Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

SKKN Một số biện pháp rèn kĩ năng luyện nói cho học sinh lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 20 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI
--------***-------Mã SKKN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG LUYỆN NÓI
CHO HỌC SINH LỚP MỘT

Lĩnh vực: Tiếng Việt
Cấp học : Tiểu học

NĂM HỌC: 2016 -2017

1


I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Môn tiếng Việt ở nhà trường phổ thông nói chung ở nhà trường Tiểu học
nói riêng có một vị trí vô cùng quan trọng. Môn học này là cơ sở là nền tảng
giúp học sinh học tốt các môn học khác. Tiếng Việt vừa là khoa học vừa là công
cụ, phương tiện giúp học sinh lĩnh hội tri thức, rèn luyện kỹ năng, kỹ sảo và phát
triển tư duy. Việc dạy học môn tiếng Việt ở trường Tiểu học với tư cách là dạy
tiếng mẹ đẻ luôn là vấn đề được quan tâm chú ý. Chương trình tiếng Việt Tiểu
học mới chủ trương: “Hình thành và phát triển học sinh các kỹ năng sử dụng
tiếng Việt nghe, nói, đọc, viết” để học tập và giao tiếp trong môi trường của lứa
tuổi". Đây cũng chính là mục tiêu cơ bản của môn tiếng Việt mục tiêu đó coi
trọng tính thực hành các kỹ năng sử dụng tiếng Việt trong những môi trường
giao tiếp cụ thể. Điều này góp phần chỉ đạo việc biên soạn nội dung chương
trình sách giáo khoa và chi phối các nguyên tắc, phương pháp dạy học môn tiếng
Việt nói chung và môn tiếng Việt lớp 1 nói riêng.


Quan điểm giao tiếp, nói cụ thể hơn là quan điểm phát triển lời nói định ra
nguyên tắc, phương hướng xây dựng chương trình môn tiếng Việt. Mỗi phân
môn, mỗi tiết học, mỗi nội dung dạy học điều hướng tới mục đích phát triển của
lời nói. Vấn đề phát triển lời nói cho học sinh không phải bây giờ mới được đề
cập đến. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời
và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó làm cho nó ngày càng
phát triển rộng khắp”. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng đã nói “Trường học
có trách nhiệm lớn lao trong việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Phải làm
cho thế hệ trẻ nói và viết tốt hơn chúng ta”. Muốn thực hiện lời dạy đó trường
tiểu học cần có tổ chức, phương pháp dạy học hợp lý và tích cực nhằm nâng cao
chất lượng dạy học môn tiếng Việt, giúp học sinh sử dụng thành thạo tiếng Việt.
Đáp ứng nhu cầu phát triển giáo dục chương trình môn tiếng Việt mới đã
được triển khai đại trà trên toàn quốc. Một trong những quan điểm cơ bản của
xây dựng chương trình là quan điểm giao tiếp và quan điểm này đã được thể
hiện khá rõ trong sách Tiếng Việt 1. Việc dạy học nói mới bắt đầu hình thành và
rèn luyện cho học sinh kỹ năng nói – Một trong những kỹ năng giao tiếp quan
trọng của con người.
Trẻ lớp 1 trước khi đến trường đã “biết nghe, biết nói” tiếng Việt song
vẫn chưa thực sự thành thạo và thực tế hoạt động nói của các em vẫn còn nhiều
hạn chế. Và chương trình mới môn tiếng Việt 1 yêu cầu giáo viên khi dạy phải
đảm bảo mục tiêu hình thành và phát triển cho học sinh đầy đủ bốn kỹ năng.
Trong đó kỹ năng nói được luyện tập kết hợp trong các kỹ năng đọc, nghe, viết.
Điển hình là trong tiết 2 của một bài học vần có hẳn 1 hoạt động riêng cho phần
2


luyện nói. Việc rèn luyện kỹ năng nói đã giúp cho trẻ có khả năng giao tiếp, biết
ứng xử và nhận xét sự vật, sự việc trên những nhận thức riêng bằng sự cảm nhận
ngây ngô của con mắt trẻ thơ.
Thông qua hoạt động nói các em sẽ phát huy được vốn ngôn ngữ mẹ đẻ,

nói đúng cấu trúc ngữ pháp, mở rộng thêm vốn từ, làm cơ sở cho việc tiếp thu tri
thức sau này. Cũng nhằm hình thành thói quen, ý thực giữ gìn sự trong sáng,
giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam. Vì
ngoài việc cung cấp cho học sinh hệ thống câu từ, lời nói còn rèn luyện cho các
em tính cẩn thận, sự tự tin trước đám đông, trách nhiệm với bản thân và tôn
trọng người tham gia giao tiếp.
Chính vì sự quan trọng của lời nói như vậy mà ngay từ khi học sinh bắt
đầu học lớp 1, bộ môn tiếng Việt đã chú trọng mục tiêu rèn kỹ năng nói cho học
sinh qua các bài học. Cụ thể từ bài học âm, vần đến bài tập đọc, hầu hết bài nào
cũng có phần luyện nói theo chủ đề. Thông qua hoạt động này giúp học sinh mở
rộng vốn từ, vốn hiểu biết và khả năng diễn đạt, mạnh dạn trước đám đông.
Để sự rèn luyện nói của học sinh có tiến bộ, đạt kết quả tốt, tôi đã mạnh
dạn áp dụng một số biện pháp nhằm rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1 ở tiết 2
môn học vần.
2. Mục đích nghiên cứu
- Củng cố kiến thức của bản thân. Qua đó thấy được những tồn tại trong giảng
dạy phân môn học vần ở trường học hiện nay về việc luyện nói cho học sinh.
- Nâng cao cao chất lượng rèn kỹ năng nói cho học sinh.
- Đưa ra một số biện pháp giúp học sinh luyện nói được tốt hơn.
3. Phạm vi nghiên cứu
- Việc đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các môn học là rất cần thiết bởi vì
nó nâng cao chất lượng giáo dục học sinh. Song đề tài này chỉ thực hiện nghiên cứu
trong phạm vi rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh lớp 1 qua phân môn học vần.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân loại
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp thống kê.
5. Đối tượng – Thời gian nghiên cứu
- Học sinh lớp 1 do tôi giảng dạy năm học 2016-2017.

- Sĩ số 60 học sinh.
- Thời gian nghiên cứu: Bắt đầu từ tháng 9/2016 đến tháng 4 năm 2017
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
3


1.Cơ sở lí luận.
- Sự hình thành hoạt động học tập ở trẻ lớp 1: Đi học lớp một là một giai
đoạn mới trong cuộc đời của trẻ. Từ hoạt động vui chơi sang hoạt động học tập là
hoạt động có ý thức. Như phải ngồi nghe giảng bài, học bài những thay đổi đó làm
cho một số em trong giờ học vần thường rụt rè, bỡ ngỡ chưa thích nghi được còn
ham chơi, có tính tự do trong giờ học, không tập trung vì thế đòi hỏi giáo viên ở lớp
trong giai đoạn học vần cần chú ý tạo nên động cơ học tập một cách nhẹ nhàng giúp
các em hứng thú với việc học vần, chú trọng tận dụng các trò chơi học tập.
- Đặc điểm nhận thức của trẻ lớp 1: Các em chưa nhận biết được chính xác
các tri thức khi tri giác các đối tượng, khi học tiếng Việt 1hiện tượng phổ biến là
học sinh đọc được cả tiếng nhưng không rõ được các bộ phận của tiếng, không
phân biệt được sự khác nhau giữa các tiếng, các vần, giữa các con chữ. Nguyên
nhân vì khả năng phân tích yếu chưa phân biệt được sự khác nhau về chi tiết của
các chữ, các vần… vì thế giáo viên cần coi trọng khâu hướng dẫn học sinh phân
tích tiếng , vần, chữ… sau khi cho các em tri giác toàn bộ các từ, tiếng. Ngoài ra trẻ
lớp 1 thích tìm hiểu cái mới,ưa hoạt động, khả năng tập trung chú ý còn yếu. Do
vậy cần tập trung các phương pháp trực quan, đàm thoại, trò chơi học tập.
- Vai trò của việc phát triển kỹ năng nói cho học sinh lớp 1.
+ “Nói” là một trong bốn kỹ năng quan trọng trong việc dạy tiếng Việt
để học sinh có khả năng thực hành giao tiếp nhanh và đạt hiệu quả cao nhất.
Học sinh lớp 1 còn yếu kĩ năng nói và các em còn ngại nói trong các giờ học
do nhiều nguyên nhân khác nhau như: tâm lý ngại ngùng, dè dặt, ngại các
bạn cười khi mình nói sai, do lớp học đông,giáo viên ít có thời gian rèn kĩ
năng nói cho mỗi học sinh. Tổ chức luyện nói tốt sẽ giúp khắc phục bớt

những hạn chế trên.
+ “Học thầy không tày học bạn”. Trong khi luyện nói học sinh có thể học hỏi
lẫn nhau, sửa lỗi cho nhau, tự do nói theo ý của mình mà không ngại thầy cô giáo.
Thông qua hoạt động nói học sinh tiếp thu kiến thức một cách chủ động,
khắc phục được sự ức chế khi trong lớp chỉ có một số học sinh có năng lực tham
gia phát biểu, do vậy sẽ lôi cuốn được toàn thể học sinh trong lớp tham gia hoạt
động kể cả các em có năng lực học còn hạn chế.
+Tăng cường khả năng ứng xử của học sinh trong các tình huống khác
nhau, gây hứng thú,tự tin mạnh dạn cho học sinh khi thực hành giao tiếp, giờ
học sẽ trở nên vui vẻ, sôi nổi và đạt hiệu quả cao.
2.Thực trạng.
2.1. Thuận lợi
4


- Học sinh lớp 1 có khả năng tự trả lời các câu hỏi đơn giản và phát triển
lời nói thành một câu, một đoạn văn theo cảm xúc, suy nghĩ của mình.
- Đa số học sinh đã học qua lớp mẫu giáo nên ít nhiều đã được rèn luyện
các kỹ năng nói, trả lời câu hỏi.
- Nhiều học sinh trong lớp mạnh dạn, tự tin nói trước lớp.
- Đa số học sinh là con em cán bộ công nhân viên nên cũng được bố mẹ
quan tâm đến việc học của con nói chung và rèn nói cho con nói riêng.
- Các em sống ở thành phố được tiếp cận với nhiều phương tiện truyền
thông nên vốn hiểu biết khá phong phú, giúp nhiều đến hoạt động luyện nói của
một số chủ đề.
- Đồ dùng dạy học đầy đủ, có tranh ảnh đẹp, máy chiếu, máy tính thuận
lợi cho việc dạy học và kích thích học sinh luyện nói, ham học, ham tìm hiểu.
- GV được dự giờ, tập huấn riêng cho phần luyện nói, từ đó giúp giáo viên nắm
được các mục tiêu chính trong phần luyện nói cho học sinh trong tiết học vần.
- Đa số chủ đề luyện nói gần gũi với thực tế sống của học sinh như: chủ

đề Bản thân bé, Ba mẹ, Ông bà, Mai sau khôn lớn…
2.2. Khó khăn
- Học sinh lớp 1 còn bé, vốn từ và vốn sống còn ít.
- Nhiều học sinh nói chưa đủ ý, ngôn ngữ diễn đạt còn lộn xộn chưa logic.
- Nhiều học sinh nhút nhát, chưa tự tin, không muốn phát biểu trình bày ý
kiến, chia sẻ với các bạn điều mình nghĩ, mình biết.
- Một số em nói còn quá nhỏ cũng làm cho không khí của giờ luyện nói bị trầm.
- Nhiều chủ đề luyện nói còn khó và không gần gũi đối với học sinh.
- Một số học sinh trong lớp còn ỷ lại hoặc nói theo bạn chứ chưa chịu khó
tìm câu trả lời hay cho mình.
- Một số chủ đề còn xa lạ, không gần gũi với cuộc sống của các em, nên các em
khó hình dung, để phát huy khả năng nghe nói của học sinh một cách phong phú. Ví
dụ như: chủ đề Lễ hội, Vó bè, Đồi núi, Thung lũng, Suối, Đèo, Biển cả…
- Thiếu một số tranh ảnh, clip để minh họa cho chủ đề cần luyện nói .
- Thời lượng dành cho phần luyện nói còn ít nên học sinh không được
luyện nói nhiều.
3. Những vấn đề chung về yêu cầu luyện nói ở lớp 1:
a. Về nội dung
5


+ Luyện nói đã trở thành một nội dung không thể thiếu trong từng giờ
học.
+ Sách Tiếng Việt lớp 1 có hai phần: Phần Học vần có 103 bài và phần
Luyện tập tổng hợp dạy từ tuần 23 trở đi có 120 bài.
+ Nội dung luyện nói trong từng bài đã được sách Tiếng việt lớp 1 xác
định rất rõ ràng. Mỗi bài luyện nói có một tên gọi cụ thể. Trừ 5 bài trong phần
Làm quen với âm và chữ còn các bài luyện nói khác đều có tên gọi :
* Bế bé( bài 7)
*Le le ( bài 8)

* Bờ hồ ( bài 9)….
Yêu cầu luyện nói trong ba dạng bài cơ bản của phần học âm, vần mới
chủ yếu được thực hiện dưới hình thức nói dựa theo tranh và nói dựa theo câu
chuyện được nghe kể ( dạng bài ôn ).
- Ở dạng bài Làm quen với âm và chữ “ phần luyện nói theo tranh tương
đối tự do, theo chủ đề tranh, không gò bó trong các âm và thanh vừ học”. Mục
tiêu của phần luyện nói trong giai đoạn này là giúp học sinh làm quen với không
khí học tập mới, không rụt rè, nhút nhát, dám mạnh dạn nói cho các bạn nghe và
nghe các bạn nói theo hướng dẫn của thầy cô trong môi trường giao tiếp mới –
giao tiếp văn hóa , giao tiếp học đường.
- Ở dạng bài Học vần, vần mới , yêu cầu luyện nói được xác định là “ nói
về chủ đề trong sách giáo khoa, chú ý đến các từ ngữ có âm vần mới học, từ đó
mở rộng sử dụng cả những từ ngữ có âm vần chưa học.
Tóm lại, ở cả hai dạng bài học âm, vần mới này, luyện nói chủ yếu là nói
theo tranh, và tranh có in trong sách học.
- Ở dạng bài Ôn tập âm vần, luyện nói dưới hình thứ Kể chuyện, kể lại
chuyện đã được nghe kể. Kể chuyện có tranh minh họa.
b. Về cấu trúc:
Chương 1: Dạy Luyện nói theo tranh.
Chương 2: Dạy Luyện nói theo câu chuyện được nghe kể
4. Biện pháp hướng dẫn học sinh luyện nói
4.1. Luyện nói theo tranh
Nói theo tranh tức là nói về nội dung bức tranh. Cho nên có người đã gọi
đó là đọc tranh, cũng giống như ta đọc chữ.
Đọc được chữ thì phải nắm được kí hiệu ghi âm, hiểu được cách tạo vần,
tạo tiếng, đọc trơn được tiếng, hiểu được các kiểu câu…Đọc được tranh thì cũng
6


cần nắm được ý nghĩa đường nét ghi lại hình dáng của sự vật, ý nghĩa sắc màu

sử dụng trong hình vẽ, ý nghĩa của cách bố cục đường nét trong hình vẽ.
Đọc tranh còn khó hơn đọc chữ, bởi chữ có câu, có đoạn, có bài nên ý bộc
lộ ra đầy đủ. Đọc tranh nhiều khi chỉ có một hình. Biết dựa vào đâu để hiểu cho
đầy đủ?
Hình vẽ dưới đây là hình gì?

HÌnh trên bảo nó là cái lọ hoa thật đúng. Nhung bảo nó là hai mặt người
đang đối mặt với nhau cũng không có gì là sai cả.
Chính vì vậy mỗi bức tranh trong Sách Tiếng Việt lớp 1 đều có một tên
gọi. Đó chính là chủ đề của bức tranh, là định hướng cho việc xem tranh.
Có thể rút ra cách hướng dẫn học sinh xem tranh như sau:
- Về mục tiêu: Nói được thành câu gãy gọn về nội dung bức tranh dựa
trên chủ đề của bức tranh.
- Về biện pháp:
+ Dùng mắt quan sát đường nét, màu sắc bố cục bức vẽ.
+ Dùng trí tưởng tượng và lien tưởng để cảm nhận nội dung bức tranh
trên cơ sở suy nghĩ xoay quanh chủ đề bức tranh.
+ Dùng lời nói gãy gọn để diễn đạt thành câu có nghĩa.
- Vai trò của người giáo viên hướng dẫn học sinh xem tranh là ở chỗ:
+ Biết dùng câu hỏi gợi mở, giúp học sinh nhận ra những chi tiết có ý
nghĩa trong bức tranh.

7


+ Từ đó gợi ý cho học sinh cảm nhận được ý nghĩa nội dung đường nét
nét, hình vẽ.
+ Hỗ trợ để học sinh nói được thành câu gãy gọn, thoát ý.
Ví dụ : Phần luyện nói bài 23 chủ đề: “Gà ri, gà gô”, khi hướng dẫn học
sinh luyện nói theo tranh cần gợi ý cho các em quan sát ngay vào bức vẽ.


* Con gà ri trong tranh vẽ là gà trống hay gà mái? Tại sao em biết?
* Trong tranh vẽ những con vật nào?
Cần tránh việc coi bức vẽ chỉ là một đề tài để nói về những vấn đề ít hoặc
không lien quan đến nội dung bức vẽ. Chẳng hạn:
* Gà thường ăn gì?
* Em có thể kể tên một số loại gà mà em biết?
* Gà nhà em thuộc loại gà gì?
4.2. Luyện nói theo câu chuyện được nghe kể:
Luyện nói theo câu chuyện được nghe kể tức là luyện kể chuyện. Kể
chuyện là phần luyện nói có yêu cầu cao hơn. Cụ thể là:
- Học sinh phải nói được nhiều câu, nói được thành nhiều đoạn.
- Các câu trong một đoạn và các đoạn trong một bài nói phải cso nội dung
gắn bó với nhau, hình thành một câu chuyện.
- Câu chuyện trình bày trong bài nói phải có một ý nghĩa nhất định.
- Câu chuyện kể phải có nhân vật. Nhân vật trong câu chuyện phải hành
động. Nhân vật hành động tạo nên sự việc. Những sự việc này lien kết với nhau,
8


phát triển theo một chiều hướng chặt chẽ để đem đến cho người nghe một ý
nghĩa xã hội nhất định.
* Mục tiêu của luyện kể chuyện theo tranh là:
- Học sinh nghe và hiểu được nội dung và ý nghĩa câu chuyện giáo viên
kể trước lớp.
- Học sinh nghe và nhớ được các chi tiết chính của từng đoạn dựa vào
tranh minh họa.
- Học sinh kể lại được từng đoạn và toàn câu chuyện đầy đủ nội dung
chính.
- Học sinh nói được thành một câu chuyện, một bài.

* Biện pháp:
- Học sinh biết dựa vào lời kể chuyện của giáo viên và hình vẽ minh họa
mà nắm được nội dung câu chuyện kể.
- Học sinh biết dựa vào tranh minh họa mà kể được từng đoạn và cả câu
chuyện.
Ví dụ : Bài 83 : Ôn tập
Anh chàng ngốc và con ngỗng vàng

5. Biện pháp đã thực hiện

9


a, Điều tra và phân loại đối tượng học sinh. Sau khi nhận lớp, tôi đã cho
lớp ổn định chung về cách chức tổ chức lớp.Qua đó tìm hiểu điều tra để nắm rõ
đối tượng học sinh, đặc biệt là về kĩ năng nói và phân loại học sinh theo hai
nhóm đối tượng.
+ Học sinh nói chưa tốt .(nói nhỏ, diễn đạt chưa rõ ý, nói chưa đủ câu…)
+ Học sinh nói tốt(nói to, rõ ý, đủ câu…)
Dựa vào đó tôi sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh theo hướng : những em nói
chưa tốt ngồi cạnh những em nói tốt để xây dựng đôi bạn cùng tiến.
b,Xác định rõ nội dung và thời gian luyện nói. Từ yêu cầu thực tiễn của
môn Học vần nói chung và rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh lớp 1, tôi đã đặt
cho mình phải xác định rõ nói là một trong bốn kỹ năng (nghe, nói, đọc, viết)
quan trọng của môn Tiếng Việt vì vậy cần được quan tâm đúng mức. Trong giờ
dạy tiếng Việt lớp một,tôi phân chia thời lượng rõ ràng phù hợp với các hoạt
động của bài để đảm bảo nội dung kiến thức được truyền đạt đúng, đủ và vừa
sức đối với học sinh.
c, Thiết kế câu hỏi. Khi tiến hành soạn giáo án cho hoạt động luyện nói nên
thiết kế hệ thống câu hỏi theo cấu trúc từ dễ đến khó phù hợp với năng lực học tập của

học sinh trong lớp.
d,Tổ chức đàm thoại. Khi tổ chức đàm thoại ở lớp trước tiên là giáo viên
nên yêu cầu một cách rõ ràng cho mọi đối tượng đều hiểu được vấn đề mà giáo
viên đặt ra. Khi nêu câu hỏi thì phải chọn học sinh có trình độ phù hợp để trả lời,
không chỉ tập trung vào những học sinh nói tốt mà phải tạo điều kiện cho mọi
đối tượng (nói chưa tốt) trả lời.
đ, Xác định mục tiêu chính của chủ đề luyện nói. Để giúp học sinh rèn
luyện kỹ năng nói và phát triển khả năng diễn đạt ý phong phú giáo viên phải
xác định rõ mục tiêu chính của chủ đề cần luyện nói là gì? Chính chủ đề là điểm
tựa, gợi ý cho phần luyện nói, gợi ý sao cho tất cả học sinh được nói không đi
quá xa với chủ đề.
Chẳng hạn như: Chủ đề “Nói lời cảm ơn”, “Giúp đỡ cha mẹ”, “Con ngoan
trò Giỏi”… Nếu đi quá sâu vào chủ đề sẽ dễ lẫn sang dạy Đạo đức.Vì thế để
khắc phục điều này, tôi chỉ định hướng cho các em câu hỏi gợi ý xoay quanh
vấn đề trọng tâm cần luyện nói:
+ Em chỉ kể cho cô và các bạn nghe về những lần mình đã cảm ơn ai đó
về điều gì?
+ Hoặc kể những việc em đã làm để giúp đỡ cha mẹ mình.

10


+ Kể những việc đã làm thể hiện em đã cố gắng để trở thành con ngoan
trong gia đình, một người trò giỏi trong trường học. Hoặc những chủ đề về
“Biển cả”, “Thung lũng, suối , đèo”, “Gió, mây, mưa, bão,l ũ”… lẫn sang việc
dạy Tự nhiên và xã hội. Do đó tôi cũng giúp học sinh bằng cách gợi ý những câu
hỏi sát với chủ đề không sa đà vào tìm hiểu kĩ các hiện tượng xảy ra trong thiên
nhiên. Chẳng hạn những chủ đề về các sự vật, hiện tượng xảy ra trong thiên
nhiên cho học sinh xem một số tranh ảnh hoặc video, clip về các hiện tượng đó .
HS sẽ nêu được tên các sự vật, hiện tượng. Sau đó, tôi chỉ cần nêu câu hỏi gợi

yscho các em cùng thảo luận về những tác hại hoặc bằng những cách nào để
ngăn chặn, bảo vệ khi chúng xảy ra. Những chủ đề nói về động vật, tôi có thể
cho học sinh sắm vai tên của các con vật nào đó “Nói lên nhận xét của riêng
mình về chúng” . (Em yêu, không thích con vật nào đó?. Tôi nắm bắt thực tế về
khả năng nói của từng em để lựa chọn phương pháp, hình thức dạy luyện nói
cho phù hợp với đối tượng.Phải chuẩn bị cho hệ thống câu hỏi gợi ý cho từng
nhóm đối tượng tùy nội dung từng bài.
Tùy theo nội dung từng chủ đề mà tôi có định hướng cho học sinh luyện
nói. Khi đặt câu hỏi để giúp các em luyện nói cho sát với nội dung bài. Tôi phải
chuẩn bị và dự trù thêm một số câu hỏi cho từng đối tượng, đi từ câu hỏi tổng
quát rồi mới gợi ý bằng những câu hỏi nhỏ (Khi các em lúng túng sẽ dễ dàng có
cơ sở để theo sự định hướng của cô để luyện nói).
e, Chuẩn bị tranh ảnh, phương tiện dạy học. Phục vụ cho phần luyện nói
thêm sinh động. Ngoài những tranh ảnh được cấp, tôi đã sưu tầm thêm một số tranh
ảnh khác liên quan đến bài dạy phần luyện nói thêm phong phú và gần gũi. Chẳng
hạn như chủ đề về cây cối, hoa trái đưa những vật thật, tranh ảnh. Phân các chủ đề
ra thành nhiều nhóm khác nhau để lựa chọn phương pháp, hình thức khác nhau,
thay đổi cho phù hợp với cá nhận, nhóm…Với chủ đề gần gũi với học sinh như chủ
đề “Ba má”, “Quà quê”, “Nhà trẻ”…có thể cho học sinh sắm vai nhân vật thể hiện
tình cảm của ông bà,ba mẹ đã yêu thương quan tâm,chăm sóc em. Hoặc những tình
cảm,việc làm của em thể hiện sự hiếu thảo của một người cháu, người con với ông
bà, cha mẹ của mình.
Với những chủ đề lạ, khó hơn như chủ đề Vó bè, suối, đèo,thung lũng, lễ
hội, Ao, hồ, giếng, Ruộng bậc thang tôi cho học sinh quan sát tranh thật kĩ. Tôi
giới thiệu trực tiếp đó là vó bè .Tôi gợi ý để các em nói được dụng cụ đó đặt ở
đâu, dung để làm gì.

Chủ đề Ba Vì
11



Sau khi cho học sinh quan sát tranh xong, tôi giới thiệu trực tiếp luôn.
Tranh vẽ cảnh ở Ba Vì. Gợi ý cho các em nêu lên những cảnh vật có trong bức
tranh đó. “Cảm nhận về cảnh vật ở đó như nào? Thích hay không thích? Tại sao
thích?”.
Phương tiện dạy học tranh ảnh trong sách giáo khoa là chính. Sưu tầm thêm
một số tranh ảnh.

12


g, Phương pháp và hình thức dạy: Do học sinh lớp 1 rất thụ động, ít giơ
tay phát biểu. Học sinh phát biểu chỉ dừng lại ở trả lời những câu hỏi giáo viên
nêu. Do vậy để giúp các em làm quen và phát triển khả năng nói tôi đã gợi ý
bằng hệ thống câu hỏi qua phương pháp đàm thoại. Bước đầu chỉ dừng lại ở
việc “Thầy hỏi, trò đáp”. Dựa trên lời nói của học sinh, tôi sẽ chỉnh sửa sao cho
rõ gọn, đủ ý, diễn đạt ý theo nội dung câu hỏi xoay quanh chủ đề.
Ví dụ:
- Khi dạy hoạt động nói theo chủ đề “bê, nghe, bé” ở bài 25: u – ư giáo
viên xây dựng hệ thống câu hỏi như sau:
+ Tranh vẽ là gì? (Tranh vẽ bê, nghe, bé)
+ Bê và nghé ăn gì? (bê và nghé ăn cỏ)
+ Bê là con của con gì? (Bê là con của con bò)
+ Nghé là con của con gì? (Nghé là con của con trâu)
+ Ba nhân vật trong tranh có gì chúng? (Ba nhân vật đều nhỏ)
- Nếu các em trả lời đúng nhưng chưa thành câu, tôi chú ý uốn nắn sửa
chữa ngay và cho học sinh nói lại để các em nhớ.
Ví dụ:
Khi giáo viên hỏi:
+ Bức tranh vẽ gì?


13


Học sinh trả lời: Bê (nghé, bé)
Lúc này giáo viên yêu cầu học sinh nói lại cho thành câu như sau:
+ Bức tranh vẽ bê (nghé và bé).
Ví dụ: Chủ đề “Quà quê”
Giáo viên đưa nội dung một số câu hỏi:
1. Bức tranh vẽ gì?
2. Quà quê gồm những thứ gì?
3. Em thích quà gì nhất?
4. Ai cho em quà?
5. Được quà em chia cho mọi người không?
6. Mùa nào thường có nhiều quà ở làng quê?
Tôi dành những câu hỏi dễ (câu 1,3,4,5) cho các bạn học sinh nói chưa
tốt, còn câu hỏi số 2,6 dành cho học sinh có năng lực nói tốt hơn. Khi các em
học sinh trả lời tôi luôn chú ý các em nói thành câu, diễn đạt đủ ý, ví dụ: Bức
tranh vẽ cảnh bà đang chia quà quê cho các bạn nhỏ.
- Học sinh quan sát tranh và diễn đạt lại những gì đã quan sát được khi
nhìn tranh. Mỗi hình vẽ trong tranh là một tình huống thể hiện chủ đề của bài.
Khi học sinh đã quen với việc luyện nói, GV sẽ nâng dần hình thức trong quá
trình dạy luyện nói . Chuẩn bị hệ thống câu hỏi gợi mở thật kĩ. Ban đầu là những
câu hỏi để dành cho học sinh chọn và giúp cả lớp có được ý chính của chủ đề
cần được luyện nói. Sau đó câu hỏi được nâng dần lên cao hơn. Chẳng hạn với
chủ đề Chợ Tết . Tôi cho học sinh nghe nhạc về ngày Tết các em dễ dàng hình
14


dung và nhận ra ngay chủ đề cần phải luyện nói về ngày Tết.Tôi đưa ra một số

câu hỏi mở để từng cá nhân có thể trả lời dễ dàng như:
+ Tranh vẽ cảnh gì?
+ Trong tranh con thấy có ai và có những gì?
+ Họ đang làm gì?
+ Con đã đi chợ Tết bao giờ chưa?
Một số câu hỏi khác khái quát hơn để các nhóm cùng thảo luận , diễn đạt
ý , hoàn chỉnh thành một đoạn văn.
+ Mọi người khi đi chợ Tết thế nào?
+ Ba mẹ con đi chợ Tết thường mua những gì?
+ Con đã đi chợ Tết bao giờ chưa?
- Tổ chức các hoạt động trò chơi tạo hứng thú giúp các em mạnh dạn, tự
tin, tích cực tham gia quá trình luyện nói. Chẳng hạn như chủ đề Nặn đồ chơi,
Áo choàng, áo len, áo sơ mi, Ghế tựa, ghế xoay, ghế đẩu. Học sinh được tham
gia chơi nặn hình bằng đất màu, hay chọn áo phù hợp với thời tiết…
- Tổ chức luyện nói theo hình thức cá nhân, nhóm đôi, nhóm ba, nhóm
bốn. Học sinh tự nói cho nhau nghe cùng trao đổi những nhận biết và bày tỏ
những cảm xúc của mình về nội dung chủ đề luyện nói.
- Cần lưu ý để tạo ấn tượng tốt cho các em khi giảng dạy nói chung và khi
đàm thoại nói riêng, giáo viên phải thực sự gương mẫu trong việc nói năng, nói đủ
ý, diễn đạt gãy gọn và trong quá trình rèn luyện cho học sinh qua từng câu, từng bài
nên kiên trì, không nóng vội mà quát nạt, giận dỗi hay trách móc học sinh. Phải hết
sức cởi mở, nhã nhặn với các đối tượng trong lớp tạo không khí vui vẻ, phấn chấn,
động viên, khen thưởng kịp thời giúp các em có cảm giác thoải mái, hứng thú thì
hoạt động nói mới diễn ra một cách thuận lợi, đạt hiệu quả.
- Nên chú trọng tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý, những khó khăn của học
sinh trong lớp để có sự chia sẻ, thông cảm động viên các em nói nhiều và mạnh
dạn hơn bắt đầu từ những điều đơn giản nhất, dần dần tăng mức độ khó lên theo
thời gian.
i, Công tác chuẩn bị. Với một số chủ đề khó giáo viên phải nhắc học sinh
chuẩn bị trước, để đến lớp có cơ sở tự tin nói.

Ví dụ: Chủ đề luyện nói : “Gà ri, gà gô”
- Đây cũng là chủ đề khó đối với học sinh, đặc biệt là học sinh ở thành
phố. Với chủ đề này tôi yêu cầu học sinh về nhà xem thông tin trên mạng, hỏi bố
mẹ về hai loại gà này. Và tôi đã đưa ra những câu hỏi định hướng trước để học
sinh chuẩn bị.
15


1. Gà gô, gà ri thường sống ở đâu?
2. Gà thường ăn gì?
3. Chúng ta nuôi gà để làm gì?
4. Nhà em có nuôi gà không, đó là loại gà gì?
- Đối với giáo viên: tôi đã tải video clip về hai loại gà ri, gà gô cho học
sinh xem để dựa vào đó học sinh có thể nói được những hiểu biết của mình về
gà ri, gà gô.
Ví dụ: Chủ đề: Lễ hội (bài 33)
- Với bài này: sau khi học xong bài 32 tôi dặn dò học sinh về nhà, xem
trên mạng về lễ hội hoặc con nhớ con đã tham dự lễ hội nào
- Chú ý quan sát kỹ cờ treo, con người và các hoạt động trong lễ hội và
cũng đưa ra các câu hỏi gợi ý.
1. Quê em có những lễ hội gì? Vào mùa nào?
2. Trong lễ hội thường có những gì? (Cờ treo, con người, ăn mặc, hát ca,
các trò chơi…)
3. Em đã được đi dự lễ hội nào chưa? Ai đưa em đi?
4. Qua tivi hoặc nghe kể em thích lễ hội nào nhất?
h, Xác định kĩ năng cần đạt khi dạy luyện nói. Trọng tâm khi dạy luyện
nói cho học sinh tôi thường chú ý rèn kỹ năng nói to, rõ tiếng, nói thành câu,
thành đoạn hoàn chỉnh hay, giàu cảm xúc với một ngữ điệu chân thành, tự nhiên.
- Ngoài ra trong giao tiếp hằng ngày giáo viên và học sinh, giữa học sinh
và học sinh giáo viên cũng phải hết sức chú ý phát hiện và sửa chữa kịp thời khi

các em nói trống không, không đủ ý, xưng hô không phù hợp, ngôn ngữ diễn đạt
còn lộn xộn. Trường hợp các em nhút nhát không muốn nói thì giáo viên gần
gũi, động viên đặt câu hỏi và gợi ý để các em trả lời từ những điều đơn giản nhất
trong cuộc sống.
Ví dụ:
+ Hôm nay ai đưa em đi học? (Hôm nay bố đưa em đi học)
+ Em thích học nhất là môn nào? ( Môn Toán là môn em thích học nhất.
- Trong thời gian ( khoảng 2 tuần) đầu năm học, tôi hướng dẫn rõ ràng
quy trình của một giờ học tiếng Việt gồm những hoạt động nào, yêu cầu của
từng hoạt động này ra sao rồi cho các em thực hiện, đến đâu tôi nhắc nhở, uốn
nắn đến đó dần các em đã quen với nề nếp, cách thức học trong các hoạt động
này và chất lượng học tập ngày càng tiến bộ. Riêng ở hoạt động luyện nói, tôi
hướng dẫn rất cụ thể các bước tiến hành như sau: Nhắc học sinh lắng nghe cô
nêu yêu cầu, nêu xong yêu cầu học sinh nhắc lại xem các em có nắm được nội
16


dung cô yêu cầu chưa, nếu chưa thì giáo viên giải thích thêm cho các em hiều.
Khi đã hiểu ra vấn đề giáo viên tiến hành cho các em tập nói theo nhóm nhỏ
(nhóm đôi) trong lúc các em nói, cô đến các nhóm lắng nghe để giúp đỡ, uốn
nắn cách nói cho các em. Khi trình bày trước lớp nên cho các em nhận xét, tham
gia sửa chữa để rút kinh nghiệm lẫn nhau.
- Khi yêu cầu các em cùng nói về một vấn đề nào đó thì có những em chỉ
đưa ra câu trả lời giống y như bạn chứ chưa sáng tạo nói theo suy nghĩ của mình
để tranh luận về vấn đề đó thì giáo viên nên động viên, gợi ý để các em nói khác
đi để nội dung bài nói được mở rộng, sâu sắc và sinh động hơn.
- Đối với những học sinh thiếu tự tin, rụt rè, ít nói thì giáo viên chia nhỏ
câu hỏi và hỏi nhiều lần, động viên, ghi nhận những đóng góp dù nhỏ của các
em; với những trường hợp các em mói quá nhỏ cả lớp đều không nghe thấy thì
giáo viên sắp xếp cho các em ngồi ở khoảng giữa lớp và giải thích cho các em

hiểu là nói nhỏ như thế các bạn không nghe và không tham gia xây dựng bài tốt
được, lớp học sẽ rất buồn chán. Từ đó yêu cầu các em nói lại, ở mỗi lần nói lại
thì yêu cầu các em nói to hơn, to hơn nữa, dần dần các em sẽ quen với âm lượng
nói thế nào là đủ nghe.
- Với những học sinh diễn đạt ngôn ngữ lộn xộn thì sau mỗi lần nói, giáo
viên hướng dẫn các em sắp xếp thứ tự những điều cần nói có trước có sau và nói
lại thật phù hợp với yêu cầu đặt ra.
- Trong khi giáo viên phát hiện học sinh phát âm sai, hay dùng từ không
đúng trong một số trường hợp thì giáo viên cần sửa chữa ngay và cho các em nói
lại để ghi nhớ.
i, Kết hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh.
- Để phụ huynh học sinh kết hợp chặt chẽ với giáo viên trong việc dạy con
học tập và giúp con luyện nói tốt thì:
+ Trong buổi họp phụ huynh học sinh đầu năm tôi đã giúp phụ huynh học
sinh hiểu được tầm quan trọng của việc nói như thế nào.
+ Từ đó tôi yêu cầu phụ huynh học sinh phải thực sự gương mẫu, trong
việc nói năng phải có chừng mực, lịch sự, nhã nhặn, đủ ý, đủ câu với con và với
mọi người xung quanh để con học tập rồi nói theo.
- Thường xuyên chú ý sửa sai khi con nói chưa đúng.
- Giúp con chuẩn bị luyện nói, chủ đề khó hướng dẫn con truy cập, tìm
hiểu trên mạng internet hoặc báo chí.
- Đối với học sinh rụt rè, nhút nhát, nói nhỏ tôi thường xuyên trao đổi với
phụ huynh học sinh động viên, chia sẻ, khuyến khích con thêm.
17


- Bám sát thông tư 22 của Bộ giáo dục ban hành để nhận xét động viên
học sinh kịp thời, tạo hứng thú cho các em khi học luyện nói.
+ Ví dụ: Với những học sinh còn nhút nhát , chưa mạnh dạn nếu trình bày
đúng chủ đề nhưng nói còn nhỏ giáo viên có thể khen “ Cô khen con nói đủ ý,

đúng chủ đề nhưng nếu con nói to hơn nữa thì sẽ rất hay”. Hoạc những em khá
giỏi , tự tin khi nói , có thể khen “ Cô khen con nói đúng chủ đề, rõ ý và rõ ràng,
nhưng nếu con biết kết hợp cử chỉ, điệu bộ trong khi nói thì thật là tuyệt vời”…
6. Kết thúc vấn đề
- Thế giới ngôn từ không có điểm tận cùng, việc nói để ứng xử giao tiếp
trong xã hội bằng tiếng Việt phải học tập suốt đời. Vì vậy để giúp học sinh nói
tốt ngay từ lớp 1 là điều rất cần thiết, đáp ứng được mục tiêu của môn tiếng Việt,
tạo điều kiện cho các em học tốt các môn khác và ở bậc cao hơn. Nó còn phù
hợp với việc đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng dạy và học hiện nay.
- Bằng tâm huyết của mình, tôi đã thực hiện tốt các biện pháp đã đề ra,
qua thời gian thực hiện kết quả đạt được rất khả quan. Học sinh hứng thú học
môn Học vần nhất là trong hoạt động luyện nói. Lớp học sinh động. Học sinh
tích cực tự giác giơ tay để phát biểu ý kiến. Các em biết diễn đạt ý nghĩ, vấn đề,
cảm xúc của mình một cách tự nhiên, nói đủ nghe, khá gãy gọn. Khoảng 70%
học sinh nói thành một đoạn văn 3-4 câu đúng với nội dung cần luyện nói.
Những em rụt rè, nhút nhát đã nhanh nhẹn, tích cực hơn, cũng đã nói được thành
câu đơn giản và giải thích sự việc theo ý hiểu của mình. Đó là điều làm cho tôi
cảm thấy rất vui vì đã uốn nắn được các em phát huy theo hướng tích cực.
- Kết quả cụ thể như sau:
Thời gian

HS nói tốt

Tỷ lệ (%)

HS nói chưa
tốt

Tỷ lệ (%)


Giữa học kì I

20

33,3%

40

66,7%

Cuối học kì I

34

56,7%

26

43,3%

Giữa học kì II

47

78,3%

13

21,7%


III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
18


Trên tinh thần đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực. Yêu cầu
luyện nói cũng nhằm mục đích phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Do vậy tôi đã bước
đầu nghiên cứu và áp dụng mọi hình thức nhằm giúp việc giảng dạy đạt hiệu
quả. Tôi thiết nghĩ mỗi người giáo viên truyền thụ kiến thức cho học sinh một
cách nhẹ nhàng , biết cách khơi gợi, kích thích, động viên và tổ chức cho học
sinh tích cực học tập, nói năng hứng thú, bộc lộ cảm xúc, ý nghĩ của mình một
cách hồn nhiên độc đáo là điều mà giáo viên cần làm.
Mỗi giáo viên phải thực sự yêu nghề, mến trẻ, nhiệt tình, gương mẫu, luôn
đổi mới phương pháp dạy học, luôn thay đổi hình thức dạy học, luôn trau dồi
nghiệp vụ, kiến thức, học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp để nâng cao chất
lượng dạy luyện nói.
2. Khuyến nghị
Để khả năng nói của học sinh tiếp tục được nâng cao, tôi mạn phép đưa ra
một vài ý kiến đề xuất với các cấp chỉ đạo như sau:
- Cần trang bị thêm tranh ảnh, video, clip có nội dung liên quan đến chủ đề
luyện nói để giúp giáo viên trong công tác giảng dạy.
- Tăng thời gian cho phần luyện nói ở tiết 2 môn Học vần.
- Hàng tháng tổ chức sân chơi học tập giữa các lớp để học sinh mạnh dạn giao
tiếp với bạn khác lớp về kiến thức đã học.
Trên đây là một số ý kiến và việc làm của riêng tôi về rèn kỹ năng nói
cho học sinh lớp 1. Tất cả những việc làm đó đều hướng tới một mục đích là cải
thiện nâng cao chất lượng nói cho học sinh và hình thành cơ sở ban đầu cho sự
phát triển ngôn ngữ và trí tuệ lâu dài cho học sinh. Làm được như thế chúng ta
đã góp phần nho nhỏ thực hiện thành công trong việc đổi mới chương trình sách
giáo khoa mới của Bộ Giáo dục.

Kính mong sự đóng góp ý kiến của hội đồng xét duyệt sáng kiến để việc
giảng dạy của tôi đạt kết quả tốt.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
(Tôi xin cam đoan sáng kiến kinh nghiệm này là
do tôi tự viết và không sao chép của ai)
Hà Nội, ngày 10 tháng 4 năm 2017
Người viết

MỤC LỤC
19


I. ĐẶT VẤN ĐỀ

1

1. Lý do chọn đề tài

1

2. Mục đích nghiên cứu

2

3. Phạm vi nghiên cứu

2

4. Phương pháp nghiên cứu


2

5. Đối tượng - Thời gian nghiên cứu

2

II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

3

1. Cơ sở lý luận

3

2. Thực trạng

4

2.1. Thuận lợi

4

2.2. Khó khăn

4

3. Những vấn đề chung về yêu cầu luyện nói ở lớp 1

5


4. Biện pháp hướng dẫn học sinh luyện nói

5

4.1. Luyện nói theo tranh

5

4.2. Luyện nói theo câu chuyện được nghe kể

7

5. Biện pháp đã thực hiện

9

6. Kết thúc vấn đề

17

III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

18

1. Kết luận

18

2. Khuyến nghị


18

20



×