Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Tieu luan mon chinh tri hoc nâng cao mối QUAN hệ GIỮA KINH tế THỊ TRƯỜNG và NHÀ nước PHÁP QUYỀN ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.4 KB, 24 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, nước ta đã đạt được
những thành tựu quan trọng trong việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhờ đó, đã huy động được các nguồn lực cho
phát triển, bảo đảm tốc độ tăng trưởng cao, tạo nhiều việc làm và cải thiện đời
sống nhân dân.
Tuy nhiên, thể chế kinh tế thị trường vẫn chưa đồng bộ, các yếu tố của
kinh tế thị trường vẫn chưa được hình thành đầy đủ. Trong điều kiện toàn cầu
hóa và cạnh tranh gay gắt như hiện nay, để đất nước có thể tăng tốc phát triển,
rút ngắn khoảng cách với các nước trong khu vực, chúng ta phải xây dựng thể
chế kinh tế thị trường hiện đại, tạo điều kiện cho các nguồn lực dịch chuyển
trong các ngành và đến các vùng của đất nước theo tín hiệu của thị trường
quanh trục lợi nhuận bình quân, bảo đảm sự phát triển hài hòa, cân đối của
nền kinh tế. Điều này sẽ kích thích các doanh nghiệp phát triển nguồn nhân
lực, ứng dụng và sáng tạo công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý mới, tạo
lập lợi thế cạnh tranh động để tìm kiếm lợi nhuận vượt trội so với các chủ thể
kinh doanh khác, qua đó thúc đẩy sự chuyển dịch tương đối liên tục cơ cấu
đầu tư, sản xuất, tạo ra một nền kinh tế có khả năng sáng tạo cao với nhiều
sản phẩm mới, bảo đảm hiệu quả và sức cạnh của nền kinh tế. Đây chính là
biện chứng của sự phát triển.
Kinh tế thị trường ở Việt Nam muốn phát triển theo đúng định hướng
và đạt hiệu quả cao cần có sự đảm bảo, sự tác động, tạo điều kiện của Nhà
nước, mà cụ thể ở đây là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Và ngược lại, muốn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam vững mạnh thì nền kinh tế của Nhà nước ấy phải là kinh tế thị trường
theo định hưỡng xã hội chủ nghĩa. Như vậy, giữa kinh tế thị trường và Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có mối quan hệ khăng khít,

0



biện chứng với nhau, hỗ trợ, tác động lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau để cùng
phát triển.
Kinh tế thị trường và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là 02 vấn
đề lớn có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển đi lên của đất nước theo
đúng định hướng, mục tiêu đã được toàn Đảng, toàn dân tộc ta lựa chọn và vì
vậy nó được đề cập đến rất nhiều trong các văn kiện quan trọng của Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XI. Hiểu rõ, vận dụng và giải quyết đúng đắn mối
quan hệ giữa kinh tế thị trường và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay là một yêu cầu tất yếu và góp phần quan trọng làm cho
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được rõ ràng và nhanh chóng
hơn.
Trong khuôn khổ của tiểu luận này, tôi chỉ tập trung làm rõ về vấn đề
“mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài:
Do thời gian nghiên cứu tương đối ngắn nên tác giả chưa tìm được một
đề tài nghiên cứu cụ thể nào tương ứng như đề tài nghiên cứu mà tác giả lựa
chọn. Do vậy, trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả luôn nâng cao ý thức tự
giác kiếm tìm, hình thành, suy luận và giải thích, giải quyết các vấn đề nảy
sinh; chú tâm nghiên cứu các tài liệu liên quan đến từng vấn đề và có sự liên
kết, tập hợp các vấn đề lại với nhau, sử dụng, sắp xếp chúng một cách khoa
học, phù hợp với ý đồ của tác giả. Đặc biệt là nghiên cứu các quan điểm, các
vấn đề và giải pháp mới về kinh tế thị trường và Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa trong các văn kiện của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
Qua nghiên cứu đề tài này nhằm làm rõ một số vấn đề lý luận về kinh
tế thị trường và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; Đánh giá đúng mối
quan hệ giữa kinh tế thị trường và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay và nêu lên ý nghĩa của việc nắm rõ mối quan hệ đó, đề

1


xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả xây dựng nền kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
4.1. Khách thể nghiên cứu của đề tài là Việt Nam.
4.2. Đối tượng nghiên cứu của đề tài: nền kinh tế thị trường và Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
4.3. Đối tượng khảo sát của đề tài: mối quan hệ giữa kinh tế thị trường
và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài:
5.1. Cơ sở lý luận: đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở tư tưởng của
các nhà chính trị học trong lịch sử tư tưởng nhân loại và dựa trên quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế thị trường và Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: phương pháp chủ yếu để nghiên cứu
thực hiện đề tài là phương pháp nghiên cứu tài liệu và phương pháp phân tích,
tổng hợp.
6. Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo,
Tiểu luận gồm 3 chương…

2


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về kinh tế thị trường
và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa:

1.1. Về kinh tế thị trường:
1.1.1. Khái niệm:
Kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao của nền kinh tế hàng hoá
trong đó từ sản xuất đến tiêu dùng đều thông qua thị trường. Nói một cách
khác kinh tế thị trường phát triển trong đó mọi quan hệ kinh tế đều được tiền
tệ hoá.
1.1.2. Sự cần thiết khách quan phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa:
1.1.2.1. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa:
Phân công lao động: theo Lênin “hễ ở đâu và khi nào có phân công lao
động xã hội và sản xuất hàng hoá thì ở đó và khi ấy có thị trường” (VI. Lênin
toàn tập, NXB Tiến bộ, Matxcova 1974).
Những lao động tư nhân độc lập và không phụ thuộc vào nhau. Mà
muốn có được như vậy thì những người, những doanh nghiệp sản xuất hàng
hoá phải độc lập và không phụ thuộc vào nhau.
Tóm lại phân công lao động xã hội tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa
những người, những doanh nghiệp xản xuất hàng hoá độc lập, họ làm việc
cho nhau thông qua những trao đổi hàng hoá. Còn với tư cách là doanh nghiệp
sản xuất hàng hoá độc lập lao động sản xuất hàng hoá của họ lại mang tính
lao động tư nhân ( cá biệt , độc lập không phụ thuộc ). Mâu thuẫn này được
giải quyết bằng trao đổi .
3


1.1.2.2. Định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một sự lựa chọn
đúng đắn:
Trước đây, trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, Đông
Âu hay ở Việt Nam cũng có quan điểm kinh tế cho rằng: Kinh tế hàng hoá là
sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản. Từ đó, nền kinh tế xã hội chủ nghĩa
được vận hành theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Đây là một trong

những nguyên nhân khủng hoảng của xã hội chủ nghĩa. Theo quan điểm của
Đảng ta hiện nay, xây dựng “sản xuất hàng hoá không đối lập với chủ nghĩa
xã hội, mà còn là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại
khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa và cả khi chủ
nghĩa xã hội đã được xây dựng”. (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII của Đảng).
Ngoài ra, cũng có quan điểm cho rằng kinh tế thị trường không thể
dung hợp với chủ nghĩa xã hội. Còn theo CacMac kinh tế hàng hoá tồn tại
trong nhiều hình thức khác nhau, có thể là khác nhau về quy mô và hình thức
phát triển.
1.1.2.3. Kinh tế thị trường không những tồn tại khách quan mà còn cần
thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội:
Nó tồn tại khách quan vì vẫn còn cơ sở cho sự tồn tại và phát triển. Đó
là sự phân công lao động xã hội không mất đi mà còn chuyên môn hoá sản
xuất ngày càng sâu. Nó diễn ra không những trong từng địa phương, một
nước mà còn trong sự phân công hợp tác quốc tế.
Trong thời kỳ quá độ và ngay cả dưới chủ nghĩa xã hội vẫn tồn tại
những hình thức sở hữu khác nhau về sở hữu tư liệu sản xuất tức là vẫn còn
sự tách biệt nhất định về kinh tế giữa các chủ thể kinh tế. Ngay cả các doanh
nghiệp cùng dựa trên một quan hệ sở hữu như doanh nghiệp nhà nước, nhưng
cũng chưa thể phân phối sản phẩm cho nhau mà không tính toán hiệu quả
kinh tế vẫn phải sử dụng quan hệ hàng hoá - tiền tệ để tính toán hiệu quả kinh
tế bởi vì:
4


Kinh tế phát triển tạo sự tách biệt quyền sử dụng và quyền sở hữu tư
liệu sản xuất. Các doanh nghiệp nhà nước có cùng sở hữu nhưng quyền sử
dụng lại khác nhau. Vì vậy các doanh nghiệp nhà nước có sự tách biệt tương
đối về kinh tế, có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh.

Do nhiều yếu tố tác động (trình độ, cơ sở vật chất - kỹ thuật, trình độ
tay nghề của người lao động) mà giữa các doanh nghiệp nhà nước có sự khác
nhau về hiệu quả sản xuất kinh doanh. Do vậy, giữa doanh nghiệp nhà nước
có sự tách biệt về kinh tế. Vì vậy sử dụng quan hệ hàng hoá - tiền tệ là cần
thiết.
Nó cũng cần thiết cho công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa vì chủ
nghĩa tư bản đã biết sử dụng vai trò to lớn của nền kinh tế thị trường để tăng
trưởng và phát triển kinh tế. Chúng ta cũng phải biết khai thác, sử dụng vai trò
to lớn của kinh tế thị trường hay những mặt tích cực của nó như thúc đẩy cải
tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, thúc đẩy
phân công lao độnh xã hội và hạn chế các mặt trái, khuyết tật của kinh tế thị
trường để tăng trưởng phát triển kinh tế. sự hình thành này còn phù hợp với
thời kỳ quá độ với nhiều hình thức tổ chức kinh tế mang tính chất quá độ.
1.2. Về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa:
1.2.1. Khái niệm:
Nhà nước pháp quyền là một hiện tượng chính trị - pháp lý phức tạp
được hiểu và nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau, song chúng ta có thể hiểu
nhà nước pháp quyền theo cách đơn giản, đó là một nhà nước quản lý kinh tế
-xã hội bằng pháp luật và Nhà nước hoạt động tuân theo pháp luật. Nhà nước
pháp quyền là nhà nước phục tùng pháp luật mà chủ thể phục tùng pháp luật
trước hết là các cơ quan nhà nước và công chức nhà nước.
1.2.2. Sự cần thiết phải xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam:

5


Vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
một trong những vấn đề được các văn kiện Đại hội XI đề cập đến một cách
toàn diện, sâu sắc.

1.2.2.1. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), gọi tắt là Cương lĩnh (bổ sung,
phát triển năm 2011) đã xác định rõ những nội dung sau:
Một là, một trong tám đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân
dân ta xây dựng là có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Nhà nước pháp quyền là một giá trị tư tưởng được tích lũy trong lịch sử
nhân loại. Sự hình thành của tư tưởng về nhà nước pháp quyền luôn gắn liền
với tư tưởng được tích lũy trong lịch sử nhân loại. Sự hình thành của tư tưởng
về nhà nước pháp quyền luôn gắn liền với tư tưởng phát triển dân chủ, loại trừ
chuyên quyền, độc đoán, vô chính phủ, vô pháp luật...
Ở nước ta, tư tưởng về nhà nước pháp quyền cũng đã xuất hiện từ lâu,
thể hiện đậm nét trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh chưa
dùng khái niệm “Nhà nước pháp quyền”, nhưng tư tưởng của Người về nhà
nước pháp quyền đã rất rõ. Trong “Việt Nam yêu cầu ca”, Hồ Chí Minh đã chỉ
rõ: “Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. Khái niệm “Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa” lần đầu tiên được Đảng ta sử dụng tại Hội nghị
Trung ương 2 khóa VII. Từ đó khái niệm này được sử dụng chính thức trong
các văn kiện Đảng và Nhà nước. Những nội dung đặc trưng của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày càng định hình và thực hiện
trong thực tế.
Hai là, một trong tám phương hướng cơ bản cần nắm vững thực tiễn là
“xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân.”
Cương lĩnh năm 1991 mới xác định xây dựng Nhà nước xã hội chủ
nghĩa, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai
6


cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do

Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ
nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chế với mọi hành động xâm phạm lợi ích
của Tổ quốc và của nhân dân.
Đại hội X của Đảng, qua tổng kết 20 năm đổi mới, trong đó có 15 năm
thực hiện Cương lĩnh năm 1991 xác định: Để đi lên chủ nghĩa xã hội chúng ta
phải xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân.
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Ba là, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định rõ hơn
những định hướng lớn về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân.
Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo.
Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm
soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp.
Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và
không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện
đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân
và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn
ngừa, trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền,
xâm phạm quyền dân chủ của công dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội; nghiêm
trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.

7



Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung
dân chủ, có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất
của Trung ương.
1.2.2.2. Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2015 có 5 phần lớn,
trong đó dành toàn bộ phần thứ V xác định những việc cần làm để nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước bảo đảm thực hiện thắng lợi Chiến lược.
Một là, thực hiện tốt chức năng của Nhà nước, giải quyết đúng đắn mối
quan hệ giữa nhà nước với thị trường.
Xây dựng đồng bộ, nâng cao chất lượng và tổ chức thực hiện có hiệu
quả hệ thống pháp luật, thể chế và các chính sách phát triển kinh tế - xã hội,
thực hiện ngày càng tốt hơn an sinh xã hội và phúc lợi xã hội.
Xây dựng và tổ chức thực hiện tốt chiến lược, quy hoạch, kế hoạch.
Quản lý và sử dụng hiệu quả tài sản quốc gia, thực hiện tốt chức năng
chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước.
Phát triển mạnh nguồn nhân lực và hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội đáp ứng yêu cầu phát triển.
Bảo đảm quốc phòng, an ninh và thực hiện có hiệu quả đường lối đối
ngoại của Đảng, giữ vững ổn định chính trị-xã hội, tạo lập môi trường ngày
càng thuận lợi cho phát triển đất nước.
Tăng cường công tác giám sát, nhất là giám sát thị trường tài chính, chủ
động điều tiết, giảm các tác động tiêu cực của thị trường, không phó mặc cho
thị trường hoặc can thiệp làm sai lệch các quan hệ thị trường.
Hai là, hoàn thiện bộ máy Nhà nước, tạo bước chuyển mạnh về cải cách
hành chính.
Ba là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân trong việc xây dựng bộ máy nhà nước.
1.2.2.3. Báo cáo chính trị chỉ rõ: Đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.


8


Một là, Báo cáo chính trị đã khẳng định rõ thành tựu: việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh, hiệu lực và hiệu quả
hoạt động được nâng lên.
Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí và
Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
được chỉ đạo tích cực, đạt một số kết quả. Nhiều vụ án tham nhũng được đưa
ra xét xử. Trên một số lĩnh vực, lãng phí, tham nhũng từng bước được kiềm
chế.
Hai là, Báo cáo chính trị cũng thẳng thắn chỉ rõ khuyết điểm, yếu kém:
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu
phát triển kinh tế và quản lý đất nước.
Ba là, Báo cáo chính trị đã chỉ rõ bốn nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ
yếu để đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
(1) Nâng cao nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa
Đẩy mạnh việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm Nhà nước ta thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do
Đảng lãnh đạo; thực hiện tốt chức năng quản lý kinh tế và đời sống xã hội;
giải quyết đúng mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức khác trong hệ
thống chính trị, với nhân dân, với thị trường. Nâng cao năng lực quản lý và
điều hành của Nhà nước theo pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa
và kỷ luật, kỷ cương. Nhà nước chăm lo, phục vụ nhân dân, bảo đảm quyền,
lợi ích chính đáng của mọi người dân.
(2) Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước.
(3) Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp
ứng yêu cầu trong tình hình mới.

(4) Tích cực thực hành tiết kiệm, phòng ngừa và kiên quyết chống tham
nhũng, lãng phí.
9


Phòng và chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm là nhiệm vụ
vừa cấp bách, vừa lâu dài. Mọi cán bộ lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân từ trung ương đến cơ sở và từng đảng viên
phải gương mẫu thực hiện và trực tiếp tham gia đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, lãng phí.
Chương 2: Mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và Nhà nước pháp
quyền ở Việt Nam hiện nay:
2.1. Kinh tế thị trường là cơ sở, động lực để xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:
Sau 1986 nước ta đã chuyển mô hình kinh tế từ nền kinh tế tập trung
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đó là một quá trình thể hiện sự đổi mới về tư duy và ngày càng hoàn thiện cả
về lí luận cũng như thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Đây cũng là một quá trình về sự nhận thức đúng hơn các quy luật khách quan,
chuyển từ một nền kinh tế mang nặng tính chất hiện vật sang nền kinh tế hàng
hoá với nhiều thành phần, khôi phục các thị trường để từ đó các quy luật thị
trường phát huy tác dụng điều tiết hành vi các tác nhân trong nền kinh tế thay
cho phương pháp quản lí bằng các công cụ kế hoạch hoá trực tiếp mang tính
pháp lệnh, xoá bỏ bao cấp tràn lan của nhà nước để các doanh nghiệp tự chủ,
tự chịu trong sản xuất kinh doanh. Nhà nước thực hiện quản lí nền kinh tế
thông qua pháp luật và điều tiết thông qua các chính sách và các công cụ kinh
tế vỉ mô.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường là chuyển sang nền kinh tế năng
động, có cơ chế điều chỉnh linh hoạt hơn, thúc đẩy sự phân phối, sử dụng các
nguồn lực và các tác nhân của nền kinh tế hoạt động hiệu quả.

2.1.1. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình tổng
quát của thời kỳ quá độ:
Xét về thực chất là sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí vĩ mô của nhà nước. Nó
10


vừa mang những đặc tính chung của kinh tế thị trường vừa mang những đặc
thù riêng của chủ nghĩa xã hội.
Những đặc tính chung thể hiện ở chỗ: Kinh tế thị trường ở nước ta vẫn
chịu sự chi phối của những quy luật kinh tế vốn có của kinh tế hàng hoá như
quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật lưu thông tiền
tệ . . . Các phạm trù của kinh tế hàng hoá - kinh tế thị trường vốn có của nó
vẫn còn phát huy tác dụng như giá trị, giá cả, lợi nhuận.
Các đặc thù riêng của kinh tế thị trường Việt Nam.
Đó là nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện
ở chỗ.
Phát triển kinh tế thị trường có sự tham gia của nhiều thành phần kinh
tế với sự đa dạng hoá của các hình thức sở hữu các hình thức sản xuất kinh
doanh trong đó kinh tế nhà nước có vai trò chủ đạo.
Kinh tế thị trường phát triển theo cơ chế thị trường có sự quản lí của
nhà nước đảm bảo thống nhất giữa sự phát triển, tăng trưởng kinh tế với công
bằng xã hội.
Xây dựng kinh tế thị trường hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế
giới với nhiều hình thức quan hệ và liên kết phong phú.
2.1.2. Mục tiêu phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam:
Đó là sự phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
cho chủ nghĩa xã hội và thiết lập quan hệ sản xuất mới trên cả ba mặt: Quan
hệ sở hữu, quan hệ quản lý, quan hệ phân phối. Nói một cách khác là xây
dựng nước ta thành xã hội: dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,

văn minh.
2.1.3. Thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:
Nếu nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa cũng dựa trên nhiều sự sở
hưũ khác về tư liệu sản xuất trong đó sở hữu tư nhân là nền tảng thì trái lại
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cũng dựa trên
nhiều quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất nhưng sở hữu của nhà nước - sở hữu
11


công cộng làm nền tảng. Bởi vì sở hữu nhà nước là đại diện cho nhân dân sở
hữu những tài nguyên, tài sản, những tư liệu sản xuất chủ yếu và những của
cải của đất nước.
Trên cơ sở nhiều quan hệ sở hữu có nhiều thành phần kinh tế tham gia
vào sản xuất và lưu thông hàng hoá trên thị trường tức là có nhiều chủ thể
kinh tế với nhiều nguồn lực như sức lao động, vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm
quản lí tham gia vào sản xuất hàng hoá lưu thông trên thị trường. Mỗi thành
phần kinh tế chỉ là một bộ phận cấu thành kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa mà trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Mỗi chế độ xã hội đều phải dựa trên một cơ sở kinh tế nhất định, nền
kinh tế nước ta phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa như vậy kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo nhằm tạo nền tảng cho nền kinh tế ấy.
Kinh tế nhà nước nắm giữ những ngành, những vị trí trọng yếu trong
nền kinh tế nên việc xác lập vai trò của kinh tế nhà nước là vấn đề có tính
nguyên tắc để đảm bảo nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Nếu kinh tế thị trường trong chủ nghĩa tư bản có nhiều hình thức phân
phối trong đó phân phối cho tư bản là chủ yếu thì trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam do có nhiều quan hệ sở hữu khác
nhau nên cũng có nhiều hình thức phân phối khác nhau như phân phối theo
lao động, phân phối ngoài thù lao lao động thông qua các quỹ phúc lợi xã hội

và tập thể và phân phối theo nguồn lực đóng góp. Trong đó, phân phối theo
lao động là chủ yếu.
Sự tăng trưởng, phát triển kinh tế gắn liền với công bằng xã hội, với
việc phát triển văn hoá giáo dục để nâng cao dân trí, đào tạo nguồn lực xây
dựng một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Kinh tế thị trường ở Việt Nam phát triển theo hướng mở rộng quan hệ
hợp tác kinh tế với nước ngoài. Đó là là tất yếu vì sản xuất hàng hoá và trao

12


đổi hàng hoá tất yếu vượt khỏi phạm vi quốc gia mang tính chất quốc tế,
đồng thời đó cũng là tất yếu của sự phát triển nhu cầu.
Thông qua mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài để biến nguồn lực
bên ngoài thành nguồn lực bên trong tạo điều kiện cho phát triển, phát triển
rút ngắn.
Nền kinh tế hàng hoá nước ta vận động theo cơ chế thị trường có sự
quản lí của nhà nước. Đó là sự kết hợp cả sự điều tiết của cả bàn tay vô hình
lẫn bàn tay hữu hình nhằm tận dụng được ưu điểm của cả hai sự điều tiết.
Đồng thời, khắc phục được hạn chế của cả hai mô hình điều tiết.
Cơ chế thị trường thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, dẫn đến sự gia tăng
thu nhập quốc dân, quốc nội thời kỳ sau, năm sau so với thời kỳ trước năm
trước phát triển kinh tế chính là tăng trưởng kinh tế và thay đôỉ cơ cấu kinh tế
và mức sống tăng lên.
2.2. Nhà nước pháp quyền giữ vai trò vô cùng quan trọng đối với nền
kinh tế thị trường, có sự tác động trở lại đối với nền kinh tế ấy:
Phát huy vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay chính là cách thiết thực góp phần bảo
đảm công bằng xã hội, vì sự phát triển dân chủ, văn minh của đất nước, song
vẫn giữ được bản sắc chính trị - xã hội của dân tộc trong thời kỳ hội nhập toàn

cầu.
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một
trong những vấn đề căn bản của triết lý phát triển ở Việt Nam hiện nay.
Không phải đến khi khủng hoảng tiền tệ xuất phát từ Mỹ năm 2008 gây ảnh
hưởng lan tỏa ra hầu khắp thế giới như hiện nay, cùng những giải pháp cơ bản
mà các nước đang sử dụng với hy vọng ngăn ngừa những kết cục bi thảm về
mặt kinh tế - xã hội do khủng hoảng đó gây ra, chúng ta mới thấy tính phi lý
của cái gọi là “thị trường tự do”, “bàn tay vô hình”. Từ rất sớm, chúng ta đã
khẳng định, nền kinh tế mà chúng ta đang xây dựng phải có sự quản lý của
Nhà nước. Kiên trì tư tưởng đó, tại Đại hội X, Đảng ta nhấn mạnh sự cần thiết
13


phải “bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa”.
2.2.1. Ở Việt Nam hiện nay, vai trò của Nhà nước đối với kinh tế không
chỉ xuất phát từ yêu cầu phổ biến của quá trình phát triển kinh tế thị trường,
mà còn xuất phát từ tính đặc thù của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Thị trường, kinh tế thị trường là một kiểu quan hệ giữa người với người
trong sản xuất, trao đổi và tiêu dùng, nên mang đậm dấu ấn của quan hệ xã
hội, của thể chế chính trị mà nền kinh tế đó tồn tại. Với mức độ đáng kể, sự
phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay bị chi phối và nhằm phục vụ
cho định hướng xã hội chủ nghĩa. Đương nhiên, nhân tố sâu xa bảo đảm định
hướng chính trị đối với kinh tế là đường lối, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của
Đảng Cộng sản cầm quyền. Song, để đường lối, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo
của Đảng biến thành hiện thực vận động của nền kinh tế, chúng phải được thể
chế hóa thành hệ thống pháp luật, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và được triển khai bằng Nhà nước, thông qua Nhà nước, dưới sự quản
lý của Nhà nước do Đảng lãnh đạo. Xét từ giác độ đó, Nhà nước có tác động
trực tiếp nhất tới việc định hướng sự vận động của kinh tế thị trường. Pháp

luật, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước chỉ đúng,
khi chúng phản ánh chính xác yêu cầu phát triển khách quan của thị trường,
lấy quy luật thị trường làm cơ sở. Xét ở mặt này, chúng mang tính khách
quan. Nhưng chúng lại là sự thể chế hóa, cụ thể hóa mục tiêu chính trị của
Đảng, nên cũng có mặt chủ quan. Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, định hướng chủ quan (ý chí của Đảng,
của Nhà nước và nhân dân ta) là ở chỗ, cùng với việc bảo đảm lợi ích hợp lý
của doanh nhân, thì việc ưu tiên bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của
người lao động là một vấn đề có tính nguyên tắc. Nhà nước có cơ chế, chính
sách để bảo đảm sự ưu tiên đó.
2.2.1.1. Trên lĩnh vực sở hữu:
14


Sự tồn tại của ba chế độ sở hữu (sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở
hữu tư nhân), ba hình thức sở hữu (hình thức sở hữu nhà nước, hình thức sở
hữu tập thể, hình thức sở hữu tư nhân) là một đòi hỏi khách quan của nền kinh
tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. Nhà nước thông qua hệ thống chính sách,
pháp luật, đòn bẩy kinh tế để định hướng, làm cho kinh tế nhà nước từng
bước vươn lên nắm vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể tạo
thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
2.2.1.2. Trên lĩnh vực quản lý:
Nhà nước xây dựng cơ chế, chính sách... tạo điều kiện thuận lợi cho
người lao động trực tiếp hay thông qua các khâu trung gian nhất định tham
gia quá trình hoạch định, tổ chức, giám sát, kiểm tra việc thực hiện các kế
hoạch phát triển của doanh nghiệp.
2.2.1.3. Trên lĩnh vực phân phối:
Nhà nước vừa thông qua hệ thống chính sách kinh tế do mình hoạch
định, vừa sử dụng các nguồn lực - trực tiếp là bộ phận kinh tế nhà nước - để
định hướng, can thiệp vào lĩnh vực phân phối và phân phối lại theo hướng ưu

tiên phân phối theo lao động và qua phúc lợi xã hội; kết hợp tăng trưởng kinh
tế với thực hiện công bằng xã hội; hoạch định các chính sách xóa đói, giảm
nghèo, đền ơn đáp nghĩa...
2.2.2. Đặc biệt, trong sự phát triển kinh tế thị trường ở nước ta, Nhà
nước có vai trò to lớn trong việc bảo đảm sự ổn định vĩ mô cho phát triển và
tăng trưởng kinh tế.
“Ổn định” ở đây thể hiện sự cân đối, hài hòa các quan hệ nhu cầu, lợi
ích giữa người và người, tạo ra sự đồng thuận xã hội trong hành động vì mục
tiêu phát triển của đất nước. Tính đúng đắn, hợp lý và kịp thời của việc hoạch
định và năng lực tổ chức thực hiện các chính sách phát triển vĩ mô do Nhà
nước đảm nhiệm là điều kiện tiên quyết nhất hình thành sự đồng thuận đó. Là
những công cụ tạo ra sự đồng thuận xã hội, từ đó mà có ổn định xã hội cho
phát triển và tăng trưởng kinh tế, các chính sách, pháp luật của Nhà nước, một
15


mặt, phải phản ánh đúng những nhu cầu chung của xã hội, của mọi chủ thể
kinh tế...; mặt khác, phải tôn trọng tính đa dạng về nhu cầu, lợi ích cụ thể của
các chủ thể đó.
2.2.3. Nhà nước ta cũng có vai trò to lớn trong việc bảo đảm gia tăng
phúc lợi xã hội:
Mục tiêu căn bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam là góp phần thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”. Có chính sách xã hội hợp lý; bảo đảm phúc lợi
ngày một gia tăng nhờ hiệu quả tác động của chính sách kinh tế tiến bộ do
Nhà nước hoạch định và tổ chức thực hiện bằng những nỗ lực của nhiều chủ
thể kinh tế khác nhau... là nhân tố có vai trò quyết định trong vấn đề này.
Công bằng xã hội là một động lực của sự phát triển xã hội nói chung,
của sự phát triển và tăng trưởng kinh tế bền vững nói riêng. Một trong những
mục tiêu của quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa mà Nhà nước hướng tới là xóa bỏ tình trạng vi phạm công bằng xã hội.
Đây là một nhiệm vụ lâu dài.
Nhà nước chủ động tham gia kinh tế thị trường nhằm bảo hộ cho hình
thức tổ chức sản xuất chứa đựng các yếu tố của quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa và tạo điều kiện cho chúng phát huy ưu thế của mình; tạo vị thế cho
kinh tế nhà nước có sức mạnh định hướng xây dựng mô hình kinh tế cho phép
giải phóng con người; ngăn chặn các xu hướng phát triển kinh tế không có lợi
cho quảng đại người lao động.
Để thực hiện các mục tiêu đó, điều quan trọng nhất là Nhà nước tạo lập
khung khổ pháp lý cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra hiệu quả. Chỉ
duy nhất nhà nước có được chức năng này. Hệ chuẩn pháp luật kinh tế của
nhà nước càng được xây dựng đồng bộ, đúng đắn, nhất quán và kịp thời bao
nhiêu, càng có tác động tích cực tới sự vận hành của nền kinh tế bấy nhiêu.
Song, tự nó, pháp luật kinh tế không gây ra những biến đổi trong hiện thực
kinh tế. Để cho các luật kinh tế trở thành tác nhân kích thích phát triển kinh
16


tế, chúng phải được đưa vào vận hành. Nhà nước chính là thiết chế chủ yếu
đảm đương nhiệm vụ này. Năng lực điều hành kinh tế bằng pháp luật là một
thước đo đánh giá sự trưởng thành và vai trò của nhà nước trong kinh tế.
2.2.4. Vai trò của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa cũng thể hiện ở việc nhà nước góp phần đắc lực vào
việc tạo môi trường cho thị trường phát triển, như tạo lập kết cấu hạ tầng kinh
tế cho sản xuất, lưu thông hàng hóa; tạo lập sự phân công lao động theo
ngành, nghề, vùng kinh tế qua việc nhà nước tiến hành quy hoạch phát triển
kinh tế theo lợi thế từng vùng, ngành và nhu cầu chung của xã hội... Là chủ
thể trực tiếp sở hữu hoặc quản lý, khai thác những cơ quan truyền thông mạnh
nhất của quốc gia, nhà nước góp phần cung cấp thông tin thị trường cho các
chủ thể kinh tế để các chủ thể này chủ động lựa chọn phương án sản xuất kinh

doanh, đối tác kinh tế, thời điểm thực hiện các giao dịch kinh tế, cách thức
sản xuất kinh doanh có hiệu quả nhất trong điều kiện cụ thể của mình...
Muốn sản xuất phải có an toàn về môi trường xã hội, môi trường kinh
doanh, môi trường an ninh - trật tự, an toàn trong quan hệ giữa người và
người, giữa doanh nghiệp và các cơ quan công quyền... Ngoài những nỗ lực
của nhà nước trong sự đồng tình của nhân dân, không lực lượng nào khác có
thể tạo lập được những yêu cầu an toàn như vậy.
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, sự giao lưu kinh tế, hội nhập kinh
tế quốc tế của mọi quốc gia chỉ có hiệu quả cao, khi có tác nhân khởi thủy từ
phía nhà nước, được hỗ trợ đắc lực từ phía nhà nước. Bằng chính sách hội
nhập đúng đắn và năng lực tổ chức thực hiện có hiệu quả chính sách đó, nhà
nước góp phần khởi đầu và có tác động tích cực vào quá trình thiết lập quan
hệ quốc tế. Đại diện cho đất nước tham gia vào các quá trình soạn thảo và
thông qua chuẩn mực luật pháp kinh tế, các hiệp định kinh tế, các nghị định
thư..., Nhà nước ta góp phần tạo cho chủ thể kinh tế của đất nước vị trí có lợi
trong quan hệ kinh tế quốc tế. Sự kiện đàm phán gia nhập Tổ chức Thương
mại thế giới (WTO) thành công là chứng minh rõ rệt cho điều này.
17


Cùng với tác động của hệ thống luật kinh tế và sự đầu tư trực tiếp vào
kinh tế, Nhà nước còn định hướng nền kinh tế qua các công cụ gián tiếp là
chính sách kinh tế, như chính sách tài chính - tiền tệ, chính sách đầu tư, chính
sách thu nhập và việc làm...
Việc nhấn mạnh vai trò của Nhà nước trong việc định hướng sự phát
triển của nền kinh tế thị trường ở nước ta không mâu thuẫn với vấn đề có tính
nguyên tắc: sự vận hành của nền kinh tế thị trường nào cũng trước hết và chủ
yếu do các quy luật thị trường quyết định. Song, quy luật kinh tế thị trường lại
thuộc lĩnh vực quy luật xã hội. Tính khách quan của nó được thể hiện và thực
hiện thông qua hoạt động có ý thức của con người. Dựa trên việc nhận thức

đúng đắn những yêu cầu của các quy luật trong nền kinh tế thị trường, Nhà
nước cụ thể hóa những yêu cầu đó thành luật, chính sách, kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội, xác định đúng bước đi để hiện thực hóa chúng. Đây là nhân
tố có tác động trực tiếp thúc đẩy nền kinh tế thị trường vận động phù hợp với
quy luật nội tại của nó. Ở đây có sự thống nhất giữa khách quan và chủ quan.
Song, sự thống nhất đó chỉ có được, khi lợi ích chân chính mà nhà nước theo
đuổi phù hợp với quy luật phát triển khách quan của xã hội nói chung, của
kinh tế thị trường nói riêng; chủ thể nhà nước có năng lực trí tuệ đủ tầm để
nắm bắt, vận dụng yêu cầu của các quy luật kinh tế vào việc hoạch định các
chính sách phát triển. Trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam hiện nay, xét về bản
chất, Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân, lấy lợi ích của dân tộc
đáp ứng đúng nhu cầu phát triển khách quan của xã hội làm mục tiêu hoạt
động của mình. Nhà nước ta lấy hệ tư tưởng cách mạng và khoa học (chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh) làm một trong những cơ sở xuất
phát quan trọng để hoạch định chiến lược phát triển kinh tế. Đó là hai nhân tố
bảo đảm có sự thống nhất giữa tính khách quan của quá trình phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và việc phát huy vai trò của nhà
nước xã hội chủ nghĩa với tư cách là một nhân tố chủ quan tác động tích cực
tới sự phát triển của nền kinh tế đó.
18


Tuy nhiên, việc phát huy vai trò của Nhà nước đối với sự phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay cũng còn
những hạn chế đáng kể: thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa còn chưa được xây dựng đồng bộ, vận hành suôn sẻ; quản lý nhà nước
về kinh tế còn nhiều bất cập; chưa có giải pháp mang tầm đột phá để kinh tế
nhà nước thực sự hoàn thành tốt chức năng chủ đạo trong nền kinh tế; kinh tế
tập thể còn rất yếu kém; năng lực cạnh tranh của nền kinh tế thấp; chưa giải
quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường...

Chương 3: Ý nghĩa và giải pháp nâng cao hiệu quả vận dụng mối
quan hệ giữa kinh tế thị trường và Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
hiện nay:
3.1. Ý nghĩa:
Việc nghiên cứu và nắm rõ mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay có ý
nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát triển bền vững, đi lên của 2 yếu tố
này.
Nắm rõ được mối quan hệ, hiểu được bản chất vấn đề, từ đó tìm ra cách
thức vận dụng sáng tạo, đúng đắn, phù hợp để góp phần thúc đẩy, tạo điều
kiện cho công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường và Nhà nước pháp quyền
theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa đã được lựa chọn, tránh chệch hướng,
sai đường hoặc không phát triển.
Nghiên cứu để tìm ra giải pháp để nâng cao nó.
3.2. Giải pháp:
Để nâng cao hơn nữa hiệu quả, hiệu lực tác động của Nhà nước tới phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay,
Nhà nước cần sớm hoàn thiện thể chế của nền kinh tế thị trường, đặc biệt là
hoàn thiện hệ thống pháp luật về sở hữu. Hệ thống luật này phải khẳng định
và bảo vệ sự tồn tại khách quan, lâu dài tính đa dạng của các hình thức sở
hữu; bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu. Cần xác định
19


rõ, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Nhà nước ta là cung cấp môi trường
pháp lý tin cậy cho các chủ thể kinh tế phát huy tối đa năng lực của họ.
Cùng với vấn đề then chốt trên, cần tiếp tục phân định rạch ròi chức
năng quản lý hành chính nhà nước đối với kinh tế và quản lý sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp; Nhà nước cần làm tốt chức năng hỗ trợ cho toàn xã
hội sản xuất hàng hóa công cũng như tư; đặc biệt là kết cấu hạ tầng kinh tế và

xã hội...
Để nâng cao năng lực của bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế, cần cải
cách thể chế xây dựng chính sách, tích cực đấu tranh chống các hành vi độc
đoán, chuyên quyền, tệ quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước.
Việc giải quyết có hiệu quả những vấn đề vừa có tính cấp bách, vừa có tính
lâu dài đó sẽ nâng cao hơn nữa hiệu quả tác động của Nhà nước tới sự phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập toàn cầu hiện nay.
Cùng với sự tác động của Nhà nước, nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta cần phải có thể chế hoàn chỉnh, phù hợp với điều
kiện, yêu cầu hiện tại để kinh tế thị trường thực sự là cơ sở, là động lực quan
trọng để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

20


PHẦN KẾT LUẬN
Thực tiễn phát triển nền kinh tế thị trường hơn 20 năm đổi mới cho
thấy, Nhà nước ta đã có nhiều tác động tích cực trong việc bảo đảm định
hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển nền kinh tế này. Việc từng
bước hoàn thiện hệ thống chính sách về chế độ sở hữu và cơ cấu thành phần
kinh tế đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch theo hướng tạo động lực và điều
kiện thuận lợi hơn cho khai thác các tiềm năng trong và ngoài nước để phát
triển kinh tế- xã hội. Nhờ đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế, nhìn chung, không
ngừng được nâng cao.
Cùng với đó là những thành tựu quan trọng của nền kinh tế thị trường
đã mang lại trong suốt quá trình đổi mới của đất nước ta đã góp phần quan
trọng vào việc minh chứng cho tính đúng đắn của đường lối lãnh đạo sáng
suốt của Đảng cũng như sự quản lý nhậy bén, năng động, phù hợp của Nhà
nước. Chính những yếu tố đó đã góp phần tác động, thúc đẩy nhau cùng phát

triển và cùng tạo ra niềm tin của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đã lựa chọn trong suốt những năm
tháng qua cũng như cho cả tương lai sau này. Con đường đó là hoàn toàn hợp
lý và đích đến của nó là có thực ở tương lai./.

21


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về kinh tế thị trường
và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa:
1.1. Về kinh tế thị trường:
1.1.1. Khái niệm:
1.1.2. Sự cần thiết khách quan phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa:
1.1.2.1. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa:
1.1.2.2. Định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một sự lựa chọn
đúng đắn:
1.1.2.3. Kinh tế thị trường không những tồn tại khách quan mà còn cần
thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội:
1.2. Về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa:
1.2.1. Khái niệm:
1.2.2. Sự cần thiết phải xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam:
Chương 2: Mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và Nhà nước pháp
quyền ở Việt Nam hiện nay:
2.1. Kinh tế thị trường là cơ sở, động lực để xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:

2.2. Nhà nước pháp quyền giữ vai trò vô cùng quan trọng đối với nền
kinh tế thị trường, có sự tác động trở lại đối với nền kinh tế ấy:
22


Chương 3: Ý nghĩa và giải pháp nâng cao hiệu quả vận dụng mối
quan hệ giữa kinh tế thị trường và Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
hiện nay:
3.1. Ý nghĩa:
3.2. Giải pháp:
PHẦN KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Nxb

Chính trị quốc gia - Sự thật, HN, 2011.
2.

Tài liệu hỏi đáp các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

XI của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, HN, 2011.
3.

Nguyễn Đăng Dung (chủ biên), Bùi Ngọc Sơn và Nguyễn Mạnh

Tường: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học quốc
gia Hà Nội, HN, 2007.

23




×