốc lá điếu, xì gà còn có các chế phẩm khác từ
cây thuốc lá nhưng không hút mà dùng để nhai, ngửi.
Bổ sung mặt hàng ôtô dưới 24 chỗ ngồi vừa chở người vừa chở hàng vào đối tượng chịu thuế
TTĐB. Các Luật Thuế TTĐB ban hành trước đây đều quy định áp thuế đối với ô tô chở
người dưới 24 chỗ ngồi. Trên thực tế, có loại xe dưới 24 chỗ ngồi có tính chất lưỡng dụng:
8













vừa chở người, vừa chở hàng nhưng chủ yếu phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng cá nhân (như xe
VAN, xe pick-up có từ hai hàng ghế ngồi trở lên). Để phù hợp mục tiêu của thuế TTĐB và
bảo đảm tính bao quát của Luật nên loại xe này được bổ sung vào đối tượng chịu thuế TTĐB,
tuy nhiên, có tính đến tính chất lưỡng dụng của loại xe này nên áp dụng thuế suất thấp hơn
loại xe chỉ chở người.
Đổi mới quy định về kinh doanh đặt cược: Trên giác độ quản lý xã hội thì hoạt động cá cược,
một số loại hình “vui chơi có thưởng” mang nặng tính “ăn thua” không cần khuyến khích. Do
đó, trong khung khổ Luật Thuế, các văn bản hướng dẫn đã quy định hoạt động kinh doanh
đặt cược “bao gồm: đặt cược thể thao, giải trí và các hình thức đặt cược khác theo quy định
của pháp luật” để có thể mở rộng diện điều chỉnh trong trường hợp cần thiết.
Thuế suất đối với mặt hàng đồ uống có cồn được các nước đối tác dành sự quan tâm đặc biệt.
Do đó, trong lần sửa đổi này, bên cạnh việc khắc phục những tồn tại trong quy định của Luật
và thực tế thi hành về thuế suất,…còn đảm bảo việc thực hiện các cam kết quốc tế khi Việt
Nam gia nhập WTO.
Đối với mặt hàng rượu, Việt Nam cam kết trong vòng 3 năm kể từ ngày gia nhập WTO (tức
là từ năm 2010), tất cả các loại rượu được chưng cất có nồng độ từ 20 độ cồn trở lên sẽ áp
dụng một mức thuế tuyệt đối tính theo lít rượu cồn nguyên chất hoặc một mức thuế phần
trăm. Luật thuế TTĐB trước đây quy định thuế suất đối với mặt hàng rượu được phân biệt

theo nồng độ cồn, trong đó rượu dưới 20 độ, rượu hoa quả, rượu thuốc áp thuế suất 20%;
rượu từ 20 độ đến dưới 40 độ cồn áp thuế suất 30%; rượu từ 40 độ cồn trở lên áp thuế suất
65%. Hiện nay, rượu sản xuất trong nước chủ yếu là các loại rượu có nồng độ cồn dưới 40
độ, trong đó rượu có nồng độ cồn từ 20 độ đến dưới 40 độ chiếm tỷ trọng lớn về sản lượng
(95%) và số thu thuế TTĐB là 93,7%. Rượu từ 40 độ trở lên chiếm tỷ trọng nhỏ về sản lượng
(5%) và số thu thuế TTĐB (6,3%). Để thực hiện đúng cam kết WTO, luật thuế TTĐB 2008
mới có quy định mức thuế suất đối với mặt hàng rượu từ 20 độ trở xuống là 25% thay cho
mức thuế suất 20%. Các loại rượu có nồng độ cồn từ 20 độ trở lên trong 3 năm đầu được áp
dụng mức thuế suất là 45%, từ năm 2013 trở đi sẽ áp dụng mức thuế suất là 50%.
Đối với mặt hàng bia, theo cam kết thì trong vòng 3 năm kể từ khi gia nhập WTO, Việt Nam
sẽ phải quy định một mức thuế suất theo tỷ lệ phần trăm (%) áp dụng chung đối với các loại
bia, không phân biệt hình thức đóng gói bao bì. Luật trước đây quy định bia chai, bia lon áp
thuế suất 75%; bia hơi, bia tươi áp thuế suất là 40% (năm 2006-2007 là 30%). Luật thuế
TTĐB sửa đổi quy định mức thuế suất áp dụng, đối với mặt hàng bia là 50% nhưng có lộ
trình áp dụng vì đây là cam kết bắt buộc khi Việt Nam gia nhập WTO nhưng chúng ta cũng
phải tính đến quyền lợi và thực trạng của sản xuất kinh doanh trong nước. Việc áp dụng thuế
suất đối với mặt hàng bia hơi theo hướng tăng từ mức 40% lên 50% là có lộ trình đã được
xác định trước và công bố công khai nhiều năm qua. Mức 50% sẽ được áp dụng từ năm
2013. Trong 3 năm đầu kể từ khi Luật số 27/2008 có hiệu lực, mức thuế suất áp dụng chung
với tất cả các chủng loại bia, không phân biệt bao bì sẽ là 45% (với bia hơi có tăng 5% so với
trước). Mức tăng này sẽ không ảnh hưởng lớn đến các doanh nghiệp bia hơi và với lộ trình 3
năm cũng sẽ tiếp tục tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất bia hơi có thời gian sắp xếp
lại sản xuất, thay đổi cơ cấu mặt hàng (bia hơi, bia chai, bia lon) để ổn định và phát triển sản
xuất kinh doanh.
Đối với các dịch vụ khác, luật thuế TTĐB sửa đổi giữ nguyên mức thuế suất đối với kinh
doanh dịch vụ mát xa, karaoke là 30%. Riêng đối với kinh doanh vũ trường được sử dụng bởi
phần lớn người có thu nhập khá, vì vậy luật thuế mới đã điều chỉnh tăng mức thuế suất từ
30% lên 40%. Đối với dịch vụ casino, trò chơi điện tử có thưởng, kinh doanh đặt cược: trước
9



đây áp mức thuế suất là 25%. Đây là loại hình dịch vụ Nhà nước không khuyến khích kinh
doanh và tiêu dùng. Do đó, luật thuế TTĐB sửa đổi đã điều chỉnh tăng thuế suất lên mức
30%. Đối với kinh doanh golf, là loại hình dịch vụ cao cấp, thu hút những người có thu nhập
cao trong xã hội, do đó luật sửa đổi đã điều chỉnh mức thuế suất lên 20% (thay cho mức thuế
10%).
=> Nhìn chung, ta có thể thấy là sau những lần sửa đổi bổ sung thì Luật thuế TTĐB đã hoàn
thiện hơn rất nhiều, đặc biệt là về các đói tượng chịu thuế, với những mức tăng thuế TTĐB đối
với những dịch vụ được cho là cao cấp, không cần thiết với cuộc sống hàng ngày như casino,
karaoke, vũ trường, rượu, bia, và có những mức giảm thiếu về thuế TTĐB đối những hàng hóa,
dịch vụ thiết yếu đối với cuộc sống con người như xe oto 24 chỗ ngồi, tàu bay, du thuyền sử
dụng cho việc vận chuyển hàng hóa, khách du lịch, xe có dung tích nhỏ,…

C.KẾT LUẬN
Cùng với thời gian, vai trò của thuế TTĐB ngày càng được coi trọng. Thuế TTĐB được xem như
là một công cụ cần thiết nhằm tạo lập và tăng cường nguồn ngân sách nhà nước. Và sau những
lần sửa đổi và hoàn thiện về Luật thuế TTĐB từ năm 1990 đến nay, thuế TTĐB đang là công cụ
để Nhà nước khuyến khích việc tiêu dùng sản phảm nội địa, tạo ra một xã hội tiêu dùng lành
mạnh, phù hợp với hoàn cảnh kinh tế của đất nước, góp phần vào mục tiêu công cộng, đảm bảo
công bằng xã hội.
Trên đây là kết quả bài tập học kì của em, với vốn kiến thức vẫn còn hạn chế nên bài làm của em
có thể còn nhiều sai sót. Em rất mong nhận được sự góp ý từ phía thầy cô để bài làm được hoàn
chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn!

10


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thuế Việt Nam, NXB.CAND 2014
2.Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt 2008

3.Luật số 106/2016/QH13
4.Nghị định 108/2015/NĐ-CP về hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế TTĐB
5.Luật Thuế giá trị gia tăng 2008
6. />7. />8. />9.Và một số nguồn khác trên Internet

11


MỤC LỤC
A.MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………………..……1
B.NỘI DUNG………………………………………………...……………………………..…….1
I.Đặc trưng của Thuế tiêu thụ đặc biệt…………………………………………..…………...……1
1.Khái quát chung về Thuế tiêu thụ đặc biệt…………………………………………………...…1
2.Những điểm tương đồng và khác nhau giữa Thuế tiêu thụ đặc biệt và Thuế giá trị gia tăng..….2
3.Đặc trưng của Thuế tiêu thu đặc biệt…………..………………………………………………..5
II.Sự thay đổi của danh mục hàng hóa chịu thuế tiêu thụ đặc biệt từ Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt
năm 1990 cho đến nay………………..……………...……………………………………………7
C.KẾT LUẬN………………………………………………………..…………….…………….10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………..………………………..……
11

12



×