Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN BẮC TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (635.66 KB, 101 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
--------***-------

TRẦN NGỌC ANH

NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ
VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI
TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN BẮC TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

Hà Nội 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
--------***-------

TRẦN NGỌC ANH

NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ
VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI
TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN BẮC TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Quản lý đất đai
Mã số: 60 85 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Ngô Đức Phúc



Hà Nội 2018
2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Đề tài “Nghiên cứu thực trạng và giải pháp nhằm hạn chế
vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai trên địa bàn quận Bắc Từ Liêm, thành
phố Hà Nội" là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong
Luận văn này là hoàn toàn trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công
trình nghiên cứu nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong luận văn đều có xuất xứ,
nguồn gốc cụ thể. Việc sử dụng các thông tin này trong quá trình nghiên cứu là hoàn
toàn hợp lệ.
Hà Nội, ngày tháng

năm 2018

Tác giả

Trần Ngọc Anh

i


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến tập thể các giáo sư, các
nhà khoa học, thầy giáo, cô giáo của trường đại học Khoa học và Tự nhiên đã tận tình
truyền đạt kiến thức chỉ bảo tôi trên con đường học tập nghiên cứu khoa học;
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới PGS.TS. Ngô Đức Phúc và PGS. TS

Trần Văn Tuấn là người hướng dẫn luận văn của tôi, đã giành nhiều tâm huyết, trí tuệ
mẫn tiệp của mình, giúp định hướng khoa học và luôn động viên khích lệ tôi hoàn
thành luận văn một cách tốt nhất;
Xin cảm ơn bạn bè lớp Cao học Quản lý đất đai 2015 - 2017 cùng bạn bè, đồng
nghiệp tại UBND Quận Bắc Từ Liêm, Thanh tra Quận Bắc Từ Liêm, Văn phòng
HĐND & UBND Quận Bắc Từ Liêm, phòng Tài nguyên & Môi trường Quận Bắc Từ
Liêm, cán bộ địa chính các phường thuộc quận Bắc Từ Liêm đã ủng hộ, động viên tôi,
giúp đỡ tôi tìm kiếm chuẩn bị và cung cấp cho tôi nhiều tài liệu thông tin quan trọng
cũng như đóng góp cho luận văn của tôi nhiều ý kiến đóng góp quý báu;
Cuối cùng tôi xin đặc biệt cám ơn những người thân trong gia đình đã quan tâm
chia sẻ và tạo điều kiện tốt nhất để tôi có thể yên tâm vững lòng hoàn thiện luận văn
này.
Tác giả luận văn

Trần Ngọc Anh

ii


MỤC LỤC

iii


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt
HĐND
KH
KPHQ


Chữ viết đầy đủ
Hội đồng nhân dân
Kế hoạch
Khắc phục hậu quả



Quyết định

TB

Thông báo

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

UBND

Ủy ban nhân dân

VPHC

Vi phạm hành chính

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


XPVPHC

Xử phạt vi phạm hành chính

iv


DANH MỤC BẢNG
BẢNG 2.1 HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG ĐẤT QUẬN BẮC TỪ LIÊM NĂM 2017.........54
BẢNG 2.2 TỔNG HỢP THỐNG KÊ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC
ĐẤT ĐAI TỪ NĂM 2010 ĐẾN NĂM 1/4/2014..................................................................57
BẢNG 2.4. TỔNG HỢP SỐ LƯỢNG VI PHẠM HÀNH CHÍNH VỀ ĐẤT ĐAI TRÊN
ĐỊA BÀN 5 PHƯỜNG KHÔNG BI CHIA TÁCH CỦA QUẬN BẮC TỪ LIÊM GIAI
ĐOẠN 2014 - 2017..................................................................................................................66
BẢNG 2.5. TỔNG HỢP SỐ LƯỢNG VI PHẠM HÀNH CHÍNH VỀ ĐẤT ĐAI TRÊN
ĐỊA BÀN 8 PHƯỜNG MỚI CỦA QUẬN BẮC TỪ LIÊM GIAI ĐOẠN 2014 - 2017.66
BẢNG 2.6. PHÂN LOẠI HÀNH VI VI PHẠM ĐẤT ĐAI CHỦ YẾU TRÊN ĐỊA BÀN
QUẬN BẮC TỪ LIÊM GIAI ĐOẠN 2014 - 2017.............................................................67
BẢNG 2.7. THỐNG KÊ HÌNH THỨC XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG
LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN TỪ LIÊM GIAI ĐOẠN 2010 - 1/4/2014
...................................................................................................................................................71
BẢNG 2.8. THỐNG KÊ HÌNH THỨC XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG
LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN BẮC TỪ LIÊM GIAI ĐOẠN 1/4/2014 2017...........................................................................................................................................74

DANH MỤC HÌNH
HÌNH 2.1. SƠ ĐỒ VỊ TRÍ QUẬN BẮC TỪ LIÊM...........................................................44

v



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Luật Đất đai đầu tiên của Việt Nam được ban hành đã khẳng định: “Đất đai là
tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan
trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các
cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh và quốc phòng”. Đất đai có vai trò quan trọng
như vậy, nên Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm vấn đề đất đai, tăng cường
quản lý nhà nước về đất đai thông qua việc ban hành, sửa đổi, bổ sung các quy định,
các chủ trương, đường lối, chính sách trong quản lý nhà nước về đất đai cho phù hợp
với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Thực tiễn cho thấy, từ khi nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, nhà
nước thực hiện cơ chế quản lý mới bằng việc trả lại đất đai những giá trị vốn có thì
tình trạng vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai phát sinh có xu hướng ngày càng
tăng cả về số lượng cũng như tính chất phức tạp về mặt hành vi. Tính phức tạp của
hành vi vi phạm trong lĩnh vực đất đai không chỉ bắt nguồn từ những lợi ích kinh tế, từ
hệ quả của sự quản lý thiếu hiệu quả của cơ quan công quyền, sự bất hợp lý và thiếu
đồng bộ của hệ thống chính sách, pháp luật đất đai... mà còn do những nguyên nhân có
tính lịch sử trong quản lý và sử dụng đất đai qua các thời kỳ.
Bắc Từ Liêm là một quận thuộc Hà Nội, nằm dọc phía bờ nam của sông Hồng,
Đông giáp quận Tây Hồ, Đông Nam giáp quận Cầu Giấy, Tây giáp huyện Đan
Phượng, huyện Hoài Đức, Nam giáp quận Nam Từ Liêm, Bắc giáp huyện Đông Anh.
Quận được thành lập theo Nghị quyết số 132/NQ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2013 của
Chính phủ, trên cơ sở tách 9 xã: Thượng Cát, Liên Mạc, Tây Tựu, Thụy Phương, Minh
Khai, Phú Diễn, Đông Ngạc, Xuân Đỉnh, Cổ Nhuế; 9,30 ha diện tích tự nhiên và 596
nhân khẩu của xã Xuân Phương; 75,48 ha diện tích tự nhiên và 10.126 nhân khẩu của
thị trấn Cầu Diễn thuộc huyện, thành 13 phường mới (Thượng Cát, Liên Mạc, Thụy
Phương, Tây Tựu, Minh Khai, Phúc Diện, Phú Diễn, Cổ Nhuế 1, Cổ Nhuế 2, Đông
Ngạc, Đực Thắng Xuận Đỉnh, Xuân Tảo). Trong quá trình đô thị hóa những năm vừa
qua, nhu cầu phát triển kinh tế của từng tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đã thúc đẩy việc


1


xây dựng và sử dụng đất vào mục đích để ở và kinh doanh, sản xuất ngày càng phát
triển. Tuy nhiên với sự am hiểu pháp luật về đất đai còn hạn chế, từ đó đã phát sinh
nhiều vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.
Vì vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu về vi phạm hành chính và xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực đất đai thực sự có ý nghĩa cấp bách cả về lý luận cũng như thực
tiễn, không những giúp Nhà nước trong nỗ lực xác lập cơ chế xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực đất đai một cách có hiệu quả mà còn góp phần vào việc bổ sung,
hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay và lập lại kỉ cương hành chính và sử dụng đất bền
vững tại quận Bắc Từ Liêm, nhất là tại các phường mới được thành lập, qua đó góp
phần lập lại kỷ cương, phòng, chống vi phạm, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước
trong lĩnh vực đất đai là rất cần thiết. Xuất phát từ lý do thực tiễn đó, học viên đã chọn
đề tài luận văn thạc sỹ:
“Nghiên cứu thực trạng và giải pháp nhằm hạn chế vi phạm hành chính
trong lĩnh vực đất đai trên địa bàn quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội."

2. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng vi phạm hành chính, xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực đất đai, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế vi phạm hành chính trong
lĩnh vực đất đai trên địa bàn quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

3. Nội dung nghiên cứu
- Tổng quan những vấn đề về lý luận cũng như các quy định pháp luật về vi
phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai và xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất
đai theo Luật đất đai 2003, Luật Đất đai 2013 và các văn bản dưới luật.
- Đánh giá thực trạng vi phạm hành chính và công tác xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực đất đai trên địa bàn quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

- Đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất
đai trên địa bàn quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian nghiên cứu: Đề tài được thực hiện trên địa bàn quận Bắc
Từ Liêm, Thành phố Hà Nội

2


Phạm vi khoa học: Đề tài giới hạn nghiên cứu ở các vấn đề liên quan đến vi
phạm hành chính và xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.
Phạm vi thời gian: đề tài tập trung nghiên cứu tình hình vi phạm hành chính và
xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai trên địa bàn nghiên cứu từ năm 2010
đến 2017.

5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập số liệu: Điều tra thu thập các tài liệu, số liệu về điều
kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, tài nguyên thiên nhiên, đất đai, hoạt động quản lý nhà
nước về đất đai, các số liệu thống kê tình hình vi phạm và xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực đất đai trên địa bàn quận Bắc Từ Liêm trong 2 giai đoạn từ thời điểm
Huyện Từ Liêm và thời điểm thành lập quận Bắc Từ Liêm (năm 2010 đến 1/4/2014
và 1/4/2014 đến 2017 để phục vụ cho việc nghiên cứu).
- Phương pháp điều tra phỏng vấn: sử dụng phiếu điều tra phỏng vấn các cán
bộ phụ trách xử lý vi phạm hành chính của quận và các phường thuộc quận Bắc Từ
Liêm trước và sau khi thành lập quận và phường mới để làm rõ các loại hình vi phạm,
nguyên nhân và cách thức xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu và tổng hợp: Trên cơ sở các số liệu, tài
liệu thu thập được, tiến hành thống kê, tổng hợp số liệu về số vụ vi phạm, hình thức vi
phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai và tình hình xử phạt VPHC trong lĩnh vực đất

đai qua các các năm trên địa bàn quận Bắc Từ Liêm.
- Phương pháp phân tích, đánh giá: Thông qua số liệu đã được tổng hợp và xử
lý, tác giả phân tích và đưa ra đánh giá về tình hình sử dụng đất đai của khu vực
nghiên cứu, tình hình VPHC và xử lý VPHC trong lĩnh vực đất đai trên địa bàn quận
Bắc Từ Liêm. Từ kết quả điều tra, phân tích làm rõ những hạn chế yếu kém của hoạt
động xử lý VPHC trong lĩnh vực đất đai là gì, nguyên nhân ra sao và đề xuất những giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước về đất đai cũng như xử lý
VPHC trong lĩnh vực đất đai trên địa bàn quận.

6. Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm:
- Phần mở đầu,

3


- 3 Chương:
+ Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu
+ Chương 2: Đánh giá thực trạng vi phạm hành chính và xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực đất đai trên địa bàn quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
+ Chương 3: Đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế vi phạm hành chính trong
lĩnh vực đất đai trên địa bàn quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
- Kết luận, kiến nghị và Danh mục tài liệu tham khảo.

4


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. 1. Vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai

1.1.1.Khái quát về vi phạm hành chính
- Khái niệm vi phạm hành chính.
Nghiên cứu Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính được ban hành năm 1989,
1995, 2002 và Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2011 (có hiệu lực từ ngày
07/07/2012) cho thấy khái niệm vi phạm hành chính đều đã được đề cập trong văn bản
này. Điều 1 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 1989 quy định: “ Vi phạm hành chính
là hành vi do cá nhân hay tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại đến quy
tắc quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm hình sự và theo quy định pháp luật là
phải bị xử lý vi phạm hành chính” [17].
Định nghĩa này sau đó đã được áp dụng rộng rãi trong thực tiễn thi hành pháp
luật và đưa vào các giáo trình giảng dạy về pháp luật. Theo Pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính năm 1995 và sau đó là Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 thì
khái niệm vi phạm hành chính không được định nghĩa một cách trực tiếp mà được hiểu
một cách gián tiếp qua khái niệm xử lý vi phạm hành chính: “Xử phạt vi phạm hành
chính được áp dụng đối với cá nhân,cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là cá nhân, tổ
chức) có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà
nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành
chính” [18].
Cho đến nay, cách hiểu về vi phạm hành chính được các nhà khoa học và thực
tiễn hiểu một cách khá thống nhất đó là: “Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân,
tổ chức thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý, vi phạm các quy định của pháp luật về quản
lý nhà nước mà không phải là tội phạm và phải bị xử phạt hành chính theo quy định
của pháp luật”.
- Đặc điểm cấu thành vi phạm hành chính.
Khái niệm vi phạm hành chính là cơ sở đầu tiên cho việc xác định một vi phạm
pháp luật là vi phạm hành chính, đồng thời để phân biệt vi phạm hành chính với các vi

5



phạm khác. Để xác định một hành vi xảy ra có phải là vi phạm hành chính hay không,
cũng như đánh giá được đúng tính chất vi phạm và mức độ xâm hại của hành vi thì
việc xem xét các đặc điểm cấu thành vi phạm hành chính là vô cùng quan trọng.
Những đặc điểm và yếu tố cấu thành này được mô tả trong các văn bản pháp luật có
quy định về vi phạm hành chính, hình thức và biện pháp xử lý đối với loại vi phạm
này. Cũng tương tự như bất kỳ loại vi phạm pháp luật nào, các dấu hiệu cấu thành vi
phạm hành chính thể hiện ở bốn yếu tố: mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và
khách thể.
- Mặt khách quan của vi phạm hành chính.
Mặt khách quan của vi phạm hành chính là những biểu hiện ra bên ngoài của
thế giới khách quan của vi phạm hành chính bao gồm: hành vi, tính trái pháp luật của
hành vi, hậu quả thiệt hại của hành vi gây ra cho xã hội, quan hệ nhân quả, thời gian,
địa điểm, công cụ, phương tiện vi phạm.
- Khách thể của vi phạm hành chính
Khách thể vi phạm hành chính là các quan hệ xã hội được các quy định về xử lý
vi phạm hành chính bảo vệ. Tuy nhiên, dưới góc độ của vi phạm hành chính, trật tự
quản lý nhà nước cũng chính là các quan hệ xã hội được luật hành chính bảo vệ. Có
quan điểm cho rằng, khách thể của vi phạm hành chính là trật tự quản lý nhà nước.
Nhưng quan điểm như vậy chưa chính xác, ngoài trật tự quản lý nhà nước thì khách
thể của vi phạm hành chính còn có thể là các quan hệ xã hội khác. Các quan hệ xã hội
bị vi phạm hành chính xâm hại rất đa dạng, đó là: trật tự nhà nước và xã hội, sở hữu
nhà nước, tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, trật tự quản lý. Cho nên
khách thể của vi phạm hành chính phải được hiểu là các quan hệ xã hội được quy
phạm pháp luật hành chính bảo vệ.
- Chủ thể của vi phạm hành chính
Chủ thể của vi phạm hành chính có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Cá nhân, tổ
chức chỉ có thể trở thành chủ thể của vi phạm hành chính khi có năng lực trách nhiệm
pháp lý hành chính.
- Cá nhân:


6


Năng lực trách nhiệm pháp lý hành chính thể hiện khả năng nhận thức của con
người đối với hành vi vi phạm. Vì vậy, hai yếu tố để xác định năng lực pháp lý đối với
cá nhân là: Đạt độ tuổi theo quy định của pháp luật và không mắc bệnh làm mất khả
năng nhận thức hành vi.
Cá nhân thực hiện hành vi vi phạm hành chính chỉ được coi là chủ thể vi phạm
hành chính khi có năng lực pháp lý hành chính. Ở đây cũng cần phân biệt giữa chủ thể
vi phạm hành chính với đối tượng vi phạm hành chính. Cá nhân chỉ cần có năng lực
trách nhiệm pháp lý hành chính được xác định là chủ thể vi phạm hành chính. Còn đối
tượng vi phạm hành chính ngoài năng lực trách nhiệm pháp lý hành chính còn phải
thực hiện một hành vi vi phạm hành chính cụ thể và bị xử phạt hành chính.
Cá nhân là chủ thể của vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật hiện
hành là mọi công dân. Trong đó, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi nếu vi phạm
hành chính thì bị xử phạt về vi phạm hành chính do cố ý và chỉ bị phạt cảnh cáo.
Người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt hành chính do mình gây ra và khi phạt tiền đối
với họ thì mức phạt không quá một nửa mức tiền phạt đối với người thành niên, trong
trường hợp họ không có tiền nộp phạt thì cha mẹ hoặc người giám hộ phải nộp thay.
Quy định cha mẹ (người chưa thành niên vi phạm) phải nộp thay không có nghĩa là xử
phạt cả người không vi phạm. Mà ở đây chúng ta hướng tới trách nhiệm giáo dục ý
thức pháp luật cho những người chưa thành niên. Đối với cán bộ, công chức, viên
chức và người có thẩm quyền bị xử lý vi phạm hành chính đối với những hành vi hành
chính liên quan đến việc thi hành công vụ, thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ được giao.
Nếu không có yếu tố này thì họ chỉ bị xử lý như mọi công dân bình thường. Quân
nhân tại ngũ, quân nhân dự bị trong thời kỳ tập trung huấn luyện và những người
thuộc lực lượng công an nhân dân, nếu thực hiện vi phạm hành chính thì bị xử lý như
đối với công dân khác.
- Tổ chức:
Trong vi phạm hành chính không phải lúc nào người vi phạm cũng là cá nhân.

Ở trường hợp người vi phạm là người nhân danh tổ chức thực hiện vi phạm thì đương
nhiên chủ thể vi phạm hành chính ở đây là tổ chức. Pháp luật hành chính coi tổ chức là
chủ thể vi phạm hành chính gồm: cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, tổ
chức nước ngoài. Tuy nhiên, khi xử phạt hành chính đối với tổ chức, nếu là cơ quan

7


nhà nước, tổ chức chính trị xã hội sẽ dẫn đến tình trạng tình trạng tiền nhà nước chạy
từ túi này sang túi khác. Do đó cần phải truy cứu người có lỗi trực tiếp vi phạm hành
chính để tổ chức bị xử phạt, hoặc cần phải suy xét người có lỗi để truy cứu trách
nhiệm kỷ luật. Điều này đã được quy định cụ thể tại điểm b, khoản 1, Điều 6 Pháp
lệnh Xử lý Vi phạm hành chính 2002: “Tổ chức bị xử phạt hành chính về mọi hành vi
vi phạm hành chính do mình gây ra. Sau khi chấp hành quyết định xử phạt, tổ chức bị
xử phạt xác định cá nhân có lỗi gây ra vi phạm hành chính để xác định trách nhiệm
pháp lý của người đó theo quy định của pháp luật”.
Đối với cá nhân, tổ chức nước ngoài vi phạm hành chính trong phạm vi lãnh
thổ, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam thì bị xử phạt hành chính
theo quy định của pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam
ký kết hoặc gia nhập có quy định khác.
- Mặt chủ quan của vi phạm hành chính:
Mặt chủ quan của vi phạm hành chính là những quan hệ tâm lý bên trong của cá
nhân vi phạm hành chính, bao gồm: lỗi, động cơ, mục đích thực hiện hành vi vi phạm.
Dấu hiệu tập trung cơ bản nhất của mặt chủ quan là yếu tố lỗi: “Lỗi được hiểu
một cách thông thường là điều sai sót, không nên, không phải trong cách cư xử, trong
hành động”. Trên phương diện pháp lý, lỗi được xác định là trạng thái tâm lý bên trong
của chủ thể thực hiện hành vi vi phạm của mình và hậu quả của hành vi đó. Tuy nhiên,
dưới góc độ của Luật Hành chính, nội dung lỗi có những nét đặc thù so với lỗi của các
ngành luật khác. Trong nhiều trường hợp chỉ cần có lỗi, nghĩa là người vi phạm có thể
biết hoặc có thể biết tính chất sai trái của mình là đủ để xác định vi phạm hành chính

xảy ra.
Mặt khác, lỗi trong hành chính không chỉ đặt ra đối với cá nhân vi phạm mà
còn đặt ra đối với tổ chức. Thông thường, yếu tố lỗi của tổ chức vi phạm hành chính
được xác định bởi hành vi trái pháp luật của hành chính và hành vi đó theo quy định
của pháp luật hành chính phải bị xử phạt hành chính. Như vậy, không phải đối với tổ
chức vi phạm hành chính chúng ta không và không thể xác định yếu tố lỗi truy cứu
trách nhiệm pháp lý hành chính mà việc xem xét lỗi sẽ thông qua việc truy cứu trách
nhiệm kỷ luật. Lỗi trong vi phạm hành chính là lỗi của một người thực hiện hành vi

8


trái pháp luật nhận thức được nghĩa vụ pháp lý bắt buộc nhưng họ lại có ý thức xem
thường mặc dù họ hoàn toàn có khả năng xử sự theo đúng nghĩa vụ đó.
Lỗi trong thực hiện vi phạm hành chính được thể hiện dưới hai hình thức lỗi cố
ý và lỗi vô ý.
Ngoài ra, mục đích, động cơ cũng là những dấu hiệu về mặt chủ quan của vi
phạm hành chính. Tuy nhiên, những dấu hiệu này không có ý nghĩa quyết định như
dấu hiệu lỗi, không được coi là dấu hiệu cơ bản, bắt buộc trong mọi cấu thành vi phạm
hành chính nhưng trong một số trường hợp nếu thiếu nó thì không thể xác định được là
có vi phạm hành chính hay không.
1.1.2. Khái niệm xử lý vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính
- Khái niệm xử lý vi phạm hành chính
Hiểu một cách toàn diện và đầy đủ thì xử lý vi phạm hành chính là hoạt động áp
dụng các chế tài hành chính, bao gồm các hình thức xử phạt hành chính, các biện pháp
khắc phục hậu quả do hành vi vi phạm hành chính gây ra, các biện pháp ngăn chặn và
đảm bảo việc xử lý vi phạm hành chính, các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định
xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp chế tài hành chính khác. Do đó, xử lý vi
phạm hành chính phải là hoạt động cưỡng chế nhà nước do các chủ thể được Nhà nước
giao quyền tiến hành áp dụng đối với cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm hành chính.

Vì thế, xử phạt vi phạm hành chính là biện pháp quan trọng nhất nhưng không
phải biện pháp duy nhất để xử lý vi phạm hành chính.Từ những phân tích trên đây có
thể quan niệm: Xử lý vi phạm hành chính là hoạt động cưỡng chế mang tính quyền
lực nhà nước nhằm áp dụng các chế tài hành chính, do các chủ thể được Nhà nước
giao quyền thực hiện đối với cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm hành chính theo
trình tự thủ tục do pháp luật quy định.
-. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính
Xử phạt hành chính là hoạt động cưỡng chế Nhà nước chỉ áp dụng đối với đối
tượng có hành vi vi phạm hành chính trên thực tế mà không thể áp dụng đối với hành
vi chưa được dự liệu là hành vi vi phạm hành chính. Điều này cho thấy xử phạt hành
chính chỉ được tiến hành khi có hành vi vi phạm hành chính. Đặc điểm có tính nguyên
tắc này đã được khẳng định tại khoản 2 Điều 3 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính
2002: “Cá nhân, tổ chức chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm
hành chính do pháp luật quy định” [18]. Do vậy, đòi hỏi cơ quan Nhà nước, người có

9


thẩm quyền khi xử phạt hành chính phải xác định rõ: hành vi vi phạm xảy ra trên thực
tế có phải là hành vi vi phạm hành chính, hành vi đó do cá nhân hay tổ chức thực hiện,
tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi… để có thể quyết định hình thức xử phạt
cho phù hợp, bảo đảm nguyên tắc xử lý đúng người, đúng hành vi vi phạm.
Hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai phải được tiến
hành theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. “Thủ tục là những việc phải làm
theo một trật tự quy định”. Do đó, thủ tục xử lý vi phạm hành chính có thể được hiểu
là các giai đoạn, các bước cũng như thứ tự thực hiện các hành động cần phải tiến hành
trong các giai đoạn, các bước đó. Các nội dung này do nhà nước quy định và các chủ
thể có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính cụ thể. Không một chủ thể có thẩm quyền
xử lý vi phạm hành chính nào được phép tự đặt ra cho mình một trình tự, thủ tục mới,
khác với trình tự, thủ tục Nhà nước như sau: “Xử phạt hành chính là hoạt động cưỡng

chế Nhà nước do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền tiến hành nhằm áp dụng các
hình thức xử phạt hành chính phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi vi
phạm đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính”
- Thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính và thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính
Thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính
Cơ sở pháp lý để xác định phạm vi thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính được
quy định tại khoản 1 Điều 3 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002 như sau: “Việc
xử lý vi phạm hành chính phải do người có thẩm quyền tiến hành theo đúng quy định
của pháp luật”[18]. Điều này có nghĩa là việc áp dụng các biện pháp xử phạt hành
chính, các biện pháp hành chính khác, các biện pháp ngăn chặn và đảm bảo xử lý vi
phạm hành chính phải do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền theo quy định của
pháp luật.
Quyền hạn của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong xử lý vi phạm
hành chính được pháp luật quy định cụ thể đối với từng biện pháp cưỡng chế hành
chính trên cơ sở cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền cân nhắc kỹ tính chất, mức
độ nguy hiểm của hành vi theo thẩm quyền. Như vậy, thẩm quyền xử lý vi phạm
hành chính được xác định cho nhiều cơ quan, cán bộ - công chức nhà nước có thẩm

10


quyền. Thẩm quyền này được Nhà nước quy định chủ yếu tại Pháp lệnh Xử lý vi
phạm hành chính.
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
Khi xử lý vi phạm hành chính, có nhiều cơ quan nhà nước, người có thẩm
quyền tham gia. Có những vụ việc xử lý vi phạm hành chính được chuyển từ cơ quan
này sang cơ quan khác mà mỗi cơ quan thực hiện một hoạt động áp dụng pháp luật.
Tuy nhiên, trong số các cơ quan áp dụng pháp luật để xử lý vi phạm hành chính chỉ có
một chủ thể trực tiếp xem xét, ra quyết định xử phạt hành chính cơ quan nhà nước,

người có thẩm quyền đó là chủ thể có thẩm quyền xử phạt hành chính.
Nhìn chung, thẩm quyền xử phạt hành chính là quyền hạn và nghĩa vụ xử phạt
hành chính của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền tiến hành xử phạt hành chính
theo thủ tục xử phạt và trong phạm vi nhất định theo quy định của pháp luật.
Thẩm quyền xử phạt hành chính được xây dựng trên cơ sở phân cấp quản lý và
hành vi vi phạm hành chính cụ thể. Đặc điểm này nhằm đảm bảo cho việc sử lý vi
phạm hành chính nhanh chóng và đấu tranh có hiệu quả đối với mọi hành vi vi phạm
pháp luật, cụ thể là:
+ Thẩm quyền sử phạt hành chính được trao cho hệ thống các cơ quan rộng lớn.
Điều này thể hiện tính chất đa dạng, phức tạp và biến động của hệ thống các cơ quan
có thẩm quyền xử phạt hành chính.
+ Thẩm quyền xử phạt hành chính kết hợp hài hòa giữa thẩm quyền xử phạt với
loại hành vi vi phạm hành chính và thẩm quyền xử phạt với mức phạt cụ thể.
+ Các cơ quan có thẩm quyền xử phạt hành chính hoàn toàn độc lập không phụ
thuộc vào nhau .
1.1.3. Khái niệm, đặc điểm vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.
Khi đề cập vi phạm pháp luật hành chính nói chung và vi phạm pháp luật hành
chính trong lĩnh vực đất đai nói riêng thì trong nội hàm của nó phải đáp ứng được các
yêu cầu về yếu tố cấu thành vi phạm như: chủ thể chịu trách nhiệm hành chính, các
quan hệ pháp luật hành chính về đất đai bị xâm hại, mức độ phải chịu trách nhiệm
pháp lý và thiệt hại thực tế xảy ra… Theo quy định tại khoản 2 Điều 1 của Nghị định
số 105/2009/NĐ-CP ngày 11/11/2009 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm

11


pháp luật trong lĩnh vực đất đai: “Vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai là hành vi
cố ý hoặc vô ý của người sử dụng đất, tổ chức, cá nhân có liên quan, tổ chức hoạt động
dịch vụ về đất đai vi phạm các quy định của pháp luật về đất đai mà chưa đến mức bị
truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật” [7]. Quy định trên đã liệt kê

khá đầy đủ các chủ thể vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai. Bởi lẽ, chủ thể của
trách nhiệm hành chính như đã trình bày, không chỉ là các cá nhân mà còn bao gồm cả
tổ chức…
- Đặc điểm của vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai:
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai trước hết cũng mang đầy đủ các đặc
điểm của vi phạm hành chính nói chung. Đồng thời, nó có những đặc trưng riêng để
phân biệt với các vi phạm hành chính khác. Vì vậy, có thể chỉ ra vi phạm hành chính
trong lĩnh vực đất đai có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai là hành vi trái pháp luật, vi
phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước về đất đai, tác hại (tính nguy
hiểm) do hành vi gây ra ở mức độ thấp, chưa hoặc không cấu thành tội phạm hình sự
và hành vi đó được quy định trong các văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực đất đai. Hiện nay, văn bản để xác định hành vi và hình thức xử
phạt, mức phạt và thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai là
Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và Nghị định số 102/2014/NĐ-CP ngày
10/11/2014 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đất
đai, Luật Đất đai năm 2013, có hiệu lực ngày 01/7/2014...
Thứ hai, hành vi đó phải là một hành vi thực tiễn đã được thực hiện (hành động
hoặc không hành động), phải là một việc thực, chứ không phải chỉ tồn tại trong ý thức
hoặc mới chỉ là dự định. Hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai có thể
thực hiện bằng hành động như việc lấn, chiếm đất đai, phá vỡ mặt bằng đất canh tác,
sử dụng đất không đúng mục đích... hoặc không hành động như không sử dụng đất,
không cải tạo, bồi bổ đất, không ngăn chặn sự xói mòn đất đai, không thực hiện dự án
đúng thời hạn...

12


Thứ ba, hành vi đó là một hành vi có lỗi, tức là người vi phạm nhận thức được
vi phạm của mình, hình thức lỗi có thể là cố ý, nếu người vi phạm nhận thức được tính

chất trái pháp luật trong hành vi của mình, thấy trước hậu quả của vi phạm và mong
muốn hậu quả đó xảy ra hoặc ý thức được hậu quả và để mặc cho hậu quả xảy ra; có
thể là lỗi vô ý trong trường hợp người vi phạm thấy trước hoặc đáng ra phải thấy trước
được hậu quả của hành vi nhưng chủ quan cho rằng mình có thể ngăn chặn được hậu
quả hoặc không thấy trước hậu quả sẽ xảy ra dù phải thấy trước và có thể thấy trước
được hậu quả của vi phạm.
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai là hành vi cố ý hoặc vô ý của cá
nhân, tổ chức vi phạm các quy định của pháp luật về đất đai mà không phải là tội
phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính, Vi phạm hành chính
trong lĩnh vực đất đai cũng bao gồm các yếu tố cấu thành giống như các dấu hiệu pháp
lý của các vi phạm hành chính nói chung đó là mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể
và khách thể.
- Mặt khách quan
Mặt khách quan của vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đia bao gồm các dấu
hiệu: hành vi trái pháp luật đất đai, hậu quả thiệt hại mà hành vi gây ra và mối quan hệ
nhân quả, địa điểm, phương tiện vi phạm.
+ Hành vi trái pháp luật đất đai:
Khi nói đến vi phạm pháp luật đất đai thì buộc phải có hành vi trái pháp luật đất
đai của tổ chức hay cá nhân. Nếu không có hành vi trái pháp luật đất đai thì không có
vi phạm pháp luật đất đai xảy ra. Vì vậy hành vi trái pháp luật đất đai là một yếu tố bắt
buộc phải có trong cấu thành của vi phạm pháp luật đất đai, mà vi phạm hành chính
trong lĩnh vực đất đai là một dạng của vi phạm pháp luật đất đai.
+ Hậu quả (sự thiệt hại của xã hội) do hành vi trái pháp luật gây ra được thể
hiện ở chỗ nó xâm hại quyền sở hữu nhà nước đối với đất đai hoặc xăm hại đến quyền
lợi của người sử dụng đất.
Sự xâm hại quyền sở hữu nhà nước đối với đất đai thường thể hiện trong việc
định đoạt một cách bất hợp pháp số phận pháp lý của đất đai như không tuân theo
những thủ tục cấp đất do pháp luật quy định, giao đất không đúng thẩm quyền, không
đúng đối tượng, mua, bán, chuyển nhượng quyền sử dụng đất trái phép dưới nhiều


13


hình thức, sử dụng đất không đúng mục đích được giao, tự ý thay đổi mục đích sử
dụng đất khi chưa có sự đồng ý của cơ quan có thẩm quyền…
Xâm phạm đến quyền lợi của người sử dụng đất như mượn tạm đất sử dụng
trong một thời gian nhất định nhưng đến khi hết thời hạn lại không trả lại chủ cũ mà
chiếm dụng luôn để sử dụng, hoặc tự chuyển dịch ranh giới ra ngoài phần đất được
giao…
Mức độ hậu quả của vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai được xác định
theo nguyên tắc quy đổi giá trị quyền sử dụng đối với diện tích đất bị vi phạm thành
tiền theo giá đất UBND tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương nơi có đất quy định.
Mối quan hệ giữa vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai với hậu quả mà nó
gậy ra cho xã hội có quan hệ hữu cơ với nhau, sự thiệt hại cho xã hội là do chính hành
vi vi phạm hành chính về đất đai gây ra. Song không phải mọi hành vi vi phạm hành
chính về đất đai trong cấu thành của nó đều bắt buộc phải có dấu hiệu hậu quả và quan
hệ nhân quả mà nhiều vi phạm hành chính về đất đai chỉ cần dấu hiệu cấu thành hình
thức là đủ căn cứ để xử phạt hành chính.
Ngoài ra khi nghiên cứu mặt khách quan của vi phạm hành chính về đất đai
trong một số trường hợp cần xem xét thêm một số dấu hiệu khác như thời gian, địa
điểm, công cụ, phương tiện thực hiện hành vi.
- Mặt chủ quan của vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
Mặt chủ quan của vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai là những biểu hiện
tâm lý bên trong của chủ thể vi phạm, bao gồm: lỗi, động cơ, mục đích…
Trên phương diện pháp lý, lỗi được xác định là trạng thái tâm lý bên trong của
chủ thể thực hiện hành vi vi phạm, biểu hiện thái độ của người đó đối với hành vi vi
phạm của mình và hậu quả của hành vi đó. Lỗi trong vi phạm hành chính trong lĩnh
vực đất đai không chỉ đặt ra đối với cá nhân vi phạm mà còn đặt ra với tổ chức. Thông
thường, yếu tố lỗi của tổ chức vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai được xác
định bởi hành vi trái pháp luật hành chính và hành vi đó theo quy định của pháp luật

hành chính phải bị áp dụng chế tài hành chính. Như vậy, không phải đối với tổ chức vi
phạm hành chính chúng ta không và không thể xác định yếu tố lỗi truy cứu trách
nhiệm pháp lý hành chính mà việc xem xét lỗi sẽ thông qua việc truy cứu trách nhiệm

14


kỷ luật. Lỗi trong thực hiện vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai được thể hiện
dưới hai hình thức lỗi cố ý và lỗi vô ý.
Lỗi cố ý trong vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai là thái độ tâm lý của
một người khi thực hiện hành vi trái pháp luật, tuy nhận thức được nghĩa vụ pháp lý
bắt buộc nhưng lại có ý thức xem thường, mặc dù họ hoàn toàn có khả năng xử sự theo
đúng nghĩa vụ đó.
Lỗi vô ý trong vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai là lỗi của một người
khi thực hiện hành vi trái pháp luật do vô tình thiếu thận trọng mà đã không nhận thức
được những nghĩa vụ pháp lý bắt buộc, mặc dù họ có khả năng và điều kiện xử sự theo
đúng nghĩa vụ đó.
-Mục đích, động cơ trong vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai cũng như
trong vi phạm hành chính nói chung không phải là dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan.
Mục đích của vi phạm hành chính là cái “đích” trong ý thức của người vi phạm
được đặt ra cho hành vi vi phạm đạt tới. Mục đích của vi phạm hành chính trong lĩnh
vực đất đai chỉ có ở trong một số hành vi vi phạm nhất định và được thực hiện với lỗi
cố ý ví dụ “hành vi đưa chất thải, chất độc hại, vật liệu xây dựng hoặc các vật khác lên
thửa đất của người khác hoặc thửa đất của mình gây cản trở cho việc sử dụng đất của
người khác” .
Động cơ vi phạm hành chính được hiểu là động lực bên trong thúc đẩy người
thực hiện hành vi vi phạm hành chính. Trừ những hành vi vi phạm hành chính trong
lĩnh vực đất đai với lỗi cố ý thì có động cơ, mục đích rõ rệt còn các vi phạm hành
chính về đất đai khác thì động cơ, mục đích không rõ nét. Trong các trường hợp này vi
phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai chủ yếu do thiếu thận trọng, vô tình hay coi

nhẹ các nghĩa vụ pháp lý mà vi phạm ở mức độ nhỏ và trên thực tế thiệt hại ở những
trường hợp này là không đáng kể. Do đó động cơ, mục đích trong vi phạm hành chính
về đất đai không coi là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành của mọi vi phạm hành chính
trong lĩnh vực đất đai.
-.Chủ thể của vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.

15


Vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai là hành vi do cá nhân, tổ chức có
năng lực chủ thể hành chính thực hiện cố ý hoặc vô ý xâm hại đến các quan hệ xã hội
được pháp luật đất đai bảo vệ. Do vậy chủ thể của vi phạm hành chính trong lĩnh vực
đất đai là những cá nhân, tổ chức có năng lực chủ thể. Những hành vi này đều xâm hại
đến các quan hệ pháp luật đất đai đang được duy trì, làm ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu
quả quản lý nhà nước. Song do tính chất và mức độ xâm hại của hành vi chưa đến mức
nguy hiểm cho xã hội để trở thành tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật
phải bị xử phạt hành chính.
- Khách thể của vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
Khách thể của vi phạm hành chính là những quan hệ xã hội được pháp luật bảo
vệ nhưng bị hành vi vi phạm hành chính xâm hại. Vậy khách thể của vi phạm hành
chính trong lĩnh vực đất đai là những quan hệ trong sử dụng và hoạt động dịch vụ về
đất đai bị hành vi vi phạm hành chính xâm hại.
1.1.4. Các loại hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
Hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai rất đa dạng. Theo liệt kê
trong Chương II, Nghị định 102/NĐ-CP, ngày 10/11/2014 của Chính phủ về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai bao gồm 25 loại hành vi được quy định từ
Điều 6 đến Điều 30 của Nghị định. Chính vì vậy, căn cứ vào khách thể trực tiếp của vi
phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, hành vi vi phạm hành chính có thể tạm chia
thành hai nhóm sau đây:
Thứ nhất, nhóm các hành vi vi phạm trong sử dụng đất đai, như:

- Sử dụng đất không đúng mục đích;
- Lấn, chiếm đất;
- Huỷ hoại đất;
- Gây cản trở cho việc sử dụng đất của người khác;
- Chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền
sử dụng đất hoặc thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất mà không thực
hiện đúng thủ tục hành chính theo quy định của pháp luật về đất đai;

16


- Tự ý chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, thế
chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất đối với đất không đủ điều kiện;
- Nhận chuyển quyền sử dụng đất nhưng không đủ điều kiện nhận chuyển
quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai;
- Không đăng ký quyền sử dụng đất lần đầu, không đăng ký biến động quyền sử
dụng đất, đăng ký không đúng loại đất, không đăng ký khi chuyển mục đích sử dụng
đất, không đăng ký gia hạn sử dụng đất khi hết hạn sử dụng đất mà đang sử dụng đất;
- Gây cản trở trong việc Nhà nước giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, bồi
thường, giải phóng mặt bằng;
- Không trả lại đất đúng thời hạn theo quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền;
- Tự tiện di chuyển, làm sai lệch, hư hỏng mốc chỉ giới quy hoạch sử dụng đất,
mốc chỉ giới hành lang an toàn của công trình, mốc địa giới hành chính;
- Làm sai lệch các giấy tờ, chứng từ trong việc sử dụng đất;
- Chậm đưa đất vào sử dụng theo quy định của pháp luật về đất đai;
- Chậm hoặc không cung cấp thông tin, giấy tờ, tài liệu có liên quan đến việc
thanh tra, kiểm tra;
- Cản trở việc thanh tra, kiểm tra về đất đai.
Thứ hai, nhóm các hành vi vi phạm hành chính trong hoạt động dịch vụ về đất

đai, như:
- Hành nghề tư vấn về giá đất mà không thực hiện đúng nguyên tắc, phương
pháp xác định giá đất theo quy định của pháp luật hoặc không được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền cho phép;
- Hành nghề tư vấn về lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất mà không đăng ký
hoạt động hành nghề;
- Cung cấp dữ liệu đất đai không đúng quy định của pháp luật.

1.2. Tổng quan cơ sở pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất
đai từ khi có Luật Đất đai 2003 đến nay

17


1.2.1. Tổng quan những quy định pháp lý về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực đất đai theo luật đất đai 2003 và các văn bản có liên quan
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai là hành vi trái pháp luật đất đai,
được thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến quyền sở hữu đất đai của Nhà
nước, quyền và lợi ích của người sử dụng đất cũng như các quy định về chế độ sử
dụng các loại đất mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử
phạt hành chính; xử lý vi phạm hành chính là xử lý các trường hợp thực hiện trái pháp
Luật đất đai 2003 và các hành vi vi phạm hành chính theo Pháp lệnh Xử lý vi phạm
hành chính ngày 02 tháng 7 năm 2002; Pháp lệnh sửa đổi một số điều của Pháp lệnh
Xử lý vi phạm hành chính ngày 08 tháng 3 năm 2007; Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một
số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính ngày 02 tháng 4 năm 2008.
Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai tại thời điểm Luật đất đai
2003 được hướng dẫn xử lý vi phạm hành chính theo Nghị định số 105 ngày
11/11/2009; Nghị định này quy định về xử phạt vi phạm hành chính đối với những
hành vi vi phạm hành chính.
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai quy định trong Nghị định này là

hành vi cố ý hoặc vô ý của người sử dụng đất, tổ chức, cá nhân có liên quan, tổ chức
hoạt động dịch vụ về đất đai vi phạm các quy định của pháp luật về đất đai mà chưa
đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Xử phạt hành chính là hoạt động cưỡng chế Nhà nước chỉ áp dụng đối với đối
tượng có hành vi vi phạm hành chính trên thực tế mà không thể áp dụng đối với hành
vi chưa được dự liệu là hành vi vi phạm hành chính. Điều này, cho thấy xử phạt hành
chính chỉ được tiến hành khi có hành vi vi phạm hành chính. Đặc điểm có tính nguyên
tắc này đã được khẳng định tại khoản 2 Điều 3 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính
2002: "Cá nhân, tổ chức chỉ bị xử phạt hành chính khi có hành vi vi phạm hành chính
do pháp luật quy định" [18]. Do vậy, đòi hỏi cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền
khi xử phạt hành chính phải xác định rõ: hành vi vi phạm xảy ra trên thực tế có phải là
hành vi vi phạm hành chính không, hành vi đó do cá nhân hay tổ chức thực hiện, tính

18


×