ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
*******
NGUYỄN THỊ KIM CHI
TƢ TƢỞNG VỀ PHÂN QUYỀN CỦA MỘT SỐ
TRIẾT GIA PHƢƠNG TÂY CẬN ĐẠI VÀ Ý NGHĨA CỦA
NÓ ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP
QUYỀN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học
HÀ NỘI - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
*******
NGUYỄN THỊ KIM CHI
TƢ TƢỞNG VỀ PHÂN QUYỀN CỦA MỘT SỐ
TRIẾT GIA PHƢƠNG TÂY CẬN ĐẠI VÀ Ý NGHĨA CỦA
NÓ ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP
QUYỀN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học
Mã số: 60 22 03 01
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Nguyễn Thúy Vân
HÀ NỘI - 2016
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ................................. 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................. 6
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ........................................... 7
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn ............................ 7
6. Đóng góp mới của luận văn ............................................................................ 8
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn..................................................... 8
8. Kết cấu của luận văn. ...................................................................................... 8
NỘI DUNG........................................................................................................... 9
Chƣơng 1 TIỀN ĐỀ CHO SỰ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG PHÂN QUYỀN
CỦA CÁC TRIẾT GIA PHƢƠNG TÂY THỜI CẬN ĐẠI ............................ 9
1.1 Khái quát về tƣ tƣởng phân quyền............................................................. 9
1.2 Điều kiện, tiền đề cho sự hình thành tƣ tƣởng phân quyền của các triết
gia phƣơng Tây thời Cận đại ........................................................................... 15
1.2.1 Điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội phương Tây thời Cận đại .............. 15
1.2.2 Tiền đề lý luận cho sự hình thành tư tưởng phân quyền ....................... 20
Tiểu kết Chƣơng 1 ............................................................................................. 29
Chƣơng 2 MỘT SỐ NỘI DUNG TƢ TƢỞNG VỀ PHÂN QUYỀN CỦA
CÁC TRIẾT GIA PHƢƠNG TÂY CẬN ĐẠI VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI
VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY .................................................................................................................... 31
2.1 Một số nội dung của tƣ tƣởng về phân quyền ở các triết gia phƣơng
Tây thời Cận đại ................................................................................................ 31
2.1.1 Bản chất của việc phân quyền ................................................................. 31
2.1.2 Cơ sở và một số nguyên tắc phân chia quyền lực................................... 36
2.1.3 Vai trò của các bộ phận quyền lực nhà nước và mối quan hệ giữa
chúng................................................................................................................... 48
2.2 Giá trị và ý nghĩa tƣ tƣởng phân quyền của các triết gia phƣơng Tây
cận đại đối với việc xây dựng nhà nƣớc pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. 59
2.2.1 Một số giá trị và hạn chế trong tư tưởng phân quyền của các nhà triết
học Tây Âu thời cận đại ..................................................................................... 59
2.2.2 Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt nam
hiện nay............................................................................................................... 62
2.2.3 Ý nghĩa tư tưởng phân quyền đối với việc xây dựng nhà nước pháp
quyền ở Việt Nam hiện nay................................................................................ 71
Tiểu kết Chƣơng 2 ............................................................................................ 80
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 85
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phân quyền là một trong những lý thuyết chính trị - pháp lý có ý nghĩa
hết sức quan trọng cả trong tư tưởng và thực tiễn chính trị thế giới. So với các
tư tưởng trong chế độ chuyên chế độc tài, lý thuyết phân quyền được coi là tư
tưởng thời đại, đánh dấu sự chuyển biến từ việc sử dụng quyền lực dã man
trong các xã hội chuyên chế sang việc thực thi quyền lực văn minh trong xã
hội dân chủ. Sự hình thành và phát triển của lý thuyết này gắn liền với quá
trình đấu tranh cho bình đẳng, tự do và tiến bộ xã hội, hướng đến xác lập các
mối quan hệ cơ bản giữa pháp luật và quyền lực, cá nhân và cộng đồng, công
dân và nhà nước nhằm đảm bảo tính hiệu quả cao nhất của việc thực thi quyền
lực. Chính vì vậy, phân quyền được coi là một tất yếu khách quan trong các
nhà nước dân chủ, là điều kiện đảm bảo cho những giá trị tự do được phát
huy, là tiêu chí đánh giá sự tồn tại và phát triển của nhà nước pháp quyền, nơi
chủ quyền nhân dân giữ vai trò tối thượng.
Tư tưởng phân quyền được bàn đến rất sớm trong lịch sử tư tưởng
chính trị phương Tây, đại biểu là Aristotle (384-322 tr.CN) nhưng nó
khơng phải là hệ thống quan niệm hồn chỉnh và khơng được đưa vào
thực hiện cho đến thời kỳ La Mã dưới hình thức nhà nước trong các nền
cộng hịa La Mã.
Chỉ đến thế kỷ 17-18, các nhà tư tưởng John Locke và Charles de
Secondat Montesquieu (Ch.S.Montesquieu), Jean-Jacques Rousseau (J.J.
Rousseau) mới đề cập đến mơ hình tam quyền phân lập trong các tác phẩm
của mình. John Locke (1632 - 1704), một nhà triết học người Anh, là người
đầu tiên khởi thảo ra thành hệ thống lý luận hoàn chỉnh về học thuyết phân
quyền, và được thể hiện trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về Chính quyền”.
Tiếp thu và phát triển tư tưởng về thể chế chính trị tự do, chống chuyên chế,
1
Mongtesquieu xây dựng học thuyết phân quyền với mục đích tạo dựng những
thể chế chính trị đảm bảo tự do cho các công dân. Tiếp nối Montesquieu, J.J.
Rousseau cùng với tác phẩm “Bàn về khế ước xã hội” đã đưa ra những quan
điểm rất mới mẻ và tiến bộ về sự phân quyền trong tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước.
Sự phát triển tư tưởng về phân quyền trong lịch sử triết học là sản phẩm
của sự phát triển nền sản xuất vật chất cũng như sự đấu tranh giai cấp trong xã
hội. Đó là sự tiếp tục các nguyên lý triết học về bản chất của nhà nước, pháp
luật, là yếu tố tất yếu của sự phát triển nhà nước với cơ sở kinh tế, chính trị
và sự biến đổi của chúng theo sự phát triển của đời sống xã hội. Tư tưởng về
phân quyền của các triết gia phương Tây cận đại có những giá trị to lớn mà
ngày nay nhiều quốc gia trên thế giới đang áp dụng và kết quả hữu dụng như
Mỹ, Đức, Pháp, Nhật bản…
Việt Nam đang xây dựng mơ hình nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa nên việc kế thừa có chọn lọc học thuyết về phân quyền của các triết gia
phương Tây Cận đại là điều rất cần thiết, qua đó tìm ra phương thức tồn tại
của nhà nước một cách hiệu quả nhất cho quá trình quản lý xã hội.
Vì những lý do đó, tác giả chọn đề tài “Tư tưởng về phân quyền của
một số triết gia phương Tây cận đại và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng
nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay” làm luận văn Thạc sỹ Triết học
của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Những năm gần đây, ở Việt Nam những cơng trình nghiên cứu về các
tư tưởng triết học nói chung và tư tưởng về nhà nước nói riêng của các nhà
triết học phương Tây thời cận đại bắt đầu nghiên cứu khá nhiều trên nhiều lát
cắt khác nhau. Có thể phân các nghiên cứu đó thành các mảng sau đây:
2
Thứ nhất, nhóm cơng trình nghiên cứu về tư tưởng triết học nói chung
triết học phương Tây Cận đại nói riêng
Trong nhóm này có thể kể đến các cơng trình bằng tiếng Việt, được viết
bởi các tác giả Việt Nam hoặc được dịch từ tiếng nước ngoài ra tiếng Việt
như Đại cách mạng Pháp 1789 [30] của A. Manfrêt (1965), Jean – Jacques
Rousseau [62] của Phùng Văn Tửu (1996), Lịch sử tư tưởng chính trị [19] của
các tác giả Học Viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2001), Triết học chính
trị Montesquieu với việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam [23] của
Lê Tuấn Huy (2006), v.v.
Trong cuốn Đại cách mạng Pháp 1789, A. Manfrêt đã khẳng định:
“Những nguyên nhân chủ yếu làm cho cách mạng không tránh khỏi: mâu
thuẫn sâu sắc giữa chế độ phong kiến và chủ nghĩa tư bản đã hình thành trong
lịng chế độ ấy, biểu hiện bằng mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn giữa đẳng cấp
thứ ba với các đẳng cấp đặc quyền, đã tạo thành những yếu tố quyết định
cuộc khủng hoảng ngày càng sâu sắc của toàn bộ chế độ phong kiến” [30,tr.
34-35].
Trong số những cơng trình nghiên cứu về quan niệm triết học của
Locke nói chung, trước hết phải kể tới cuốn Lịch sử triết học - Triết học thời
kỳ tiền tư bản chủ nghĩa. Đây là cơng trình do Viện Hàn lâm Khoa học Liên
Xô xuất bản năm 1957 và đến 1962 được dịch sang tiếng Việt. Công trình này
trong khi trình bày khái quát những tư tưởng triết học cơ bản của các nhà triết
học trong lịch sử đã đề cập tới những tư tưởng triết học cơ bản của Locke.
Năm 2002, nhà xuất bản Chính trị quốc gia đã cho tái bản cuốn Lịch sử
triết học [67] do Nguyễn Hữu Vui chủ biên, sau đó là cuốn Đại cương lịch sử
triết học phương Tây [22] của Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Thanh, Nguyễn Anh
Tuấn (2006). Những công trình này đã tập trung giới thiệu một cách khái quát
3
về tư tưởng triết học của các triết gia qua các thời kỳ, trong đó phần giới thiệu
về các triết gia phương Tây thời cận đại rất được chú trọng.
Thứ hai, nhóm các cơng trình nghiên cứu về tư tưởng phân chia quyền
lực của một số triết gia phương Tây cận đại tiêu biểu
Cuốn sách Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước với việc tổ chức bộ
máy nhà nước ở một số nước [20] do tác giả Nguyễn Thị Hồi được Nxb Tư
pháp Hà Nội xuất bản năm 2005. Trong cuốn sách, tác giả đã dày công nghiên
cứu tư tưởng phân chia quyền lực trong lịch sử triết học từ Aristole, Locke,
Montesqieu, Rousseau…và việc áp dụng tư tưởng phân quyền này ở một số
nhà nước tiêu biểu trên thế giới hiện nay. Luận văn Thạc sỹ của Đinh Thị
Hồng Vững (2013) với đề tài “ Quan niệm của John Locke về nhà nước trong
tác phẩm Khảo luận thứ hai về chính quyền” [68]. Trong đó tác giả đã đi vào
nghiên cứu bản chất và tổ chức quyền lực nhà nước, trong đó cũng đề cập đến
yếu tố phân quyền. Trong cơng trình 106 nhà thơng thái [55] của P.S.Taranốp
biên soạn và do Đỗ Minh Hợp dịch. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000
cũng đề cập đến cuộc đời và sự nghiệp của một số triết gia phương Tây cận
đại tiêu biểu như John Locke, Montesquieu...
Tác phẩm Lịch sử thế giới cận đại [48] do hai tác giả Vũ Dương Ninh,
Nguyễn Văn Hồng chủ biên, nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, Hà Nội năm
2014, trong phần giới thiệu về lịch sử thế giới cận đại phương Tây, các tác giả
đã khái quát những tiền đề kinh tế, chính trị, xã hội phương Tây nói chung,
nước Pháp nói riêng từ thế kỉ XVI đến cuối thế kỷ XVIII. Ngoài ra, trong
phần giới thiệu của học giả Hoàng Thanh Đạm trong cuốn “Bàn về khế ước
xã hội” [54] do chính ơng dịch và tái bản năm 2004, hay cuốn tiểu thuyết
“Giăng Giắc Rútxô” [62] của Phùng Văn Tửu (1978) cũng đều có những nội
dung liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp, các nội dung tư tưởng và những nội
dung về tư tưởng phân quyền.
4
Ngồi ra, có một số luận văn tiến sỹ, thạc sĩ, một số bài báo, sách
tham khảo có đề cập trực tiếp ít nhiều đến tư tưởng phân quyền của
các nhà triết học Tây Âu cận đại như cuốn “Triết học chính trị về Quyền con
người” [66] của tác giả Nguyễn Văn Vĩnh (2005).
Thứ ba, nhóm các cơng trình nghiên cứu về ý nghĩa của tư tưởng phân
quyền của các triết gia phương Tây cận đại tiêu biểu đối với việc xây dựng
nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay
Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Thị Châu Loan (2014), Triết học chính trị
Jean Jacques Rousseau và ý nghĩa lịch sử của nó với việc xây dựng nhà nước
pháp quyền ở Việt Nam hiện nay [27] cũng đã có những luận giải về tư tưởng
phân quyền trong tổ chức quyền lực nhà nước.
Cơng trình tập thể do Nguyễn Văn Yểu, Lê Hữu Nghĩa (đồng chủ biên)
(2006), Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời
kỳ đổi mới [69] trong đó, chương I: nhóm tác giả đã nhìn lại 20 năm đổi mới
Nhà nước và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; đề
xuất phương án về việc: 1) Đổi mới hoạt động lập pháp của Quốc hội (chương
VII); 2) đổi mới hoạt động hành pháp của Chính phủ (chương IX); 3) đổi mới
tổ chức và hoạt động của các cơ qua tư pháp (chương X); 4) tạo dựng mối
quan hệ biện chứng giữa bộ ba cơ quan Nhà nước (chương XI). Theo các tác
giả của cơng trình, ngun nhân cơ bản làm chậm tiến trình xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hơn hai thập kỷ qua thuộc về cải
cách hành chính, vì bộ máy Nhà nước Việt Nam hiện nay còn “khá cồng
kềnh, hoạt động chồng chéo, hiệu quả thấp”. Thực trạng đó đặt ra cho chúng
ta nhiệm vụ nặng nề sắp tới là phải nhanh chóng cải cách hành chính, kiến tạo
một bộ máy nhà nước với việc phân công quyền lực rõ ràng, khơng chỉ gọn
nhẹ mà cịn phải làm việc có hiệu quả các công việc dân sinh, dân sự.
5
Các cơng trình: Nguyễn Văn Niên (1996), Xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn [49]. Phạm Gia Đức và
Lê Hải Triều (2003), Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân [16]; Nguyễn Trọng Thóc (2005), Xây dựng nhà nước
pháp quyền của dân, do dân, vì dân [61]; Đào Trí Úc, Phạm Hữu Nghị (2009)
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay - một số vấn đề lý luận và thực tiễn [65] cũng đã nêu lên nhiều vấn
đề lý luận và thực tiễn mà Việt Nam cần giải quyết trên từng bước xây dựng
Nhà nước pháp quyền.
Như vậy, nhìn chung đã có nhiều cơng trình khác nhau nghiên cứu về
tư tưởng triết học của các nhà triết học phương Tây cận đại nói chung và tư
tưởng phân quyền nói riêng cũng như ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng
nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, những nghiên cứu này
còn tản mạn, chưa có tính hệ thống, cịn ít cơng trình chun sâu và có hệ
thống về tư tưởng phân quyền của các nhà triết học Tây Âu thời cận đại và ý
nghĩa của nó đối với xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay.
Đây là hướng nghiên cứu chính mà luận văn muốn hướng tới để làm rõ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích
Trên cơ sở phân tích, hệ thống hóa nội dung tư tưởng phân quyền của
một số triết gia phương Tây thời Cận đại, luận văn chỉ ra ý nghĩa của những
tư tưởng này đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện
nay.
Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu đã đề ra, luận văn tập trung giải
quyết những nhiệm vụ sau:
6
- Trình bày những điều kiện, tiền đề dẫn đến sự ra đời tư tưởng phân
quyền của một số triết gia phương Tây cận đại.
- Phân tích làm rõ nội dung tư tưởng phân quyền của các triết gia trên.
- Chỉ ra ý nghĩa của tư tưởng phân quyền nhà nước của các triết gia
phương Tây thời Cận đại đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt
Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng
Luận văn nghiên cứu nội dung tư tưởng cơ bản, giá trị, hạn chế và ảnh
hưởng của tư tưởng phân chia quyền lực của các triết gia phương Tây Cận
đại, và ý nghĩa của những tư tưởng này đối với việc xây dựng nhà nước pháp
quyền ở Việt Nam hiện nay.
Phạm vi
Luận văn chỉ tập trung làm rõ những tư tưởng phân chia quyền lực của
một số triết gia tiêu biểu phương Tây Cận đại như John Locke (1632-1704),
Charlesde Secondat Montesquieu (Ch.S.Montesquieu) (1689- 1775), JeanJacques Rousseau (J.J. Rousseau) (1712 – 1778) và bối cảnh xây dựng nhà
nước Pháp quyền XHCN Việt Nam từ năm 1991 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn kiện của
Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước pháp quyền, về xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn dưới góc độ triết
học là phương pháp biện chứng duy vật như phương pháp logic và lịch sử; đi
7
từ trừu tượng đến cụ thể và các phương pháp nghiên cứu liên ngành như:
phương pháp so sánh, phân tích và tổng hợp; đặc biệt chú ý tới mối quan hệ
biện chứng giữa cái chung và cái riêng.
6. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn phân tích đã hệ thống hóa một số tư tưởng cơ bản về phân chia
quyền lực của một số triết gia tiêu biểu phương Tây cận đại.
Luận văn đánh giá một số giá trị, hạn chế và ảnh hưởng cơ bản của
những tư tưởng trên, từ đó chỉ ra ý nghĩa của tư tưởng phân quyền nhà nước
đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay trên cơ sở
bối cảnh lịch sử và các điều kiện đặc thù của việc xây dựng nhà nước pháp
quyền của dân, do dân và vì dân.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.
Góp phần dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy
những vấn đề liên quan đến lịch sử triết học phương Tây Cận đại và nhà nước
pháp quyền.
8. Kết cấu của luận văn.
Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2
chương, 4 tiết
8
NỘI DUNG
Chƣơng 1
TIỀN ĐỀ CHO SỰ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG PHÂN QUYỀN CỦA
CÁC TRIẾT GIA PHƢƠNG TÂY THỜI CẬN ĐẠI
1.1 Khái quát về tƣ tƣởng phân quyền
Nguồn gốc của việc phân quyền
Theo các nhà tư tưởng, khi các cá nhân hoàn toàn xa lạ lần đầu tương tác
với nhau thì quan hệ đó chưa có quan hệ quyền lực. Khi quan hệ xã hội giữa
các cá nhân này được xác lập thì quan hệ quyền lực mới xuất hiện.
Như vậy khi quyền lực ra đời thì sự phân chia quyền lực nhà nước chưa
xuất hiện ngay mà nó cịn nằm dưới dạng các nhà nước tập quyền ở thời kỳ cổ
đại. Chỉ đến khi quan hệ sản xuất phong kiến tan rã, quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa xuất hiện và trở thành chỗ dựa vững chắc về mặt tư tưởng cho các
phong trào đấu tranh lật đổ chính thể chun chế và chế độ phong kiến, vì
quyền tự do, dân chủ của nhân dân thì việc phân chia quyền lực nhà nước mới
được thực hiện. Mà biểu hiện của việc yêu cầu phân chia quyền lực nhà nước
chính là các cuộc cách mạng tư sản ở phương Tây thời kỳ cận đại.
Sự độc tài của chế độ chuyên chế khiến Rousseau đã phải thốt lên trong
dòng đầu tiên tác phẩm nổi tiếng Bàn về khế ước xã hội của mình: “người ta
sinh ra tự do, nhưng rồi đâu đâu con người cũng sống trong xiềng xích”[54,
tr.52]. Theo ông đây chính là nguồn gốc của những bất công cần phải thay
đổi, và sự thay đổi đó phải bắt đầu từ nhà nước.
Với Montesquieu thì nguồn gốc của sự phân quyền trong nhà nước chính
là sự độc tài khơng thể chấp nhận của thể chế chuyên chế: “trong chính thể
chuyên chế…chỉ một người cai trị, mà không luật lệ gì hết, chỉ theo ý chí và
sở thích của hắn ta mà thơi”[45, tr.47]. Chính sự độc tài này là nguồn gốc của
sự nổi dậy để thiết lập lại trật tự nhà nước mà ở đó khơng có chỗ cho sự cực
9
đoan, tùy tiện trong hoạt động nhà nước: “Quyền uy vô hạn độ của ông vua
chuyên chế được trao cho người cận thần tin cậy. Những người có năng lực
mà không được dùng thường ở trong trạng thái muốn nổi dậy”[45, tr.56].
Với mục đích tổ chức một bộ máy nhà nước công bằng, dân chủ tránh sự
lạm dụng quyền lực nhà nước vì mục đích tư lợi, khơng trong sáng, khơng vì
quốc gia của những người hay cơ quan nắm quyền cũng chính là một nguyên
nhân nữa dẫn đến tư tưởng phân quyền. Cơ sở của quan điểm này là xuất phát
từ thực tiễn khách quan mong muốn xây dựng bộ máy nhà nước dân chủ, tiến
bộ và công bằng. Do đó, có thể thấy rằng, việc phân chia quyền lực trong bộ
máy nhà nước mang tính tất yếu.
Như vậy, việc tổ chức quyền lực nhà nước theo hình thức phân quyền có
nguồn gốc từ các nhà tư tưởng thời kỳ Khai sáng. Sự phát triển của xã hội đã
làm cho vai trò của cá nhân con người ngày càng được đề cao, địi hỏi phải có
nền dân chủ dẫn đến sự ra đời các bộ luật và thiết chế lập pháp đại diện cho
quyền lực của nhân dân. Khi đó, quyền tự do, bình đẳng, sở hữu của con
người khơng bị mất đi mà cịn được đề cao và được nhà nước công nhận. Các
quyền này được công nhận bằng pháp luật và cũng là mục đích mà bất cứ nhà
nước nào cũng hướng tới. Việc chuyên quyền độc đốn là khơng thể xảy ra
nên cần phải phân chia quyền lực, không để cho bất kỳ cơ quan nào nắm được
tất cả quyền trong tay. Do đó, mỗi cơ quan phải nằm dưới sự kiểm soát của
nhà nước.
Nội dung của tư tưởng phân quyền
Phân quyền là một trong những lý thuyết chính trị - pháp lý có ý nghĩa và
tầm ảnh hưởng hết sức quan trọng cả trong tư tưởng và thực tiễn chính trị. Sự
hình thành lý thuyết này gắn liền với quá trình đấu tranh cho bình đẳng, tự do
và tiến bộ xã hội, hướng đến xác lập các mối quan hệ cơ bản giữa pháp luật và
quyền lực, cá nhân và cộng đồng công dân và nhà nước nhằm đảm bảo tính
10
hiệu quả cao nhất của việc thực thi quyền lực. Để hiểu được nội dung của tư
tưởng phân chia quyền lực, trước hết chúng ta cần tìm hiểu khái niệm phân
chia quyền lực.
Phân quyền là thuật ngữ dùng để đối lập với quan niệm về tập trung
quyền lực (tập quyền).
Nói đến phân quyền nhà nước tức là nói đến một trong hai quan điểm cơ
bản về cách thức thực hiện quyền lực nhà nước (sự lãnh đạo chính trị đối với
xã hội dựa vào sức mạnh của bộ máy nhà nước, cơng cụ thực hiện ý chí của
giai cấp thống trị hay của tồn thể nhân dân), mà ở đó, quyền lực được chia sẻ
cho các bộ phận khác nhau trong việc nắm giữ quyền lực nhà nước.
Tư tưởng phân quyền nhà nước được hiểu là tổng thể các quan điểm về
việc chia tách quyền lực nhà nước thành các loại quyền lực khác nhau về cơ
chế của từng loại quyền lực và mối quan hệ theo hướng ngăn cản, kiềm chế,
kiểm soát hoặc đối trọng với nhau giữa các quyền lực ấy trong quá trình thực
hiện quyền lực nhà nước. Nhiệm vụ của lý thuyết phân quyền là tổ chức
quyền lực nhà nước sao cho không một cá nhân hay cơ quan nào nắm trọn
vẹn quyền lực, tránh tình trạng một cá nhân hay một tổ chức nào đó nắm
quyền lực tuyệt đối, vừa ban hành, vừa thực thi luật, vừa trừng trị những
người có hành động xâm hại đến quyền lực nhà nước.
Để tìm hiểu về nội dung của tư tưởng phân quyền nhà nước, trước hết
phải hiểu về nhà nước và quyền lực nhà nước.
Nhà nước là tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, là bộ máy chuyên
làm nhiệm vụ chuyên chế và thực hiện chức năng quản lí đặc biệt nhằm duy
trì trật tự xã hội, thực hiện mục đích bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị trong
xã hội. Quyền lực nhà nước là quyền lực công cộng nhưng không thuộc về
mọi thành viên trong xã hội mà thuộc về giai cấp thống trị và phục vụ lợi ích
của giai cấp đó. Quyền lực nhà nước là sức mạnh mang tính ý chí của nhà
11
nước, có tính bắt buộc phải tn theo đối với mọi cá nhân, tổ chức, lực lượng
trong xã hội, được đảm bảo thực hiện bởi một bộ máy chuyên nghiệp quản lí
mọi mặt đời sống xã hội, bởi các cơng cụ như nhà tù, tòa án, cảnh sát, quân
đội… và bởi hệ thống các quy tắc xử sự chung thống nhất cho toàn xã hội.
Quyền lực nhà nước về bản chất là biểu hiện tư tưởng cho quyền lực chính trị
của lực lượng chiếm ưu thế về kinh tế trong xã hội.
Trong một xã hội có giai cấp, quyền lực nhà nước là sức mạnh có tính
bao trùm rộng lớn nhất, quan trọng nhất, có khả năng khống chế và bắt buộc
mọi cá nhân tổ chức lực lượng trong xã hội phải phục tùng ý chí của mình.
Nội dung cốt lõi của tư tưởng này cho rằng, quyền lực nhà nước ln có
xu hướng tự mở rộng, tự tăng cường vai trị của mình. Bất cứ ở đâu có quyền
lực sẽ xuất hiện xu thế lạm quyền và chuyên quyền, cho dù quyền lực ấy
thuộc về ai. Do vậy, để đảm bảo các quyền tự do cơ bản của công dân, ngăn
ngừa hành vi lạm quyền của các chủ thể nắm giữ quyền lực nhà nước nên cần
thiết lập pháp chế nhằm giới hạn quyền lực. Cách tốt nhất để chống lạm
quyền là giới hạn quyền lực bằng công cụ pháp lý và cách thực hiện không
phải là tập trung quyền lực mà phân chia nó ra. Muốn hạn chế quyền lực nhà
nước thì trước hết phải phân quyền và sau đó phải làm cho các nhánh quyền
lực đã được phân chỉ được phép hoạt động trong phạm vi quy định của pháp
luật.
Như vậy, nội dung cốt lõi của tư tưởng phân quyền được thể hiện qua 3
điểm :
Thứ nhất, có sự hiện diện các nhánh quyền lực nhà nước: quyền lập
pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp và các nhánh quyền lực độc lập nhau
về phạm vi thẩm quyền, chức năng và phương thức hoạt động.
Thứ hai, các nhánh quyền lực đó phải được bảo đảm cân bằng thơng qua
cơ chế kiểm soát và đối trọng. Nội dung này có nghĩa rằng, tuy các nhánh
12
quyền lực nhà nước độc lập với nhau nhưng mỗi quyền lực đều được đặt dưới
sự kiểm sốt và vì thế luôn tạo được thế cân bằng quyền lực.
Thứ ba, các nhánh quyền lực độc lập, kiểm soát và đối trọng nhưng vẫn
luôn phối hợp, tương tác, hỗ trợ lẫn nhau.
Sự phối hợp quyền lực trong phân quyền có những yếu tố quan trọng
sau:
1/ Phối hợp đòi hỏi loại trừ những trường hợp can thiệp không đúng
thẩm quyền và chức năng của một nhánh (hay cơ quan) quyền lực này vào
hoạt động của nhánh quyền lực khác.
2/ Phối hợp mang tính hỗ trợ là chính: Khi một cơ quan này, trong những
điều kiện nhất định khơng thể tự mình thực hiện được chức năng, nhiệm vụ,
có thể đề nghị cơ quan thuộc nhánh quyền lực khác hỗ trợ thực hiện; cũng có
khi khơng có u cầu rõ rệt từ phía một cơ quan, nhưng nhu cầu hỗ trợ được
ghi nhận và khơng có sự phản đối hoặc khi thẩm quyền can thiệp, hỗ trợ của
một cơ quan này đối với một cơ quan khác được quy định tại hiến pháp.
Có thể nói rằng những nội dung trên đây là những yếu tố của một cơ chế
phân quyền được thừa nhận chung và áp dụng rộng rãi trong tổ chức quyền
lực của nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, trong thực tiễn, cơ chế phân
quyền ngoài các đặc trưng phổ biến cịn có những biến thể trên cơ sở đặc thù
quốc gia, dân tộc và khu vực.
Khi nói đến phân quyền, ngày nay, ở mỗi nhà nước đều áp dụng cách thứ
phân quyền ngang hay phân quyền dọc tùy theo điều kiện của từng nước sao
cho mỗi hoạt động quyền lực được thực hiện một cách có hiệu quả nhất.
Phân quyền ngang là cách thức phân quyền cổ điển, theo đó quyền lực
nhà nước được phân chia thành các nhóm khác nhau: Nghị viện nắm quyền
lập pháp, Tổng thống nắm quyền hành pháp, Tòa án nắm quyền tư pháp.
Quyền lực giữa các cơ quan này là quyền lực cân bằng, hoạt động của các cơ
13
quan có sự chun mơn hóa và ln kiềm chế đối trọng giám sát lẫn nhau. Có
3 mức độ biểu hiện của cách thức phân quyền ngang trong bộ máy nhà nước
hiện nay:
Một là, phân quyền cứng rắn được áp dụng trong chính thể cộng hịa
Tổng thống với ngun tắc “quyền lực ngăn cản quyền lực”. Quyền hành
pháp thuộc về nguyên thủ quốc gia, hành pháp không phải chịu trách nhiệm
trước luật pháp và sự phân quyền được ghi nhận trong Hiến pháp. Đại diện
điển hình cho mức độ áp dụng này là Mỹ.
Hai là, phân quyền mềm dẻo được áp dụng trong chính thể đại nghị.
Điều đó thể hiện ở chỗ hành pháp khơng hồn tồn độc lập mà có mối liên hệ
thường xuyên với lập pháp do chịu trách nhiệm trước lập pháp và sự chung
nhân viên giữa hai cơ quan này. Nguyên thủ quốc gia có quyền hành pháp
mang tính tượng trưng vì bộ máy hành pháp trực thuộc Thủ tướng và Thủ
tướng mới phải chịu trách nhiệm trước lập pháp. Tư pháp độc lập với hành
pháp trong hoạt động song khơng hồn tồn độc lập trong tổ chức, hoạt động
với lập pháp. Sự phân quyền này thể hiện rõ tiêu biểu ở hai nước là Anh và
Đức.
Ba là, phân quyền trong chính thể cộng hịa hỗn hợp. Trong tổ chức bộ
máy nhà nước kiểu này, tư tưởng phân quyền được áp dụng ở mức độ trung
gian giữa cứng rắn và mềm dẻo với đặc trưng cơ bản là sự độc lập của hành
pháp với lập pháp cao hơn trong chính thể cộng hịa đại nghị song lại thấp
hơn trong chính thể cộng hịa tổng thống. Chính phủ phải chịu trách nhiệm
trước Quốc hội và Quốc hội có thể bị giải tán trước thời hạn. Những đặc trưng
trên được thể hiện rõ trong nhà nước Pháp và Nga.
Ở nhiều Nhà nước hiện nay tư tưởng phân chia quyền lực có một số thay
đổi. Theo các nhà lập hiến ở một số nước Mỹ Latinh thì quyền lục nhà nước
có tứ quyền, thêm quyền bầu cử. Trong dự thảo Hiến pháp Nicaragoa 1986
14
đưa ra còn nhắc tới ngũ quyền hay Hiến pháp 1976 của Angieri quy định tới
lục quyền,…
Phân quyền dọc là cách thức phân chia quyền lực giữa Trung ương và
địa phương. Theo cách phân chia này, bộ máy nhà nước trong hệ thống các cơ
quan quyền lực ở các cấp địa phương song song với bộ máy nhà nước Trung
ương. Trong từng lĩnh vực cụ thể lại có sự phân cơng nhiệm vụ trách nhiệm
quyền hạn cụ thể giữa chính quyền Trung ương và chính quyền địa phương.
Chính quyền Trung ương chủ yếu giải quyết các vấn đè cơng, vì lợi ích của cả
cộng đồng xã hội, cịn chính quyền địa phương sẽ phụ trách các vấn đề kinh
tế, giáo dục, văn hóa ở địa phương.
Phân quyền dọc được thực hiện theo hai phương pháp là phân quyền
theo lãnh thổ và phân quyền theo chuyên môn. Tùy theo mỗi tiêu chí và hồn
cảnh cụ thể của mỗi nhà nước mà có cách phân chia cho phù hợp.
1.2 Điều kiện, tiền đề cho sự hình thành tƣ tƣởng phân quyền của các
triết gia phƣơng Tây thời Cận đại
1.2.1 Điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội phương Tây thời Cận đại
Điều kiện kinh tế
Châu Âu , vào thế kỷ XIV – XVI, trên các mặt kinh tế, xã hội, văn hóa
đã có những diễn biến thật sự đáng kể, chuẩn bị cho những thay đổi sâu sắc
của lịch sử. Bắt đầu từ thế kỷ XV ở Tây Âu, chế độ phong kiến với nền sản
xuất nhỏ và các đạo luật hà khắc trung cổ bước vào thời kỳ tan rã. Sự xuất
hiện một loạt các công trường thủ công, các thành thị và trung tâm thương
mại lớn ở khắp các nước đã làm biến đổi xã hội một cách ghê gớm. Nhiều
cơng trường thủ cơng, hình thức sản xuất mang tính chất tư bản chủ nghĩa đầu
tiên ra đời, ban đầu ở Italia sau đó lan sang Anh, Pháp, và các nước khác thay
thế cho nền kinh tế tự nhiên kém phát triển. Công cụ sản xuất nông nghiệp
được cải tiến, đất đai canh tác được mở rộng. Kết quả của những điều này là
15
sự phát triển của phân công lao động, sức sản xuất tăng lên, ngành hàng hải
tiếp tục bành trướng và kinh tế hàng hóa có những bước phát triển dài, phá vỡ
khuôn khổ tự cung tự cấp. Đây là thời kỳ mà châu Âu thực hiện cuộc cách
mạng to lớn, thay đổi về chất trong phương thức sản xuất. Nền sản xuất nhỏ
manh mún, lạc hậu, năng suất thấp dưới chế độ phong kiến được thay thế
bằng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mang tính cơng nghiệp, hiện đại,
năng suất lao động cao. Sự ra đời của phương thức sản xuất mới được thúc
đẩy mạnh mẽ bởi nhu cầu của tầng lớp cấp tiến trong xã hội phong kiến - tầng
lớp tư sản. Những lái buôn, chủ tàu, chủ xưởng, thợ thủ công… từ lâu đã tạo
được một tiềm lực kinh tế khá vững trong lòng chế độ phong kiến. Khi tiềm
lực kinh tế đã mạnh, họ muốn có các chính sách kinh tế, pháp luật, bộ máy
nhà nước cũng như các chế tài - tức là một kiến trúc thượng tầng đồng bộ đảm bảo cho sự phát triển ngày càng cao của họ. Mặt khác, chúng ta biết rằng,
châu Âu những năm thế kỷ XV, XVI diễn ra hàng loạt các sự kiện lớn: những
phát minh ra máy dệt, máy hơi nước,…; sự thành công của cách mạng tư sản
Anh, Hà Lan,… đã thổi bùng lên những khát khao giải phóng con người, cụ
thể là thốt khỏi sự kìm kẹp của nhà thờ với những điều luật khắt khe, vô
nghĩa. Yêu cầu đặt ra là làm sao nhà nước và chúa trời, tức là vua và giáo hội
phải để cho nhân dân được tự do sản xuất, giảm thiểu các loại thuế. Cao hơn,
tầng lớp tư sản cịn địi có nhiều quyền lực hơn, dù đã có một vai trị nhất định
trong quốc hội. Cũng cần nói thêm, để đáp ứng cuộc sống vương giả của giai
cấp quý tộc và tăng lữ nhà thờ, tư sản châu Âu có những đóng góp khơng nhỏ,
nếu khơng nói là phần lớn, thậm chí mang tính quyết định đối với ngân sách
nhà nước. Sự xa hoa của triều đình Anh, Pháp chỉ được duy trì khi có những
khoản thuế khổng lồ thu từ tư sản và nông dân.
Các cuộc phát kiến địa lý, cùng với sự phát triển của sản xuất và thương
nghiệp đã tạo ra một không gian thương mại mới cho các nước Châu Âu, trên
16
phạm vi tồn thế giới, càng kích thích sự thơng thương cơng nghiệp, tăng
cường sự giao lưu văn hóa, phổ biến tơn giáo, và cũng dẫn đến việc hình
thành chủ nghĩa thực dân. Đây được coi là những tiền đề trực tiếp cho một
thời kỳ mới, những mầm mống tư bản chủ nghĩa đầu tiên đã xuất hiện và phát
triển trong lòng xã hội phong kiến, đồng thời cùng với nó là sự nảy sinh hai
giai cấp mới: tư sản và vơ sản.
Bên cạnh đó các lĩnh vực về khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật
cũng đạt được những thành tựu mới, đặc biệt trong các ngành thiên văn, vật
lý, hóa học, y học,… những tiền đề khoa học tự nhiên vững chắc cho các nhà
duy vật luận giải về thế giới. Bên cạnh đó là sự ra đời của một loạt các phát
minh kỹ thuật mới, có tính ứng dụng thực tiễn cao như máy in, la bàn, thuật
luyện kim, thuốc súng, kính viễn vọng… Tất cả đã góp phần quan trọng vào
việc cải tiến sản xuất và phục vụ cho sự phát triển của xã hội.
Sự phát triển về kinh tế, kéo theo đó là những vấn đề về chính trị, xã hội.
Yếu tố kinh tế phát triển khiến giao thương được mở rộng, những tư tưởng
tiến bộ có dịp giao thoa, tiếp thu, phát triển để hình thành nên những quan
điểm về cách thức tổ chức quyền lực nhà nước một cách hữu hiệu và dân chủ
trong tình hình mới.
Bối cảnh chính trị - xã hội.
Chế độ phong kiến với nền sản xuất nhỏ và các đạo luật hà khắc của nó
đã bước vào giai đoạn lụi tàn. Phong trào chống phong kiến của nông dân, thợ
thủ công trào dâng khắp Châu Âu. Xã hội Tây Âu có nhiều biến đổi, các giai
cấp mới được hình thành. Xét về bản chất kinh tế, thời kỳ phục hưng là giai
đoạn quá độ của Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Đây là thời kỳ tích
luỹ tư bản đầu tiên được mở rộng. Người nơng dân bị đuổi ra khỏi ruộng đất
của họ, bạo lực của kẻ cường quyền đã tách người lao động ra khỏi tư liệu sản
xuất. Các công trường thủ công dần dần át cách làm ăn kiểu phường hội
17
phong kiến. Các chủ thủ cơng nghiệp ngày càng có vị trí và vai trị quan trọng
trong nền kinh tế, họ trở thành giai tầng mới nắm giữ sức mạnh kinh tế - giai
cấp tư sản; trong khi người nông dân do khơng cịn ruộng đất phải ra thành
phố kiếm kế sinh nhai bằng cách làm thuê cho các công trường, xưởng thợ.
Họ là tiền thân của giai cấp vô sản sau này.
Khi giai cấp tư sản đạt đến sự lớn mạnh về kinh tế nhưng lại chưa có địa
vị xã hội tương ứng, bên cạnh đó, những chính sách của chế độ phong kiến
ln tìm cách kìm hãm sự phát triển của giai cấp tư sản do đó tồn bộ giai cấp
tư sản đã kết đồng minh với nhau. Người ta khơng chỉ địi xố bỏ đặc quyền,
đặc lợi của giai cấp phong kiến, những chướng ngại trên con đường phát triển
theo xu hướng TBCN mà còn chĩa mũi nhọn vào giáo hội La Mã, thành luỹ
tinh thần của chế độ phong kiến.
Cuộc khởi nghĩa nông dân Đức năm 1525 đánh đấu sự bắt đầu của hàng
loạt cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản chống lại chế độ phong kiến, sau đó là
một loạt các cuộc cách mạng tư sản khác đã nổ ra rầm rộ ở Tây Âu như cách
mạng tư sản Nêđéclan năm 1566 ở Hà Lan, cách mạng tư sản Anh năm 1642,
cách mạng tư sản Pháp năm 1789… Các “dân tộc tư sản” được hình thành ở
Tây Âu và ngày càng có tiềm lực mạnh mẽ về mọi phương diện. Giai cấp tư
sản chính thức khẳng định sự thống trị của nó. Sang thời kỳ cận đại (thế kỷ
XVII – XVIII) ở các nước Tây Âu là thời kỳ giai cấp tư sản đã dành được
chính quyền, Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được xác lập và trở
thành phương thức sản xuất thống trị.
Cùng với những nền tảng thực tiễn ấy, những tiền đề về tư tưởng văn
hoá, khoa học kỹ thuật cũng phát triển vô cùng mạnh mẽ. Sự phát triển của
những thành tựu ấy chủ yếu bắt nguồn từ nhu cầu nhận thức để có căn cứ
phản kháng lại sự chuyên chế của giáo hội. Mặt khác, những phát kiến địa lý,
những phát minh về kỹ thuật, năng lượng đã làm sáng lên tinh thần đổi mới
18
trong lòng xã hội châu Âu. Một phần rất quan trọng của những cơng trình xã
hội ấy có nền tảng từ việc trở lại và làm hưng khởi những giá trị vốn có từ
thời Hy Lạp và La Mã cổ đại.
Văn hóa, lý luận cũng diễn ra q trình chuẩn bị tư tưởng cho những
chuyển biến xã hội. Mở đầu cho tiến trình đó là Phong trào Phục hưng, mà
nơi xuất phát và cũng là trung tâm chính là ở Italy. Phục hưng đã trở thành
trào lưu văn hóa tư tưởng trong suốt thế kỷ XIV – XV, và đạt cực thịnh ở thế
kỷ XVI. Những giá trị văn hóa, tinh thần, nhân văn cổ đại, kể cả đạo Cơ đốc
giáo sơ kỳ, sau cả mười thế kỷ bị lãng quên nay cũng được phục hồi. Việc
“phá hoại” ý thức hệ phong kiến – tôn giáo và việc đề cao tự do con người,
khôi phục và phát triển những giá trị nhân văn, có thể xem là hai thành tựu
lớn nhất của văn hóa Phục hưng. Phong trào Cải cách Tơn giáo cũng góp
phần vào việc tạo dựng một bộ mặt chính trị, văn hóa mới cho Châu Âu, bắt
đầu từ nửa sau thế kỷ XVI, góp phần làm tăng thêm tác động làm cho liên
minh nhà nước – nhà thờ ngày một lỏng lẻo hơn.
Trong bối cảnh lịch sử mới, Hà Lan là quốc gia phát triển nền kinh tế tư
bản chủ nghĩa sớm nhất. Ở Anh điều này diễn ra có phần muộn hơn nhưng
vững chắc và mạnh mẽ hơn. Từ thế kỷ XIII, Nghị viện Anh đã được thành lập
theo cơ cấu hai viện, Viện quý tộc và Viện thứ dân, do vua đứng đầu. Với
những thay đổi trong kinh tế, các quý tộc cũ trong viện thứ dân cũng được
thay bằng một số quý tộc mới. Điều này đã đem cuộc đấu tranh quyền lực xã
hội vào trong chính định chế của nhà nước phong kiến. Sau hai cuộc nội chiến
(1642 – 1644 và 1648) và những tranh chấp quyền lực tiếp theo đó, các đại
biểu của giai cấp tư sản và quý tộc mới đã thực hiện một cuộc chính biến,
thiết lập chế đọ quân chủ lập hiến. Theo sau cách mạng chính trị, bước vào
thế kỷ XVIII, tại Anh diễn ra một cuộc cách mạng công nghiệp, mà kết quả là
kinh tế phát triển vượt bậc, đưa nước Anh lên hàng dẫn đầu thế giới.
19
Chính một hình mẫu nhà nước phi chun quyền và những thành tựu
kinh tế, xã hội mà nước Anh đạt được sau đó là kiểu mẫu sáng chói với các
nhà khai sáng Pháp sau này để họ kế thừa và xây dựng nên tư tưởng phân
quyền trong quan điểm của mình.
1.2.2 Tiền đề lý luận cho sự hình thành tư tưởng phân quyền
Thời cổ đại, Hy Lạp và La Mã là nơi phát triển có tính điển hình về
chính trị, kinh tế, xã hội thời cổ đại ở phương Tây. Tại đây đã hình thành nên
tư duy về nhà nước pháp quyền phong phú. Những tư tưởng ấy vừa phản ánh
hiện thực chính trị xã hội biến đổi khơng ngừng, vừa thúc đẩy hiện thực phát
triển.
Nghiên cứu về lịch sử tư tưởng, chúng ta thấy ngày từ thời Hy Lạp cổ
đại, người ta đã quan tâm đến vai trò của pháp luật trong việc thiết lập một xã
hội có trật tự, kỷ cương. Có thể khẳng định rằng, chính những tư tưởng đó đã
đặt cơ sở nền tảng cho các quan niệm triết học pháp quyền sau này. Ăngghen
khẳng định: “Khơng có cái cơ sở của nền văn minh Hy Lạp và đế chế La Mã
thì khơng có châu Âu hiện đại” [36, tr. 254].
Các nhà tư tương thời cổ đại đã dày cơng sáng tạo những hình mẫu quản
lý nhà nước mà thực chất đó là mối liên hệ giữa hai yếu tố của quản trị đó là
pháp luật và quyền lực. Theo đó mơ hình tổng qt nhất là mơ hình về một
cách thức tổ chức đời sống chính trị xã hội, sinh hoạt của các quốc gia trên cơ
sở các yêu cầu về tính hợp lý và tính cơng bằng của pháp luật, khả năng tự
hạn chế giới hạn quyền lực trên cơ sở pháp luật. Mỗi luồng tư tưởng đã đóng
góp một hạt nhân của mình để dần dần hình thành nên cơng thức chung đó.
Chỉ đến giai đoạn đấu tranh quyết liệt của giai cấp tư sản nhằm đả phá chế độ
phong kiến tùy tiện và chuyên chế thì tư tưởng về nhà nước pháp quyền mới
được xác lập như những học thuyết hoàn chỉnh.
20
Tư tưởng về nhà nước, pháp luật và các hình thức tổ chức chính trị thực
tiễn ở phương Tây cổ đại gắn liền với q trình tiến hóa của xã hội chiếm hữu
nô lệ và nền dân chủ Hy Lạp, La Mã cổ đại qua các nền cộng hòa Athens và
La Mã.
Con người ln có khát vọng về sự cơng minh, bình đẳng đã mơ ước về
một nhà nước cơng bằng và Solon (638 – 559 TCN) đã cho rằng chỉ khi có
pháp luật mới thực hiện được khát vọng đó. Ơng đưa ra lời tun bố trong
chương trình cải cách của mình là: Ta giải phóng tất cả mọi người bằng quyền
lực của pháp luật, bằng sự kết hợp giữa sức mạnh với pháp luật.
Socrates (469-399 TCN), là một trong những nhà tư tưởng nổi tiếng thời
cổ đại, người mà sau này Hegel coi là “bước ngoặt lịch sử vĩ đại” trong triết
học cổ đại Hy Lạp và La Mã. Dù bản thân ông không hề trực tiếp tham gia
các hoạt động nhà nước nhưng Socrates rất quan tâm tới cơng việc của nhà
nước và cố gắng hồn thiện chúng. Theo ơng, khơng thể có luật pháp ở bên
ngồi nhà nước, và việc tổ chức đời sống nhà nước cũng không thể thiếu luật
pháp. Luật pháp là bản thân nền tảng của nhà nước. Socrates phân biệt luật
pháp tự nhiên và luật pháp thực tại nhưng ông không đem đối lập chúng với
nhau, mà theo ơng giữa chúng cịn có sự đồng nhất với nhau. Sự đồng nhất
này là để nói tới tính hợp lý của chế độ chính trị - pháp luật hiện tồn, mà sau
này ta gặp lại trong một câu nói nổi tiếng của Hegel: “Cái gì hợp lý thì hiện
thực; cái gì hiện thực thì hợp lý”. Tuy nhiên, đây chỉ là ước vọng của ông hàm
ý chỉ một trạng thái lý tưởng, chứ không phải là trạng thái hiện có.
Có thể nói rằng tư tưởng yêu cầu công dân phục tùng pháp luật một cách
tuyệt đối và phải trung thành với nhà nước là xuất phát điểm trong tồn bộ
quan điểm chính trị - xã hội của Socrates. Bởi khi nhất trí trở thành thành viên
của nhà nước, thì theo ơng, cơng dân mới thực sự tham gia khế ước với nhà
nước và có nghĩa vụ phải tôn trọng các trật tự và quy định của nó. Như vậy:
21