Tải bản đầy đủ (.docx) (129 trang)

VẤN ĐỀ GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO THIẾU NHI TRÊN KÊNH BIBI CỦA TRUYỀN HÌNH CÁP VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (803.18 KB, 129 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN

VẤN ĐỀ GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO THIẾU NHI
TRÊN KÊNH BIBI CỦA TRUYỀN HÌNH CÁP VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ

1


Hà Nội - 2018

2


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN

VẤN ĐỀ GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO THIẾU NHI
TRÊN KÊNH BIBI CỦA TRUYỀN HÌNH CÁP VIỆT NAM

Chuyên ngành: Báo chí học
Mã số: 60.32.01.01


LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Quý Phương

3


Hà Nội - 2018

4


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, không sao chép
của tác giả nào. Các số liệu cũng như kết quả nghiên cứu trong Luận văn là trung
thực và chính xác. Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi thông tin trích dẫn trong Luận
văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Xin chân thành cảm ơn.
Học viên

NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN

5


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình làm luận văn cao học, bản thân tôi đã nhận được sự giúp đỡ
hết sức nhiệt tình của các bạn trong lớp K18 Cao học Báo chí trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, các thầy giáo cô giáo trong khoa Báo chí và Truyền thông.
Qua đây, tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới TS. Nguyễn Thị Quý Phương giảng viên hướng dẫn nghiên cứu của tôi - người luôn luôn tận tình hướng dẫn, chỉ

bảo và giúp đỡ cá nhân tôi hoàn thành đề tài này.
Tôi cũng xin được tỏ lòng biết ơn các thầy cô giáo trong khoa Báo chí và
Truyền thông của Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn đã truyền đạt những kiến
thức quý báu cho tôi và các bạn trong lớp trong quá trình học tập và tạo điều kiện
thuận lợi cho chúng tôi được hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp lần này.
Xin chân thành phụ huynh và các bé đang sinh sống tại quận Ba Đình, Cầu
Giấy, Hai Bà Trưng - Hà Nội đã rất nhiệt tình giúp đỡ bản thân tôi trong quá trình
sinh hoạt tại địa phương, cũng như quá trình điều tra và thu thập thông tin thực địa.
Mặc dù rất cố gắng nhưng do khả năng còn hạn chế nên báo cáo không tránh
khỏi những sai sót, tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các
bạn để báo cáo được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn
Học viên thực hiện
NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN

6


MỤC LỤC

7


DANH MỤC HÌNH, BẢNG

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với sự phát triển của xã hội, trẻ em ngày nay được sống và tiếp xúc rất
sớm với môi trường hiện đại và khoa học công nghệ. Điều này vô tình làm cho môi
trường thực tế để trẻ có thể học hỏi, giao lưu kết bạn, trải nghiệm và phát triển bị thu

hẹp lại.
Trẻ dường như được học cách làm thế nào để sử dụng máy tính, truy cập vào
mạng Internet nhiều hơn được học về các kỹ năng sống cơ bản như: kỹ năng giao
tiếp, kỹ năng quản lý làm chủ bản thân, kỹ năng bảo vệ, kỹ năng ứng xử và kỹ năng
hội nhập…. Vì vậy, khi bước ra đời sống các kỹ năng sống của trẻ em Việt Nam
thường rất “thiếu” và “yếu”. Thậm chí trên thực tế, có rất nhiều người tài giỏi nhưng
thiếu đi những kỹ năng sống cần thiết nên họ không thể tiếp cận với môi trường xung
quanh để hòa nhập cũng như khẳng định mình. Chính vì vậy, việc rèn luyện kỹ năng
sống là điều vô cùng quan trọng.
8


Theo UNESCO, ba thành tố hợp thành năng lực của con người là: kiến thức,
kỹ năng và thái độ. Hai yếu tố sau thuộc về kỹ năng sống, có vai trò quyết định trong
việc hình thành nhân cách, bản lĩnh của con người. Kỹ năng sống tốt sẽ thúc đẩy sự
thay đổi cách nhìn nhận bản thân và thế giới, tạo dựng niềm tin, lòng tự trọng, thái độ
tích cực và động lực cho mỗi người. Rèn luyện kỹ năng sống là một quá trình lâu dài,
bền bỉ, nhất là đối với trẻ nhỏ. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ không chỉ là việc dạy,
rèn cho trẻ những kỹ năng cơ bản cần thiết như tự chăm sóc bản thân; phòng tránh và
ứng xử với các nguy hiểm thường gặp, biết hòa đồng….mà còn là việc giúp trẻ có ý
thức làm chủ bản thân, tư duy sống tích cực và hướng đến những điều lành mạnh cho
chính mình cũng như xã hội.
Rèn luyện kỹ năng cho trẻ không phải chỉ là nhiệm vụ của phụ huynh, của gia
đình, nhà trường mà là của xã hội, trong đó có vai trò của các phương tiện truyền
thông, truyền hình.
Với thế mạnh về truyền tải thông tin bằng hình ảnh và âm thanh một cách
sống động giàu cảm xúc tác động động trực tiếp vào thị giác, thính giác của khán giả,
truyền hình đã trở thành công cụ giáo dục trực quan về kỹ năng sống hữu hiệu đối
với đối tượng công chúng là thiếu nhi. Bên cạnh đó, tần suất phát sóng dày đặc cũng
là một điểm mạnh giúp cho việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ trên truyền hình

mang lại hiệu quả cao. Đây là một trong những thế mạnh vượt trội của truyền hình
so với các loại hình báo chí khác trong việc truyền tải các nội dung kỹ năng sống
dành cho thiếu nhi.
Ở nước ta hiện nay, số lượng kênh truyền hình được phát sóng có tới gần 200
kênh, trong đó kênh VTVcab 8 - BiBi là kênh truyền hình đầu tiên dành riêng cho trẻ
em thể hiện rõ tính chuyên biệt, đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng, giáo
dục kỹ năng sống thiếu nhi, thông qua hệ thống các chương trình phát sóng của mình.
Tuy nhiên, hiện nay việc định hướng, giáo dục kỹ năng sống thiếu nhi của
kênh vẫn còn khô cứng, đôi lúc chưa thực sự phù hợp với đối tượng khán giả. Kênh
BiBi cần thiết phải đổi mới, nâng cao chất lượng các chương trình, làm mới nội
dung, hình thức thể hiện phong phú, tươi vui để phù hợp với đối tượng khán giả,
nhằm đạt tới mục tiêu giáo dục cao nhất.
9


Bên cạnh đó, VTVcab cũng đang trong quá trình xây dựng một số kịch bản,
format chương trình giáo dục kỹ năng sống mới phát sóng trên kênh BiBi, hệ thống
OTT và trên các trang mạng xã hội. Vì vậy, việc nghiên cứu các chương trình đã
phát sóng của tác giả có thể giúp VTVcab rút được một số kinh nghiệp quý báu,
thiết thực để có thể có nhiều chương trình hay hơn cho khán giả truyền hình trong
thời gian tới.
Với tất cả các lí do nêu trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Vấn đề giáo dục kỹ
năng sống dành cho thiếu nhi trên kênh BiBi của Truyền hình Cáp Việt Nam”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Theo khảo sát của tác giả, hiện nay có khá nhiều công trình nghiên cứu có
liên quan đến đề tài:
Các công trình nghiên cứu về kỹ năng sống và giáo dục kỹ năng sống
Năm 1989, Bộ Lao động Mỹ cũng đã thành lập một Ủy ban Thư ký về Rèn
luyện các Kỹ năng Cần thiết (The Secretary’s Commission on Achieving Necessary
Skills - SCANS). Thành viên của ủy ban này đến từ nhiều lĩnh vực khác nhau như

giáo dục, kinh doanh, doanh nhân, người lao động, công chức… nhằm mục đích
“thúc đẩy nền kinh tế bằng nguồn lao động kỹ năng cao và công việc thu nhập cao”.
Cũng trong khoảng thời gian này, tại Úc, Hội đồng Kinh doanh Úc (The Business
Council of Australia - BCA) và Phòng thương mại và công nghiệp Úc (the Australian
Chamber of Commerce and Industry - ACCI) với sự bảo trợ của Bộ Giáo dục, Đào
tạo và Khoa học (the Department of Education, Science and Training - DEST) và Hội
đồng giáo dục quốc gia Úc (the Australian National Training Authority - ANTA) đã
xuất bản cuốn “Kỹ năng hành nghề cho tương lai” (năm 2002). Cuốn sách cho thấy
các kỹ năng và kiến thức mà người sử dụng lao động yêu cầu bắt buộc phải có. Kỹ
năng hành nghề (employability skills) là các kỹ năng cần thiết không chỉ để có được
việc làm mà còn để tiến bộ trong tổ chức thông qua việc phát huy tiềm năng cá nhân
và đóng góp vào định hướng chiến lược của tổ chức.
Những năm đầu thập niên 90, một số nước Châu Á như: Ấn Độ, Lào,
Campuchia, Indonexia, Malaysia, Thái Lan, … cũng đã nghiên cứu và triển khai
10


chương trình dạy kỹ năng sống ở các bậc học phổ thông từ mầm non cho đến Trung
học phổ thông. Những nội dung giáo dục chủ yếu ở hầu hết các nước này đó là
trang bị cho người trẻ tuổi những kỹ năng sống cần thiết để giúp họ thích nghi dần
với cuộc sống sau này, mục đích chính là dạy – trang bị và hình thành. Mục tiêu
chung của giáo dục kỹ năng sống được xác định là: “Nhằm nâng cao tiềm năng của
con người để có hành vi thích ứng và tích cực nhằm đáp ứng nhu cầu, sự thay đổi,
các tình huống của cuộc sống hằng ngày, đồng thời tạo ra sự đổi thay và nâng cao
chất lượng cuộc sống”. Với một đích nhắm đến yếu tố cá nhân của người học, các
nước cũng đã đưa ra cách thiết kế chương trình giáo dục và trang bị kỹ năng sống
như: lồng ghép vào chương trình dạy chữ, học vấn, vào tất cả các môn học và các
chương trình ở những mức độ khác nhau. Dạy các chuyên đề cần thiết cho người
học như: kỹ năng nghề, kỹ năng hướng nghiệp, … và được chia làm ba nhóm chính
là: Kỹ năng cơ bản (gồm các kỹ năng đọc, viết, ghi chép…), nhóm kỹ năng chung

(gồm các kỹ năng tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải quyết vấn
đề, …) và nhóm kỹ năng cụ thể (gồm các kỹ năng bình đẳng giới, bảo vệ sức khỏe,
nâng cao đời sống tinh thần …).
Tại Việt Nam, thuật ngữ “Kỹ năng sống” bắt đầu được quan tâm vào những
năm đầu thập niên 90 – khi xã hội bắt đầu có những chuyển biến phức tạp – nền
kinh tế thị trường và việc du nhập các nền văn hóa từ các nước bên ngoài vào Việt
Nam hay sự biến đổi của môi trường tự nhiên đã tác động rất lớn đến con người. Vì
lẽ đó đã đòi hỏi mỗi người phải học cách thích nghi với những sự thay đổi đó. Từ
đây, những kỹ năng khác ngoài trình độ học vấn, tư cách đạo đức, năng lực làm việc
10 bắt đầu được xem xét và quan tâm – đó chính là điều kiện để giáo dục Việt Nam
quan tâm đến thuật ngữ kỹ năng sống trong chương trình và triển khai một số dự án
của các tổ chức khác trên thế giới [2]. Bắt đầu từ chương trình của UNICEF
năm1996 giáo dục kỹ năng sống để bảo vệ sức khỏe và phòng chống HIV/AIDS
cho thanh thiếu niên trong và ngoài nhà trường”. Thuật ngữ kỹ năng sống mới thực
sự phổ biến và được mọi người biết đến. Quan niệm về kỹ năng sống được giới
thiệu trong chương trình này chỉ bao gồm những kỹ năng như: Kỹ năng tự nhận
11


thức, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng xác định giá trị, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng đặt
mục tiêu… nhằm vào những chủ đề giáo dục sức khỏe do các chuyên gia Úc tập
huấn. Đến giai đoạn hai với chương trình “Giáo dục sống khỏe mạnh và kỹ năng
sống” thì quan niệm về kỹ năng sống cơ bản đối với từng nhóm đối tượng được vận
dụng đa dạng hơn.
Đầu những năm 90 Thủ tướng Chính phủ cũng đã có văn bản chỉ đạo tại
quyết định 1363/TTg về việc “Đưa nội dung giáo dục môi trường vào hệ thống giáo
dục quốc dân”. Quyết định này chưa thấy rõ về việc phải rèn luyện kỹ năng sống ở
các bậc học. Tuy nhiên nội dung của Quyết định đã đề cập đến việc trang bị những
kỹ năng ứng xử với môi trường, thái độ sống như biểu hiện ban đầu của kỹ năng
sống. Chỉ thị 10/GD & ĐT năm 1995 và Chỉ thị 24/CT & GD năm 1996 của Bộ

trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo đã có những chỉ đạo về công tác phòng chống
HIV/AIDS hay tăng cường công tác phòng chống ma túy tại trường học. Trong đó
bao gồm các kỹ năng như: Kỹ năng giao tiếp ứng xử với người nhiễm HIV, kỹ năng
tự bảo vệ bản thân, kỹ năng từ chối…Như vậy, ít nhiều cũng đã lồng ghép những
nội dung của thuật ngữ kỹ năng sống ở trong đó. [4] Năm 2003, hội thảo “Chất
lượng giáo dục kỹ năng sống” (UNESCO hỗ trợ tổ chức) đã làm rõ hơn khái niệm
về kỹ năng sống. Kỹ năng sống được tiếp cận dựa trên 4 trụ cột của việc học: “Học
để biết, học để làm, học để cùng chung sống, học để tự khẳng định”. Sau hội thảo
“Chất lượng giáo dục và kỹ năng sống” thì khái niệm kỹ năng sống được hiểu với
nội hàm đầy đủ và đa dạng. “Kỹ năng sống là các kỹ năng thiết thực mà con người
cần đến để có cuộc sống an toàn và khỏe mạnh”. Từ đây, những người làm công tác
giáo dục đã hiểu đầy đủ hơn về kỹ năng sống và bắt đầu quan tâm đến kỹ năng sống
và cách thức giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Từ năm 2002 – 2003 ở Việt Nam
đã thực hiện đổi mới giáo dục phổ thông (tiểu học và trung học cơ sở) trong cả
nước. Trong chương trình tiểu học đổi mới đã hướng đến giáo dục kỹ năng sống
thông qua lồng ghép một số môn học có tiềm năng như: Giáo dục đạo đức, tự nhiên
– xã hội (lớp 1 – 3) và môn khoa học (lớp 4 – 5). Kỹ năng sống được giáo dục thông
qua một số chủ đề “Con người và sức khỏe” [3]. Giáo dục kỹ năng sống được tiếp
cận và bước đầu triển khai trong hệ thống giáo dục không chính quy ở nước ta cách
12


đây hơn 10 năm, đến nay, cũng đã có một số tài liệu, đề tài nghiên cứu về kỹ năng
sống và giáo dục kỹ năng sống cho các đối tượng khác nhau như: Học sinh phổ
thông; học sinh có hoàn cảnh khó khăn; học viên ở các trung tâm học tập cộng
đồng, giáo viên trung học cơ sở…Mặc dù vậy, việc triển khai để đưa giáo dục kỹ
năng sống vào các môn học ở nhà trường phổ thông vẫn hạn chế. Hầu hết giáo viên
và học sinh trường phổ thông ở nước ta vẫn còn xa lạ với các thuật ngữ cũng như
những vấn đề cơ bản liên quan đến kỹ năng sống và giáo dục kỹ năng sống.
Một số nhà chuyên môn ở nước ta cũng đã bắt đầu nghiên cứu về kỹ năng

sống. Một trong những người có những nghiên cứu mang tính hệ thống về kỹ năng
sống và giáo dục kỹ năng sống là tác giả Nguyễn Thanh Bình. Với đề tài cấp bộ, tác
giả đã nghiên cứu về “Thực trạng kỹ năng sống cho học sinh và đề xuất một số biện
pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh”. Tác giả cũng cho ra đời “Giáo trình giáo
dục kỹ năng sống” (Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hà Nội năm 2008) sau khi tham
gia dự án đào tạo giáo viên trung học cơ sở. Giáo trình đã tập trung phân tích về
khái niệm kỹ năng sống, nội dung, nguyên tắc và các phương pháp giáo dục kỹ
năng sống, cách đánh giá kết quả và tác động của giáo dục kỹ năng sống [21]. 12
Một nghiên cứu của tác giả Phạm Minh Hạc là “Triết lý Giáo dục Việt Nam và Thế
giới” cũng có giá trị quan trọng trong việc định hướng và tiếp cận việc nghiên cứu
kỹ năng sống, nhưng không trực tiếp đề cập đến vấn đề kỹ năng sống, giáo dục kỹ
năng sống như đối tượng nghiên cứu. Một số bài báo viết về kỹ năng sống có giá trị
thực tiễn và được nhiều người quan tâm như bài báo của tác giả Nguyễn Quang Uẩn
“Khái niệm kỹ năng sống xét theo góc độ Tâm lý học” trong tạp chí tâm lý học [5].
Năm 2006, tác giả Nguyễn Thị Oanh đã nghiên cứu, tìm hiểu và cho ra nhiều cuốn
sách về kỹ năng sống như: “Kỹ năng sống cho tuổi vị thành niên”, “10 cách thức
rèn kỹ năng sống cho tuổi vị thành niên”, vv… Năm 2009, tác giả Huỳnh Văn Sơn
cũng cho ra đời những cuốn sách đề cập đến khái niệm kỹ năng sống như: “Nhập
môn kỹ năng sống”, “Bạn trẻ và kỹ năng sống”, “Mô hình kỹ năng sống hiện đại”,
“Những kỹ năng thực hành xã hội”. Ngoài ra, tác giả Huỳnh Văn Sơn còn chủ
nhiệm một số đề tài cấp bộ về kỹ năng sống như: “Thực trạng kỹ năng sống của
sinh viên một số Trường Đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh”, “Phát triển kỹ năng
13


mềm cho sinh viên các Trường Đại học Sư phạm”, “Thực trạng kỹ năng giải quyết
vấn đề của sinh viên Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh”. Bên cạnh
đó, năm 2010, tác giả Huỳnh Hữu Long cũng nghiên cứu đề tài “Kỹ năng sống của
học sinh trung học cơ sở thành phố Hồ Chí Minh” trong luận văn thạc sĩ của mình,
luận văn đã làm rõ thực trạng kỹ năng sống của học sinh trung học cơ sở Thành phố

Hồ Chí Minh, qua đó đề xuất những biện pháp tác động tâm lý phù hợp nhằm hình
thành và phát triển kỹ năng sống cho học sinh trung học cơ sở, vv…
Các công trình nghiên cứu về truyền thông, về vai trò của truyền thông
Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về vai trò, chức năng,
nguyên tắc hoạt động và hiệu quả của báo chí, ví dụ như “Cơ sở lý luận báo chí
truyền thông” (của các tác giả Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường và Trần Quang,
đã tái bản nhiều lần), “Truyền thông đại chúng và phát triển xã hội” (2008), “Báo
chí truyền thông và kinh tế văn hóa xã hội” (2005), “Tác động của những phương
tiện truyền thông mới đối với đời sống văn hóa của cư dân đô thị ở Việt Nam”
(2006), bộ sách 9 tập ‘Báo chí – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” do khoa Báo
chí và Truyền thông (ĐH KHXH và NV) xuất bản, “Cơ sở lý luận báo chí” (Tạ
Ngọc Tấn chủ biên, 1999), “Truyền thông đại chúng” (Tạ Ngọc Tấn, 2001),.. Các
cuốn sách cung cấp những hiểu biết có tính hệ thống về các PTTTĐC và những
nguyên tắc, phương pháp cơ bản nhằm quản lý, điều hành, phát huy tốt vai trò, sức
mạnh của các PTTTĐC trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Rất nhiều công trình khai thác vai trò của báo chí đối với một lĩnh vực cụ
thể, như “Vai trò của báo chí trong phòng, chống ‘diễn biến hòa bình’ trên lĩnh vực
tư tưởng văn hóa” (Bộ Quốc phòng, 2017); “Vai trò của báo chí trong định hướng
dư luận xã hội” (Đỗ Chí Nghĩa, 2012); “Báo chí với thông tin đối ngoại” (Lê Thanh
Bình, 2012), “Báo chí với vấn đề biến đổi khí hậu” (Đinh Văn Hường, 2016),
“Quyền được nói: Vai trò của truyền thông đại chúng trong phát triển kinh tế”
(Nguyễn Thị Hòa, 2006), “Truyền thông đại chúng trong công tác lãnh đạo, quản
lý” (Vũ Đình Hòe, 2000), “Vai trò của truyền thông đại chúng trong giáo dục thẩm
mỹ ở nước ta hiện nay” (Trần Ngọc Tăng, 2001), “Về vai trò giám sát xã hội và
phản biện xã hội của báo chí Việt Nam’ (Đặng Thị Thu Hương, 2013)...
14


Trong cuốn “Cơ sở lý luận báo chí” của tác giả Tạ Ngọc Tấn (chủ biên) do
NXB Văn hóa – Thông tin xuất bản năm 1999, nhóm tác giả đã nêu ra các chức

năng của báo chí: chức năng tư tưởng, định hướng dư luận xã hội; chức năng quản
lý giám sát xã hội; chức năng khai sáng giải trí. Trong đó nhấn mạnh báo chí là loại
hình hoạt động đặc thù, ra đời do những nhu cầu khách quan của xã hội đã phát
triển đến một trình độ nhất định của văn minh nhân loại, báo chí mang những tiềm
năng có ý nghĩa to lớn đối với xã hội.
Các công trình nghiên cứu về vấn đề vai trò của báo chí đối với giáo dục
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về vai trò của báo chí đối với giáo dục.
Trong đó, đề tài luận văn thạc sĩ Trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
“Báo in Việt Nam trong công cuộc đổi mới giáo dục hiện nay” của tác giả Văn
Phương Hoa, năm 2010. Đề tài đã sưu tầm, khảo sát tất cả các bài báo có nội dung
liên quan đến các vấn đề đổi mới giáo dục trên 3 tờ báo: Giáo dục & Thời đại, Lao
động, Tuổi trẻ TP. Hồ Chí Minh trong thời gian từ tháng 1-2008 đến tháng 6-2009.
Luận văn đã phản ánh các vấn đề đổi mới giáo dục ở 3 tờ báo nói trên về: những
đóng góp và những hạn chế, rút ra những kinh nghiệm, đề xuất những kiến nghị,
giải pháp để nâng cao hiệu quả tuyên truyền các vấn đề giáo dục trên báo in.
Luận văn thạc sĩ Trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn “Vai trò của
báo chí đối với vấn đề cải cách GDĐT” của tác giả Ưng Sơn Ca, năm 2006, đã tổng
quan về GD và ĐT Việt Nam; vai trò của GDĐT trong hệ thống GD và ĐT. Luận
văn nêu những đặc điểm chung của thông tin GD và ĐT xuất hiện trên báo chí;
phân chia thông tin GD và ĐT trên báo chí theo những nội dung: thông tin về tuyển
sinh, thông tin liên quan đến vấn nạn, tiêu cực, thành tựu, những điển hình tích cực
và những ý kiến đề xuất, góp ý nhằm cải cách GD và ĐT Việt Nam. Căn cứ trên
những cải tiến chủ trương, chính sách GD và ĐT do tác động của các phương tiện
truyền thông đại chúng để khẳng định những tác động cũng như vai trò của báo chí
đối với vấn đề cải cách GD ĐT. Đề xuất, định hướng trong thời gian sắp tới nhằm
nâng cao hiệu quả thông tin, tuyên truyền của báo chí đối với các vấn đề liên quan
đến GD và ĐT.

15



Ngoài ra còn có một số đề tài như: Luận văn thạc sĩ Trường đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn “Tuyên truyền về GDĐT trên báo chí thành phố Hồ Chí
Minh” (Khảo sát các báo Sài Gòn Giải Phóng và Tuổi Trẻ từ năm 1994 - 2004) của
tác giả Trần Thị Phương Thảo, năm 2006; Luận văn thạc sĩ Trường đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn “Báo chí với quá trình hình thành nhân cách của học sinh sinh viên” của Lại Thị Hải Bình, năm 2006; Luận văn thạc sĩ Trường đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn “Vai trò của báo chí ngành GD và ĐT trong thời kì đổi mới
(khảo sát trên báo Giáo dục & Thời đại, Tạp chí Giáo dục, mạng giáo dục Edu.net
từ năm 2001-2005) của tác giả Nguyễn Xuân Đức, năm 2006; Luận văn thạc sĩ:
“Phản biện xã hội về đổi mới giáo dục tiểu học trên báo in hiện nay” của tác giả
Trần Thị Hoa, năm 2013. Đoàn Xuân Kỳ, cũng đã thực hiện thành công luận văn
Thạc sỹ Báo chí của mình về “Vấn đề đổi mới giáo dục đại học trên báo in giai
đoạn 2013 - 2014”… Tuy nhiên theo tìm hiểu của tác giả thì hiện nay chỉ có luận
văn “Vấn đề giáo dục đạo đức cho trẻ em trên kênh truyền hình BiBi” - Luận văn
Thạc sĩ Truyền thông đại chúng của Lê Thị Minh Huyền (2012), là có tính tương
đồng và gần với đề tài nghiên cứu của tác giả nhất. Luận văn này nếu rõ vai trò
quan trọng của truyền hình trong việc giáo dục thiếu nhi, đồng thời đánh giá thực
trạng vấn đề giáo dục đạo đức cho thiếu nhi trên kênh BiBi. Trên cơ sở đó, xác định
những cơ sở khoa học và thực tiễn để xây dựng giải pháp nâng cao chất lượng tuyên
truyền và giáo dục đạo đức cho trẻ thông qua truyền hình nói chung và kênh BiBi
nói riêng.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu nêu trên đều đề cập đến các khía cạnh
liên quan đến đề tài như: Kỹ năng sống, giáo dục kỹ năng sống, vai trò của báo chí
nói chung và vai trò của báo chí trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ em….
Những nghiên cứu này sẽ là những tài liệu hữu ích bổ trợ, cung cấp thông tin giúp
tác giả triển khai hiệu quả đề tài nghiên cứu về “Vấn đề giáo dục kỹ năng sống dành
cho thiếu nhi trên kênh BiBi của Truyền hình Cáp Việt Nam”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài, luận văn

16


khảo sát, đánh giá về nội dung, hình thức các chương trình truyền hình của kênh
VTVcab 8 - BiBi về vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho thiếu nhi. Từ đó chỉ ra
những ưu điểm, cũng như những hạn của các chương trình và đề xuất một số giải
pháp phù hợp nhằm nâng cao chất lượng các chương trình giáo dục kỹ năng sống
cho thiếu nhi.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ những mục đích trên, luận văn tập trung vào các nhiệm vụ cụ thể như sau:
Thứ nhất: Làm rõ những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài như: Các vấn đề
lý luận về giáo dục kỹ năng sống: Khái niệm, vai trò của kỹ năng sống và giáo dục
kỹ năng sống dành cho thiếu nhi; Các vấn đề lý luận liên quan đến truyền hình như:
Khái niệm, vai trò, thế mạnh và hạn chế của truyền hình. Mối liên quan giữa truyền
hình và công tác giáo dục kỹ năng sống cho thiếu nhi.
Thứ hai: Khảo sát, đánh giá về nội dung, hình thức sản xuất các chương trình
truyền hình của kênh VTVcab 8 – BiBi về giáo dục kỹ năng sống cho thiếu nhi.
Thứ ba: Đánh giá ưu điểm và nhược điểm các chương trình truyền hình của
kênh VTVcab 8 – BiBi về giáo dục kỹ năng sống cho thiếu nhi.
Thứ tư: Đề xuất một số giải pháp phù hợp nhằm nâng cao chất lượng các
chương trình giáo dục kỹ năng sống cho thiếu nhi của kênh VTVcab 8 – BiBi.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Vấn đề giáo dục kỹ năng sống dành cho
thiếu nhi trên kênh BiBi của Truyền hình Cáp Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các chương trình đã được phát sóng trên kênh truyền hình
BiBi: “Ngôi sao BiBi”, “Vương quốc các bà tiên ngủ”, “Xúc Xắc Lúc Lắc” từ tháng
03/2015 đến tháng 03/2016.

Đề tài khảo sát ý kiến đánh giá của công chúng tại quận Ba Đình, Cầu Giấy,
Hai Bà Trưng - Hà Nội bằng phương pháp phỏng vấn sâu, phỏng vấn nhóm và điều
tra xã hội học bằng bảng hỏi.
5. Các phương pháp nghiên cứu của đề tài
Các phương pháp nghiên cứu của luận văn bao gồm:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
17


Tác giả hệ thống hóa các văn bản, các công trình khoa học đã công bố liên
quan đến đề tài để xây dựng khung lý thuyết cho đề tài nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích nội dung, thông điệp
Phương pháp phân tích nội dung, thông điệp được dùng để phân tích nội
dung các chương trình dành cho thiếu nhi trên kênh BiBi như: “Ngôi sao BiBi”,
“Vương quốc bà tiên ngủ”, “Xúc Xắc Lúc Lắc” dành cho thiếu nhi trên kênh BiBi
mà tác giả chọn để khảo sát, cũng như phân tích biểu hiện của giáo dục kỹ năng
sống trong các chương trình đó.
- Phương pháp điều tra xã hội học:
* Điều tra bằng bảng câu hỏi
Phương pháp này nhằm khảo sát thực trạng tiếp nhận thông tin giáo dục kỹ
năng sống của thiếu nhi đối với kênh BiBi.
Cụ thể:
- Tác giả phát phiếu trưng cầu ý kiến của 200 thiếu nhi tại Hà Nội và thu về
191 phiếu hợp lệ.
- Trong đó: Trẻ em nam (93 phiếu); trẻ em nữ (98 phiếu)
- Phiếu trưng cầu ý kiến được phát đi ở các quận: Quận Hai Bà Trưng, quận
Ba Đình, Quận Cầu Giấy. Những người được phát phiếu có độ tuổi từ 06 – 12 tuổi
và đã xem các chương trình trên kênh BiBi.
* Phương pháp phỏng vấn sâu
Tác giả tiến hành thực hiện phỏng vấn sâu, trong đó có:

- Phỏng vấn Bộ phận sản xuất chương trình: 05 người
- Phỏng vấn chuyên gia về lĩnh vực trẻ em: 05 người
- Ngoài ra phương pháp phỏng vấn sâu cũng sẽ được thực hiện với 10 bậc
phụ huynh có con ở độ tuổi từ 01-12 tuổi để xem hiệu quả tác động của giáo dục kỹ
năng sống trên kênh BiBi tác động thế nào đến con cái của họ.
* Phương pháp phỏng vấn nhóm
Tác giả tiến hành phỏng vấn với nhóm 10 thiếu nhi.
- Ngoài ra tác giả có sử dụng các phương pháp khác như: Thống kê, diễn
dịch… nhằm thu thập thêm những thông tin phục vụ cho đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận
Đề tài góp phần làm sáng rõ hơn các lý luận về truyền hình đồng thời có thể
làm tài liệu tham khảo cho hoạt động nghiên cứu và cơ sở đào tạo về báo chí.
18


- Ý nghĩa thực tiễn
Những kết quả nghiên cứu xuất phát từ lý luận và thực tiễn của luận văn sẽ
góp phần cho việc thiết kế và xây dựng các chương trình truyền hình mang tính chất
giáo dục kỹ năng sống cho trẻ em mang lại ý nghĩa và hiệu quả cao hơn, đồng thời
giảm thiếu những tác động tiêu cực từ chính các chương trình truyền hình này đối
với trẻ em.
Kết quả nghiên cứu cũng sẽ tác động đến những người chịu trách nhiệm và
sản xuất các chương trình dành cho thiếu nhi của kênh BiBi – Truyền hình Cáp Việt
Nam, thấy được thực trạng, những ưu điểm và hạn chế hiện tại nhằm có những thay
đổi, để vấn đề giáo dục kỹ năng sống sẽ được chú trọng hơn, thể hiện rõ hơn trong
các chương trình dành cho thiếu nhi, và sẽ có hiệu quả hơn trong thời gian tới.
Bên cạnh đó, Truyền hình Cáp Việt Nam cũng đang chú trọng đầu tư và đổi
mới format một số chương trình giáo dục kỹ năng sống phát sóng trên kênh BiBi, hệ
thống OTT và trên các trang mạng xã hội. Vì vậy, nghiên cứu này của tác giả có thể

giúp VTVcab rút được một số kinh nghiệp quý báu, thiết thực để có thể có nhiều
chương trình hay hơn cho khán giả truyền hình trong thời gian tới.
Luận văn góp phần là tài liệu tham khảo phục vụ cho những người quan tâm
đến lĩnh vực này.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục và tài liệu tham khảo, luận văn gồm
có 3 chương như sau:
- Chương 1: Cơ sở lý luận chung của đề tài về truyền hình chuyên biệt và
vấn đề giáo dục kỹ năng sống trên truyền hình
- Chương 2: Nội dung, hình thức thông tin về giáo dục kỹ năng sống cho
thiếu nhi trên kênh BiBi hiện nay.
- Chương 3: Đánh giá hiệu quả kỹ năng sống trong các chương trình dành
cho thiếu nhi trên kênh BiBi và đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng
chương trình kỹ năng sống.

19


20


Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG CỦA ĐỀ TÀI TRUYỀN HÌNH CHUYÊN BIỆT
VÀ VẤN ĐỀ GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG TRÊN TRUYỀN HÌNH
1.1. Truyền hình chuyên biệt và Truyền hình chuyên biệt dành cho thiếu nhi
1.1.1. Khái niệm Truyền hình và truyền hình chuyên biệt và truyền hình chuyên
biệt dành cho thiếu nhi.
1.1.1.1 Khái niện về Truyền hình
Khoảng đầu thế kỉ XX, truyền hình chỉ được sử dụng là công cụ giải trí, rồi
thêm các chức năng thông tin. Dần dần truyền hình đã trực tiếp tham gia vào qua

trình quản lí và giám sát xã hội, tạo lập và định hướng dư luận, giáo dục và phổ biến
kiến thức, phát triển văn hóa, quảng cáo và các dịch vụ khác.
Cùng với sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật và công nghệ, sự ra
đời và phát triển của truyền hình đã tạo ra một kênh thông tin quan trọng trong đời
sống xã hội và dần trở thành phương tiện thiết yếu trong đời sống hiện đại của mỗi
gia đình. Truyền hình cũng trở thành một công cụ sắc bén trên mặt trận văn hóa tư
tưởng cũng như các lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh – quốc phòng.
Thuật ngữ Truyền hình (Television) có nguồn gốc từ tiếng Latinh và Hy Lạp.
Theo tiếng Hy Lạp, từ “Tele” có nghĩa là “ở xa” còn “videre” là “thấy được”, còn
tiếng Latinh có nghĩa là xem được từ xa. Ghép hai từ đó lại thành “televidere” có
nghĩa là xem được ở xa. Tiếng Anh là “Television”, tiếng Pháp là “Television”,
tiếng Nga gọi là “телевидение”. Như vậy dù phát triển ở bất cứ đâu, bất cứ nơi nào
thì tên gọi truyền hình vẫn có một nghĩa chung đó là nhìn thấy được từ xa. [19]
Theo từ điển tiếng Việt: “Truyền hình là hình ảnh, đồng đời có cả âm thanh
đi xa bằng radio hoặc bằng đường dây”. [13]
Trong cuốn Thuật ngữ báo chí – truyền thông của Phạm Thành Hưng định
nghĩa: “Truyền hình là phương tiện truyền thông đại chúng phát thông tin đi xa
bằng cả thông tin và hình ảnh động”.
Như vậy, có rất nhiều khái niệm về truyền hình của nhiều tác giả khác nhau.
Nhìn chung có thể hiểu khái niệm về truyền hình như sau: “Truyền hình là loại
21


hình báo chí truyền tải nội dung bằng hình ảnh động, âm thanh tổng hợp (Lời nói,
tiếng động, âm nhạc và lời bình) tác động đồng thời vào cả hai giác quan thính
giác và thị giác của công chúng”. [5]
Xét theo góc độ truyền tải có truyền hình sóng (wireless TV) và truyền hình
cáp (CATV). Xét dưới góc độ thương mại có truyền hình quảng bá ( public TV) và
truyền hình thương mại (commercial TV). Xét theo tiêu chí mục đích nội dung, người
ta chia truyền hình thành truyền hình giáo dục, truyền hình giải trí…Xét theo góc độ

kỹ thuật có truyền hình tương tự (Analog TV) và truyền hình số (Digital TV).
Truyền hình sóng: (Vô tuyến truyền hình – Wireless TV) được thực hiện theo
nguyên tắc kỹ thuật như sau: hình ảnh và âm thanh được mã hóa dưới dạng các tín
hiệu sóng và phát vào không trung. Các máy thu tiếp nhận các tín hiệu rồi giải mã
nhằm tạo ra hình ảnh động và âm thanh trên máy thu hình (tivi). Còn sóng truyền
hình là sóng thẳng, vì thế ăng ten thu bắt buộc phải “nhìn thấy” được ăng – ten máy
phát và phải nằm trong vùng phủ sóng thì mới nhận được tín hiệu tốt. Từ những đặc
điểm này mà truyền hình sóng chỉ có khả năng đáp ứng nhu cầu của công chúng
bằng các chương trình cho các đối tượng chung; không có khả năng đáp ứng mọi
nhu cầu hay dịch vụ cá nhân.
Truyền hình cáp: (Truyền hình hữu tuyến – CATV – viết tắt của từ
Community Antenna Television) đáp ứng nhu cầu phục vụ tốt hơn cho công chúng.
Nguyên tắc thực hiện của truyền hình cáp là tín hiệu được truyền trực tiếp qua cáp
nối từ đầu máy phát đến từng máy thu hình. Từ đó, truyền hình cáp trong cùng một
lúc có thể chuyển đi nhiều chương trình khác nhau đáp ứng nhu cầu của người sử
dụng. Ngoài ra truyền hình cáp còn phục vụ nhiều dịch vụ khác mà truyền hình
sóng không thể thực hiện được.
1.1.1.2 Khái niệm về Truyền hình chuyên biệt và Truyền hình chuyên biệt dành cho
thiếu nhi.
Kênh truyền hình chuyên biệt (Chaîne de télévision spécialisée) được hiểu là
một kênh truyền hình mà các chương trình của nó nhắm vào một chủ đề nhất định
hoặc một nhóm khán giả cụ thể. Nó trái ngược với chương trình truyền hình tổng
hợp là chương trình dành cho phần đông khán giả.
22


Sự phát triển của kinh tế - xã hội đã làm thay đổi thói quen của công chúng,
thay vì công chúng bị động tiếp nhận thông tin như nhau từ mọi phương tiện truyền
thông như trước đây, thì nhu cầu của họ lại hướng ra nhiều khía cạnh khác nhau. Sự
tan rã của cộng đồng công chúng truyền thông đã làm xuất hiện nhiều nhóm công

chúng chuyên biệt với thói quen hưởng thụ thông tin từ hướng công cộng sang cá
thể. Điều này đòi hỏi các nhà cung cấp nội dung phải chia các gói nội dung và
thông tin để phù hợp với nhu cầu của từng nhóm công chúng.
Sự chuyên biệt về nội dung chương trình tạo sự sâu sắc, hấp dẫn, phù hợp
với người xem. Sự chuyên biệt này tạo sự đa dạng kênh kéo theo sự phong phú và
hài lòng trong chọn lựa khi giải trí hay tìm thông tin cụ thể của khán giả. Đồng thời
đây là một chiến lược phát triển thương mại hiệu quả của các đài truyền hình, bởi
lợi nhuận luôn đi kèm với sự mới lạ, cuốn hút của chương trình.
Như vậy, có thể hiểu “Truyền hình chuyên biệt là một hình thức truyền hình
dịch vụ được xây dựng chuyên nghiệp phát sóng hàng ngày có nội dung chuyên sâu
về một lĩnh vực nhất định (âm nhạc, thể thao, tài chính…) hoặc có nội dung chỉ
dành cho một nhóm đối tượng khán giả mục tiêu (có những đặc điểm chung về lứa
tuổi, giới tính, địa lý...) nhằm mục tiêu phục vụ tốt nhất nhu cầu của công chúng
xem truyền hình”.
Và Truyền hình chuyên biệt dành cho thiếu nhi được hiểu là: “Truyền hình
chuyên biệt dành cho thiếu nhi là một hình thức truyền hình dịch vụ được xây dựng
chuyên nghiệp phát sóng hàng ngày các chương trình có nội dung chuyên sâu dành
cho đối tượng là thiếu nhi.”
Trong xu thế phát triển của truyền hình, truyền hình chuyên biệt dành cho
thiếu nhi đã có quá trình hình thành và phổ biến rất nhanh trên toàn thế giới. Từ
những chương trình truyền hình dành cho thiếu nhi tại Mỹ, Anh,… cho đến nhiều
chương trình đặc biệt khác nhau trên toàn thế giới. Điều này càng cho thấy việc
nghiên cứu về truyền hình chuyên biệt dành cho thiếu nhi có vai trò rất quan trọng.
Trên thế giới, các nước quy định khá rõ ràng về các kênh truyền hình dành
cho trẻ em được phép phát sóng, truyền tải các nội dung, thời lượng ra sao. Năm

23


1990, Quốc hội và Thượng viện tại Hoa Kỳ đều thông qua tiêu chuẩn về “Hành vi

trên truyền hình dành cho trẻ em” bao gồm:
Điều 1, Quy định về kênh truyền hình dành cho trẻ em:
Khoản 101, Quốc hội yêu cầu
(1) bắt buộc các keneh truyền hình phải giúp cho trẻ em tiếp thu về các thông
tin quan trọng, kĩ năng, giá trị, và các hành vi, trong đó có tính giải trí và
tạo sự thú vị cho trẻ em tìm hiểu kiến thức về thế giới
(2) đây là một phần trong việc phục vụ công chúng, các đơn vị truyền hinh
và các nhà cung cấp nên cung cấp các nội dung có thể phục vụ các yêu
cầu đặc biệt dành cho trẻ em
(3) hỗ trợ tải chính trong việc quảng cáo nhằm hỗ trợ cho việc cung cấp các
nội dung cho trẻ em
(4) cần bảo vệ đặc biệt trẻ em khỏi việc quá mức thương mại hoá các kênh
truyền hình
(5) các đơn vị truyền hình và nhà cung cấp nên hợp tac trong việc thực hiện
các chương trình truyền hình dành cho trẻ em và việc quảng cáo luôn có
cân nhắc đến nhân cách của người xem là các em
(6) cần có sự phê chuẩn từ Cơ quan Liên bang Truyền thông đối với nội dung
này
1.1.2. Sự hình thành và phát triển của truyền hình chuyên biệt dành cho thiếu
nhi
1.1.2.1. Sự hình thành và phát triển của truyền hình chuyên biệt dành cho thiếu nhi
trên thế giới
Truyền hình chuyên biệt trên thế giới được biết đến với sự mở đầu của HBO
(viết tắt của Home Box Office), thuộc tập đoàn truyền thông giải trí nổi tiếng của
Mỹ -Time Warner, có trụ sở tại New York, ra đời vào ngày 8 tháng 11 năm 1972,
tiền thân là kênh "The Green Channel", do Charles Dolan xây dựng. Tuy nhiên, lúc
mới ra đời, lượng khán giả của HBO khá thấp. Điều này khiến cho ông chủ đầu
tiên của kênh này - Dolan bị phá sản. HBO rơi vào tay đối tác truyền thông của
Dolan - Time Life năm 1973. [2] Bắt đầu từ ông chủ mới này, kênh HBO phát triển
24



mạnh mẽ và trở thành kênh truyền hình thu phí phát triển nhanh nhất nước Mỹ ở
thời điểm đó.
Cùng với sự bùng nổ của thể loại truyền hình chuyên biệt, truyền hình
chuyên biệt dành riêng cho đối tượng là trẻ em cũng ngày một được chú trọng đầu
tư và xuất hiện ngày càng nhiều.
Nickelodeon: Đây là kênh truyền hình dành cho thiếu nhi đầu tiên trên thế
giới. Đối tượng khán giả chủ yếu của kênh này là thiếu niên độ tuổi từ 08 tới 17
tuổi, ngoài ra còn có các chương trình giáo dục cho trẻ từ 02- 08 tuổi vào mỗi buổi
sáng. Tiền thân của nó là kênh Pinwheel bắt đầu phát sóng từ tháng 01/1977. Ngày
01/04/1979 thì Nickelodeon chính thức lên hình trên hệ thống cáp của Warner và
phát qua vệ tinh trên RCA Satcom.
Disney Channel: Xuất hiện như một kênh truyền hình chuyên biệt được đông
đảo khán giả trên thế giới yêu mến, Disney Channel là một kênh truyền hình chuyên
biệt của Mỹ, được phát trên mạng lưới truyền hình vệ tinh từ ngày 18 tháng tư năm
1983, thuộc sở hữu của Tập đoàn Disney-ABC, Disney là kênh truyền hình dành
cho thanh thiếu nhi, phát sóng 24h/ngày bằng tiếng Anh, có phụ đề Việt ngữ 8 - 10
tiếng/ ngày. Kênh bao gồm những bộ phim hoạt hình Disney nổi tiếng, phim hoạt
hình nhiều tập, các chương trình đặc biệt, phim hài, phim truyền hình nhiều tập
dành cho gia đình, các bộ phim hành động và phiêu lưu kỳ thú. Tuy khởi đầu
Disney Channel chỉ là kênh truyền hình dành cho lứa tuổi thiếu nhi nhưng trong
những năm gần đây, sự đa dạng của người xem đã tăng lên với khán giả lớn tuổi
hơn, thường là thanh thiếu niên, người lớn trẻ tuổi và gia đình trẻ.
Disney Playhouse: Đây cũng là kênh của hệ thống kênh Disney nhưng dành
cho lứa tuổi mẫu giáo. Nội dung kênh chủ yếu là những chương trình giải trí, giáo
dục đơn giản, những khám phá về thế giới xung quanh. Kênh không có phim truyền
hình dài tập mà chủ yếu là phim hoạt hình, phim búp bê và chương trình tổng hợp.
Kênh thiếu nhi CBBC của Đài BBC: Là kênh truyền hình tương đối chuẩn
mực dành cho trẻ em từ 06-12 tuổi của vương quốc Anh, kênh CBBC sản xuất

phim, tin tức, giải trí, phim tài liệu, các chương trình thực tế. Không chỉ làm truyền
hình, CBBC còn có các dịch vụ gia tăng như CBBC Extra, CBBC Quiz, CBBC
25


×