Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

tl tác phẩm kinh điển NÂNG CAO TRÌNH độ lý LUẬN CHÍNH TRỊ của cán bộ, ĐẢNG VIÊN THEO tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH TRONG tác PHẨM “sửa đổi lối làm VIỆC”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.05 KB, 22 trang )

NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG
VIÊN THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG TÁC PHẨM “SỬA
ĐỔI LỐI LÀM VIỆC”
Tác phẩm Sửa đổi lối làm việc ra đời cách đây 65 năm, nhưng nó vẫn còn
giữ nguyên giá trị.. Những nội dung của tác phẩm vẫn là những lời chỉ huấn cơ
bản và mang tính thời sự đối với Đảng, Nhà nước ta; đặc biệt, những tư tưởng
về: phẩm chất đạo đức của cán bộ, đảng viên; tính đảng, năng lực, tác phong
công tác của cán bô, đảng viên và công tác cán bộ; vấn đề xây dựng Đảng trong
thời kỳ mới... được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập sâu sắc. Tác phẩm này luôn là
kim chỉ nam cho mỗi cán bộ, đảng viên phấn đấu, học tập, loi theo trong suốt
hơn sáu thập kỷ qua. Đặc biệt trong trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới, chúng
ta càng thấy ý nghĩa to lớn về lý luận và giá trị thực tiễn của những tư tưởng của
Người. Với ý nghĩa to lớn trên, tác giả lựa chọn : “Nâng cao trình lý luận cho
cán bộ, Đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong tác phẩm sửa đổi lối làm
việc.” làm nội dung viết thu hoạch.
Sự ra đời tác phẩm này vào thời điểm chính quyền mới được thành lập,
còn non trẻ đang bề bộn “trăm công nghìn việc”, vừa phải đối phó với các loại
thù trong, giặc ngoài, tiến hành kháng chiến chống xâm lược; vừa phải quản lý,
tổ chức xây dựng xã hội mới, càng cho thấy mối quan tâm to lớn của Người về
việc xây dựng “lối làm việc” mới khoa học, lối làm việc của người cách mạng
khi đã có chính quyền nhà nước. Những vấn đề về phẩm chất đạo đức của cán
bộ, đảng viên; về tính đảng, năng lực, tác phong công tác của đảng viên; về cán
bộ và công tác cán bộ; vấn đề xây dựng Đảng trong thời kỳ mới... được Người
đề cập sâu sắc trong tác phẩm này, là kim chỉ nam, là chỉ dẫn cụ thể cho sự phấn
đấu, học tập, rèn luyện của mỗi cán bộ, đảng viên trong suốt hơn sáu thập kỷ
qua. Trong nhiều vấn đề, nhiều khía cạnh xoay quanh chủ đề xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, tác phẩm Sửa đổi lối làm việc đã tập trung làm nổi bật vấn đề mà Hồ
Chí Minh mong mỏi và dành sự quan tâm của mình đối với cán bộ, đảng viên là
vấn đề lý luận, học tập lý luận chính trị; Bởi vì, theo Người: “không có lý luận



2
thì lúng túng như nhắm mắt mà đi” 1. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ sự cần thiết của
việc học tập lý luận đối với cán bộ, đảng viên khi đã có chính quyền nhà nước.
Người cho rằng: “Đảng ta đã hy sinh tranh đấu, đoàn kết, lãnh đạo nhân dân
giành lại thống nhất và độc lập. Công việc đã có kết quả vẻ vang” 2 nhưng bước
vào thời kỳ mới, cán bộ, đảng viên còn mắc “nhiều khuyết điểm”. Theo Người,
nguyên nhân của các khuyết điểm ấy có nhiều, trong đó có nguyên nhân quan
trọng là do sự yếu kém, hạn chế về lý luận của cán bộ, đảng viên.
Hồ Chí Minh - anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hoá kiệt xuất, đồng
thời cũng là nhà giáo dục lớn. Người đã đặt nền móng cho nền giáo dục Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, nền giáo dục toàn dân, toàn diện, khoa học và hiện đại.
Bên cạnh đó chúng ta còn biết đến Người là nhà giáo dục chính trị tài tình.
Người để lại cho chúng ta tư tuởng lớn về giáo dục lý luận chính trị; trong phạm
vi bài viết này, tác giả chỉ tập trung đề cập đến việc vận dụng tư tưởng của
Người vào giáo dục lý luận cho cán bộ, đảng viên.
Giáo dục lý luận chính trị là giải thích, tuyên truyền những vấn đề thuộc
lý luận chính trị, bằng việc đi sâu giải thích các sự vật hiện tượng diễn ra trong
tự nhiên, xã hội, trên cơ sở đó xây dựng cơ sở khoa học cho nhận thức và niềm
tin của con người để đi đến hành động đúng đắn. Giáo dục lý luận chính trị đem
đến cho mọi người những hiểu biết về quy luật phát triển của xã hội, về thế giới
quan, nhân sinh quan, đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước,
để từ đó vạch ra cho mình tư tưởng, lối sống, hoài bão, ý chí, nguyện vọng,
những nguyên tắc chuẩn mực đạo đức để gạt bỏ cái cũ, tiếp thu có chọn lọc cái
mới... Bên cạnh đó giáo dục lý luận chính trị là nghiên cứu tổng kết thực tiễn,
xây dựng thành hệ thống quan điểm lý luận chính trị, hình thành và phát triển tư
tưởng xã hội, phát triển những mâu thuẫn xã hội và đưa ra những dự báo để phát
triển cho tương lai.
Nhiệm vụ của giáo dục lý luận chính trị là thông qua các công cụ và
phương tiện để truyền bá những kiến thức phong phú của đời sống xã hội, các
quan điểm, những đánh giá về các hiện tượng và xu thế phát triển của của xã

1
2

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb. CTQG, H. 2000, tr. 234.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb. CTQG, H. 2000, tr. 232.


3
hội. Với tầm quan trọng như vậy, Hồ Chí Minh cho rằng: công tác giáo dục lý
luận chính trị của Đảng tiên phong phải đạt trình độ tiên phong: “Đảng muốn
vững phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo
chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn,
tàu không có bàn chỉ nam”3. Bên cạnh đó giáo dục lý luận chính trị cần phải
định hướng cho nhận thức tư tưởng, mục tiêu và con đường đi lên của các dân
tộc trên thế giới. Trước đó, trong tác phẩm “Đường cách mệnh” Hồ Chí Minh
khẳng định: “Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh vận động...
Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, đảng mới làm nổi trách nhiệm cách
mệnh tiên phong”4.
Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng; người
cách mạng không thể làm tròn nhiệm vụ của người chiến sĩ tiên phong, người
lãnh đạo, dẫn dắt phong trào nếu như không được vũ trang bởi lý luận tiên
phong. Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển luận điểm mácxít- lêninít ấy
vào thực tiễn cách mạng Việt Nam ở giai đoạn cán bộ, đảng viên đã là người có
chức có quyền, nhân dân lao động đã là người làm chủ xã hội. Cán bộ, đảng
viên không biết lý luận, kém lý luận thì “không biết xem cho rõ, cân nhắc cho
đúng, xử trí cho khéo” mọi công việc, do đó “kết quả thường thất bại”.
Trong quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, sau khi đã được nghiên cứu,
được chứng kiến và qua phân tích, tổng kết các học thuyết chính trị, Hồ Chí
Minh đi đến kết luận phải đi theo chủ nghĩa Mác. Bởi đặc trưng của chủ nghĩa
Mác là tính cách mạng, tính khoa học. Nó thể hiện lập trường tư tuởng của giai

cấp công nhân, bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nó
đem lại sự hiểu biết về quá trình diễn biến lịch sử, về sự phát triển của thời đại,
giúp con nguời nhận thức được bản chất các sự vật và hiện tượng trong thế giới.
Nó khác về chất với các học thuyết khác như chủ nghĩa cải lương, cơ hội. Chính
vì vậy, Người đã khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều,

3
4

Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 2, Nxb. CTQG, H. 2000, tr. 268.
Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 2, Nxb. CTQG, HN, 2000, tr. 259.


4
nhưng học thuyết chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ
nghĩa Lênin”5.
Công tác giáo dục lý luận chính trị là hoạt động có chủ đích của Đảng
Cộng sản nhằm xác lập thế giới quan khoa học trên cơ sở hệ tư tưởng, lập
trường của giai cấp công nhân, đó là chủ nghĩa Mác - Lênin. Theo Hồ Chí Minh
giáo dục lý luận chính trị là giáo dục chính trị, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin,
nâng cao đạo đức cách mạng cho các bộ đảng viên và quần chúng nhân dân,
nhằm thống nhất về tư tưởng, ý chí, phẩm chất cách mạng và năng lực hoạt động
thực tiễn của họ, hướng dẫn họ vận dụng những hiểu biết ấy vào cuộc sống.
Chính vì vậy nội dung của công tác giáo dục lý luận chính trị là rất rộng, bao
gồm việc giáo dục những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối
quan điểm của Đảng về các lĩnh vực của đời sống xã hội, lịch sử Đảng, xây
dựng Đảng, những kinh nghiệm thành công cũng như thất bại của các nước.
Công tác giáo dục lý luận chính trị có nhiều hình thức như các lớp học tập lý
luận, những đợt sinh hoạt chính trị, Nghị quyết của Đảng, những báo cáo
chuyên đề lý luận chính trị,... đặc trưng của công tác giáo dục lý luận chính

trị là phương pháp giảng dạy và học tập theo chương trình nhất định nhằm
làm cho nguời học nắm được một cách cơ bản lý luận Mác - Lênin, đường lối
quan điểm, chủ trương, chính sách, Nghị quyết của Đảng và của Nhà nước.
Chỉ sau hai năm tiến hành tổ chức, xây dựng xã hội mới, những cán bộ,
đảng viên đã từng đi tiên phong, lãnh đạo nhân dân làm nên Cách mạng Tháng
Tám vĩ đại, đã sớm bộc lộ những hạn chế về mặt lý luận trước yêu cầu, nhiệm
vụ của cách mạng trong giai đoạn mới. Cách mạng càng phát triển, yêu cầu,
nhiệm vụ ngày càng cao, thì sự kém lý luận ở cán bộ, đảng viên càng trở nên
nguy hại. Sự “thất bại” do thiếu lý luận mà Hồ Chí Minh nói đến, không cân
đong, đo đếm được, nhưng nguy hại khó lường, có thể dẫn đến mất “phương
hướng”, lạc hướng. Cán bộ ở cương vị càng cao mà thiếu lý luận thì mức độ
nguy hại càng lớn. Từ đó, Hồ Chí Minh nhấn mạnh sự cần thiết cán bộ, đảng
5

Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 2, Nxb. CTQG, H. 2000, tr. 268.


5
viên phải học tập lý luận, “nghiên cứu thêm lý luận”, và Người chỉ rõ đây là yêu
cầu để họ trở thành người cán bộ.
Theo Người, lý luận không phải chỉ có biết lý thuyết mà phải biết vận
dụng vào thực tiễn công tác, không chỉ ở nhận thức, mà còn biểu hiện ở tác
phong công tác, “lối làm việc” khoa học. Kém lý luận, khinh lý luận, lý luận
suông là những “cái bệnh” của cán bộ, đảng viên, cần phải sửa chữa.
Kém lý luận là bệnh thuộc về trình độ nhận thức, thiếu sự học tập lý luận.
Cán bộ, đảng viên kém lý luận thì trình độ nhận thức không đáp ứng được yêu
cầu mới của cách mạng, do đó, bị lạc hậu so với sự phát triển. Có thể ở giai đoạn
trước, họ không phải là người kém lý luận, nhưng họ thiếu khả năng thích ứng
với tình hình, lại ngại học tập nên họ bị “tụt hậu” về lý luận. Có thể ngay khi
tham gia cách mạng, khi đã là cán bộ, đảng viên, họ vẫn là người kém lý luận so

với sự phát triển chung của phong trào. Những cán bộ, đảng viên này làm việc
chủ yếu bằng nhiệt tình cách mạng, nếu được hướng dẫn, tổ chức chu đáo có thể
họ hoàn thành tốt nhiệm vụ này hay nhiệm vụ khác mà cách mạng giao cho. Ở
họ thiếu tính khoa học trong công tác; khi gặp khó khăn, trở ngại thì theo Hồ
Chí Minh, họ “lúng túng” không biết nên làm thế nào cho đúng. Thậm chí, do
kém lý luận, có thể họ không phân biệt được một cách rõ ràng đâu là việc cần
làm, đâu là việc nên tránh, đâu là đúng, đâu là sai trong một số trường hợp cụ
thể. Hồ Chí Minh cho rằng, những cán bộ, đảng viên kém lý luận vừa không biết
lý luận, vừa không biết áp dụng lý luận vào thực tiễn; hành động theo cảm tính,
“ý mình nghĩ thế nào thì làm thế ấy” không dựa trên cơ sở khách quan. Ý nghĩ
ấy có thể đúng, có thể chưa thật đúng, cũng có thể sai, nhưng bản thân họ cứ
tưởng là đúng. Lòng nhiệt tình cách mạng của họ được dẫn dắt bởi cái “tưởng là
đúng” ấy, theo Hồ Chí Minh, “kết quả thường thất bại”. Sự thất bại đó nằm
ngoài ý muốn của họ, mà do sự non kém về mặt lý luận; vì thế, Hồ Chí Minh chỉ
rõ căn bệnh này để cán bộ, đảng viên, cần phải sửa.


6
Khinh lý luận là căn bệnh thường diễn ra ở những cán bộ, đảng viên làm
được việc, có thực tiễn, nhiều kinh nghiệm. Hồ Chí Minh đã nêu lên một cách
rất xác đáng: “Có những cán bộ, những đảng viên cũ, làm được việc, có kinh
nghiệm. Cố nhiên những anh em đó rất quý báu cho Đảng. Nhưng họ lại mắc
phải cái bệnh khinh lý luận. Họ quên rằng: nếu họ đã có kinh nghiệm mà lại
biết thêm lý luận thì công việc tốt hơn nhiều. Họ quên rằng: kinh nghiệm của họ
tuy tốt, nhưng cũng chẳng qua là từng bộ phận mà thôi, chỉ thiên về một mặt mà
thôi”6. Người chỉ rõ, có kinh nghiệm mà không có lý luận, cũng như “một mắt
sáng, một mắt mờ”. Những cán bộ, đảng viên như thế mà không kịp thời học tập
nâng cao trình độ lý luận thì sẽ bị thực tiễn cách mạng vượt qua, cái “mắt mờ”
không thể dẫn họ tiến xa được. Tuy họ “rất quý báu cho Đảng”, nhưng họ vẫn
xem thường lý luận, không chịu học tập lý luận, thì sẽ đến lúc các chất “rất quý

báu” ấy ở họ lại trở thành vật cản chính trên con đường phát triển của bản thân
họ. Vì vậy, để cho hai mắt đều sáng, thì những cán bộ, đảng viên này “cần phải
nghiên cứu thêm lý luận”.
Lý luận suông là “lý luận... không áp dụng vào thực tế... dù xem được
hàng ngàn hàng vạn quyển lý luận, nếu không biết đem ra thực hành, thì khác
nào một cái hòm đựng sách”7. Theo Người, những cán bộ, đảng viên này “xem
nhiều sách để mà loè, để làm ra ta đây”. Như một “cái hòm đựng sách”, họ
tưởng mình là người hiểu biết nhiều, là trí thức, nên họ “thiếu khiêm tốn”, “kiêu
ngạo”. Đối với họ, có lý luận không phải để vận dụng vào thực tiễn, mà là như
vật trang sức, cốt để làm oai “loè thiên hạ”. Theo Hồ Chí Minh, kiểu có lý luận
ấy như “có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như không có tên” 8, thì
lý luận ấy “cũng vô ích”. Người nhấn mạnh, những cán bộ, đảng viên đó muốn
trở thành “người trí thức hoàn toàn, thì phải đem cái trí thức đó áp dụng vào
thực tế”, “phải gắng học, đồng thời học thì phải hành”.
6

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb. CTQG, H. 2000, tr. 234.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb. CTQG, H. 2000, tr. 234.
8
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb. CTQG, H. 2000, tr. 235.
7


7
Như vậy, theo Hồ Chí Minh cả ba căn bệnh trên đều cần phải sửa, nhưng
để sửa cho tốt trước hết cần có sự nhận thức đúng đắn về lý luận, và vai trò của
lý luận. Hồ Chí Minh đã đưa ra quan niệm của mình về lý luận hết sức khoa
học nhưng thật dễ hiểu: “Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh
nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng,
làm thành kết luận. Rồi đem nó chứng minh với thực tế. Đó là lý luận chân

chính”9. Học tập lý luận là học tập theo lý luận chân chính ấy. Sự “chân
chính” của lý luận vừa được thể hiện trong nội dung lý luận, vừa thể hiện
trong phương pháp nghiên cứu, vận dụng lý luận, được phản ánh sâu sắc
trong mục đích của lý luận là áp dụng vào thực tiễn cách mạng, thực tiễn
cuộc sống, phục vụ con người, phục vụ nhân dân lao động. Sửa chữa ba căn
bệnh trên, nâng cao trình độ lý luận cho cán bộ, đảng viên phải dựa trên
những tiêu chí ấy.
Theo Hồ Chí Minh, cách sửa chữa tốt nhất là phải học tập. Đương nhiên,
đối với mỗi loại bệnh thì cách thức học tập có sự khác nhau. Để sửa chữa cho
cán bộ, đảng viên kém lý luận, thì theo Người, biện pháp cơ bản là học tập, nâng
cao trình độ; học bằng con đường tổ chức, bằng con đường tự học; tự học trong
sách vở, tự học trong thực tiễn đấu tranh cách mạng, trong cuộc sống, học mọi
người, học hỏi nhân dân. Đối với những người mắc bệnh khinh lý luận thì phải
vừa học, vừa phải được cải tạo trong thực tiễn; vừa phải sửa đổi thái độ, vừa
phải nâng cao trình độ; vừa phải củng cố kinh nghiệm, vừa phải trau dồi tri
thức... Còn đối với những người mắc bệnh lý luận suông thì phải cải tạo thái độ
của họ, khắc phục bệnh chủ quan, “kiêu ngạo”, đồng thời bồi dưỡng cho họ
thêm lý luận chân chính, buộc họ “phải ra sức làm các việc thực tế”, làm cho lý
luận của họ trở nên “có ích”.
Tuy mỗi loại bệnh trên có cách sửa chữa khác nhau, nhưng Hồ Chí Minh
nhấn mạnh: Học tập, nâng cao trình độ lý luận, học đi đôi với hành, lý luận liên
hệ với thực tế; học để phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân; tự học tập, tự rèn
9

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H. 2000, tr. 233.


8
luyện, tu dưỡng là chính... là những vấn đề cơ bản, thuộc về nguyên tắc, quy
định việc học tập, nâng cao trình độ của cán bộ, đảng viên để sửa chữa các căn

bệnh về lý luận. Nhưng, học để làm gì? học cái gì? học như thế nào? Người chỉ
rõ:
Mục đích của học tập:
- Học để sửa chữa tư tưởng: hăng hái theo cách mạng điều đó rất hay.
Nhưng tư tưởng chưa thật đúng là tư tưởng cách mạng, vì thế phải học tập để
sửa chữa cho đúng. Tư tưởng đúng thì hành động cho khỏi sai lạc và mới làm
tròn được nhiệm vụ cách mạng.
- Học để tu dưỡng đạo đức cách mạng thì mới hy sinh tận tụy với cách
mạng, mới lãnh đạo được quần chúng đưa cách mạng đến thắng lợi hoàn toàn.
- Học để tin tưởng: tin tưởng vào đoàn thể, tin tưởng vào tương lai dân
tộc. Tin tưởng vào tương lai cách mạng. Có tin tưởng thì lúc ra thực hành mới
vững chắc, hăng hái, lúc gặp khó khăn mới kiên quyết hy sinh.
- Học để hành: Học với hành phải đi đôi với nhau. Học mà không hành
thì hành không trôi chảy"10.
Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc học tập nâng cao trình độ của cán bộ,
đảng viên. Người đã chỉ rõ mục đích của việc học tập và những biện pháp cơ
bản để đạt mục đích đó: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để
phụng sự đoàn thể, “giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”. Muốn đạt
mục đích, thì phải "cần, kiệm, liêm chính, chí công, vô tư” 11. Từ nhận thức
đúng đắn mục đích của việc học tập mà cán bộ, đảng viên phấn đấu không
ngừng trong học tập rèn luyện để hoàn thành nhiệm vụ được Đảng và nhân dân
giao cho.
Hồ Chí Minh xác định cách mạng cũng là một nghề, làm nghề gì cũng
phải học, vậy làm cách mạng thì cần phải học nhiều hơn. Nếu không giáo dục
cho đảng viên làm cách mạng mà yêu cầu họ làm cách mạng thì không thể hoàn
thành được nhiệm vụ. Vì vậy, xây dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội, mỗi
10
11

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb. CTQG, H. 2000, tr. 50.

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb. CTQG, H.2000, tr. 684.


9
cán bộ, đảng viên không chỉ bô lô, bô la mà phải ra sức học tập, học ở nhà ở
trường, học ở thực tiễn, học ở quần chúng nhân dân. Chính vì vậy, Người yêu
cầu: “Tất cả các đảng viên phải cố gắng học tập, coi việc học tập lý luận và
chính trị là một nhiệm vụ quan trọng của mình”12, đó chính là những định
hướng mà Người nêu ra cho mỗi cán bộ đảng viên.
Nội dung học tập
Hồ Chí Minh cho rằng học tập của cán bộ, đảng viên phải xuất phát từ
yêu cầu thực tế thiết thực, không phô trương, hình thức. Phải học cặn kẽ, thấu
đáo, cụ thể và sâu sắc đến tận bản chất vấn đề. Theo Bác, mỗi người phải biết
một nghề, làm việc gì học việc ấy và làm nghề gì phải thạo nghề ấy. Nếu là cán
bộ lãnh đạo, thì lãnh đạo ngành nào phải biết chuyên môn về ngành ấy. Mọi cán
bộ, đảng viên đều phải nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối,
chính sách của Đảng, văn hoá, kỹ thuật, lao động sản xuất… Những nội dung đó
là hết sức cơ bản và gắn bó chặt chẽ với nhau. Trong đó, Người nhấn mạnh học
tập chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm trang bị cho mỗi người thế giới quan, phương
pháp luận cách mạng và khoa học để nhận thức và hành động đúng đắn, kiên
quyết, sáng tạo và hiệu quả.
Theo Người, học tập chủ nghĩa Mác là học tập cái biện chứng, bởi cách
mạng là sáng tạo. Sự nghiệp cách mạng đòi hỏi mỗi người muốn hoàn thành
nhiệm vụ phải sáng tạo, phải có sáng kiến trong các lĩnh vực công tác. Giáo dục,
học tập lý luận không phải giáo điều từng câu, từng chữ, mà phải nắm vững lập
trường, quan điểm, phương pháp, tinh thần cách mạng, mà học để phân tích và
giải quyết các vấn đề cụ thể của cách mạng nước ta. Theo Hồ Chí Minh việc
giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ đảng viên và nhân dân là giúp họ nắm được
bản chất cách mạng và khoa học của học thuyết đó.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, nội dung học tập phải toàn diện, “ra sức học

tập nâng cao trình độ chính trị, văn hoá, khoa học, kỹ thuật và quân sự để cống
hiến ngày càng nhiều cho Tổ quốc, cho nhân dân” 13. Người cán bộ cách mạng
12
13

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb. CTQG, H.2000, t.r 95.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 11, Nxb. CTQG, H.2000, tr. 505.


10
phải được đào tạo rèn luyện về phẩm chất và năng lực để hoàn thiện nhân cách
trong tình hình mới. Người xác định nội dung học tập gắn với thực hiện nhiệm
vụ mà mỗi cán bộ, đảng viên đảm nhiệm. Đối với cán bộ quân đội, Người đặt ra
yêu cầu phải tích cực học tập nâng cao trình độ chính trị, quân sự, lòng trung
thành với Đảng với Tổ quốc, nhân dân… Theo Hồ Chí Minh, quân đội ta trước
hết phải là đội quân tuyên truyền vận động nhân dân làm cách mạng, do vậy,
mỗi quân nhân phải thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối, chính sách
của Đảng, vận động nhân dân để nhân dân tin theo Đảng, thực hiện sự nghiệp
cách mạng vẻ vang.
Học tập suốt đời, lấy tự học làm cốt
Theo Người, mỗi cán bộ, đảng viên có vị trí nhất định trong bộ máy nhà
nước, do đó phải không ngừng học tập để nâng cao trình độ hiểu biết mọi mặt,
có tư duy độc lập và sáng tạo, cải tiến phương pháp làm việc, nâng cao chất
lượng công tác. Theo Người, vấn đề học tập là “suốt đời” chứ không phải chỉ là
lớp học, khoá học hoặc mang tính “thời vụ”, rồi sau đó lại “đâu vào đấy”. Người
chống thói qua loa đại khái, lười học, lười suy nghĩ dẫn đến tình trạng khi giải
quyết công việc thì “được chăng hay chớ”, “gặp đâu làm đấy”, chất lượng công
việc thấp, không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Người chỉ rõ: “Cán bộ và đảng
viên ta, vì bận việc hành chính hoặc quân sự, mà xao nhãng việc học tập. Đó là
một khuyết điểm rất to. Khác nào người thày thuốc chỉ đi chữa người khác, mà

bệnh nặng trong mình thì quên chữa”14. Do đó, Người yêu cầu cán bộ, đảng viên
phải “ham học tập để nâng cao trình độ của mình” 15 và coi đây là một tiêu
chuẩn, một giá trị đạo đức của người cán bộ, đảng viên. Từ đó, Người vạch rõ
phương hướng, nhiệm vụ đối với cán bộ, đảng viên là không được sao nhãng
việc học tập, phải tu dưỡng không ngừng, đối với người cán bộ “chỉ có một thứ
ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ”16. Người đặt lên hàng đầu “lấy tự học
làm cốt”17, cán bộ, đảng viên phải biết “tự động học tập”, phải xác định tư tưởng
14

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb. CTQG, H.2000, tr. 231.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb. CTQG, H.2000, tr. 251.
16
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb. CTQG, H.2000, tr. 252.
17
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb. CTQG, H.2000, tr. 273.
15


11
cho đúng. Học tập phải trở thành nhu cầu, thói quen, hành vi hàng ngày của cán
bộ, đảng viên. Cán bộ nào lười học, lười suy nghĩ, không thường xuyên tiếp
nhận, cập nhật thông tin mới, những hiểu biết mới cũng là một biểu hiện suy
thoái về đạo đức.
Học tập mọi lúc, mọi nơi
Cán bộ, đảng viên phải tận dụng thời gian, dành công sức, tranh thủ học
tập, học ở trường, lớp, sách vở và học ở nhân dân. Bác nhấn mạnh: nhân dân ta
rất cần cù và sáng tạo, những giá trị văn hoá, tinh thần do nhân dân sáng tạo là
nguồn tri thức, là những kinh nghiệm rất phong phú; theo Người. “Dân chúng
biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ mà những
người tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi không ra” , đó là “những bài

học quý”, do đó, cán bộ, đảng viên phải chịu khó học hỏi ở nhân dân “Học ở
trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học nhân dân, không học nhân dân là
một thiếu sót rất lớn” 18. Và chính thông qua học tập, tiếp xúc với nhân dân mà
cán bộ, đảng viên có điều kiện gần gũi, nắm được tâm tư nguyện vọng của nhân
dân, từ đó tổng kết được tình hình, nguyện vọng của dân. Từ đó, tham mưu, đề
xuất tiếp tục bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách
đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, tạo niềm tin, đồng thuận của
dân và toàn xã hội tiến hành sự nghiệp cách mạng. Người kiên quyết chống thói
quan liêu, xa dân, không chịu học hỏi nhân dân, coi khinh dân và coi đây là
những quan niệm, hành vi đối lập với phẩm chất của người cán bộ cách mạng
cần phải được lên án, xử lý.
Trong cách học, là học ở mọi nơi, mọi lúc, học suốt đời coi trong việc tự
học, bởi Người đã chỉ rõ: “Cách mạng tiến lên mãi, Đảng ta tiến lên mãi”. Cho
nên cán bộ đảng viên phải thường xuyên trau dồi lý luận chính trị, vì cán bộ là
gốc của mọi công việc “công việc thành hay bại là do cán bộ tốt hay xấu”. Sự
phát triển của tư duy, nhận thức, học vấn, trình độ văn hoá của cán bộ, đảng viên
là quá trình khổ công rèn luyện, tích luỹ kiến thức, đó chính là con đường phát
triển của tư duy khoa học và tư duy lý luận chính trị. Người căn dặn: “Học tập
18

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb. CTQG, H.2000, tr. 50.


12
chủ nghĩa Mác - Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi công việc đối với mọi
người và đối với bản thân mình”.
Như vậy, trong quan điểm của Hồ Chí Minh thì chủ nghĩa Mác - Lênin
không chỉ là vũ khí lý luận để cải tạo thế giới, mà còn là vũ khí để cải tạo bản
thân mình. Lý luận Mác - Lênin là khoa học làm người, góp phần hình thành đạo
đức mới, nếp sống mới của người cách mạng. Người xem học tập chủ nghĩa

Mác- Lênin là đạo đức cách mạng. Người căn dặn chúng ta: “Nhân dân ta từ
lâu đã sống với ta có tình có nghĩa như thế. Từ khi có Đảng ta lãnh đạo và giáo
dục, tình nghĩa ấy càng cao đẹp hơn”19.
Hồ Chí Minh còn đề ra nhiệm vụ cho cán bộ, đảng viên là phải truyền bá
lý luận Mác - Lênin vào trong quần chúng nhân dân. Người phân tích, lý luận
chính trị làm cho dân giác ngộ, bày cho quần chúng nhân dân tổ chức, động
viên quần chúng hành động cách mạng. Có lý luận chính trị Mác - Lênin soi
đường thì quần chúng nhân dân hành động mới đúng đắn, mới phát triển tài
năng và lực lượng vô tận của họ. Đồng thời, Người cũng chỉ rõ là phải chống
thói xem nhẹ học tập lý luận chính trị, “vì không học tập lý luận thì chí khí
kém kiên quyết, không trông xa thấy rộng, trong lúc đấu tranh dễ lạc phương
hướng, kết quả là "mù chính trị", thậm chí hủ hoá xa rời cách mạng” 20.
Giáo dục lý luận chính trị nhằm quán triệt và vận dụng đúng đắn chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của đất nước, đồng thời
phải phản ánh hiện thực lịch sử xã hội trong từng thời kỳ. Người giải thích:
“Nắm vững đường lối cách mạng mới thấy rõ phương hướng tiến lên của
cách mạng, mới hiểu rõ mình phải làm gì và đi theo phương hướng nào để
thực hiện mục đích của Đảng trong giai đoạn cách mạng hiện nay” 21. Đồng
thời với việc quán triệt chủ nghĩa Mác - Lênin các chủ trương chính sách của
Đảng của Nhà nước, Người đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải học kinh nghiệm

19

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb. CTQG, HN. 2000, tr 554.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập7, Nxb. CTQG, HN. 2000, tr 234.
21
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb. CTQG, HN. 2000, tr. 94.
20



13
của nhân dân, phải tổng kết phong trào của quần chúng để phải triển thành lý
luận.
Trong quan điểm giáo dục lý luận chính trị, Người luôn yêu cầu phải tuân
thủ phương châm lý luận phải gắn liền với thực tiễn. Phương châm này đã trở
thành thói quen, nếp sống trong hoạt động cách mạng. ở đâu nói về vấn đề gì,
làm việc gì, lời nói và việc làm của Người cũng hoà làm một, gắn kết với nhau
chặt chẽ. Bởi, Người đã tiếp thu sâu sắc mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và
thực tiễn - một nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đối với Người
những vấn đề lý luận trừu tượng được diễn đạt rất giản dị, dễ hiểu. Chẳng hạn
khi nói về sở hữu tập thể, Người chỉ rõ: “Chủ nghĩa xã hội là nhà máy, trường
học là của chung”. Hay khi định nghĩa về chủ nghĩa xã hội “là mọi người được
ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do”22.
Gắn học tập và làm việc
Theo Người học tập nâng cao trình độ của cán bộ, đảng viên là phải thiết
thực, bổ ích, hiệu quả, sát với với công việc của mỗi người; nếu không đạt được
như vậy là “phí công, phí của, vô ích”. Bác nhấn mạnh “học để vận dụng chứ
không phải học lý luận vì lý luận”23. Tri thức, lý luận của cán bộ, đảng viên tích
lũy được trong học tập phải nhằm giải quyết nhiệm vụ thực tiễn, làm cho hoạt
động thực tiễn ngày càng đạt hiệu quả và chính thông qua hoạt động thực tiễn để
sáng tạo, khái quát, tổng kết kinh nghiệm, phát hiện, bổ sung hoàn thiện đường
lối cách mạng của Đảng. Hồ Chí Minh nhấn mạnh, trong học tập người học phải
sáng tạo, biết kế thừa tinh hoa tri thức của dân tộc và nhân loại. Phương pháp
học tập là kết hợp chặt chẽ giữa học với hành, lý luận gắn liền với thực tế, tích
luỹ tri thức với rèn luyện đạo đức cách mạng. Đối với nghiên cứu chủ nghĩa
Mác - Lênin là học tập “phương pháp biện chứng” chứ không rập khuôn, máy
móc. Hồ Chí Minh đòi hỏi cán bộ tránh lối học thuộc lòng từng câu chữ, hiểu
một cách máy móc lý luận Mác – Lênin, bởi vì lý luận Mác – Lênin là nền tảng
tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động, nó đầy tính sáng tạo. Hồ Chí Minh cho
22

23

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8, Nxb. CTQG, HN. 2000, tr. 396.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8, Nxb. CTQG, H.2000, tr. 497.


14
rằng, học tập chủ nghĩa Mác – Lênin là học tập lập trường, quan điểm và
phương pháp của chủ nghĩa Mác – Lênin để áp dụng vào trong thực tế. Vấn đề
là ở chỗ, phải tìm hiểu bản chất của các quan điểm Mác – Lênin và vận dụng
vào hoàn cảnh từng lúc, từng nơi. Hồ Chí Minh phê bình một số người “không
hiểu rằng: chủ nghĩa Mác – Lênin là kim chỉ nam cho hành động, chứ không
phải là kinh thánh. Vì vậy, họ chỉ học thuộc ít câu của Mác – Lênin, để loè
người ta”24. Hồ Chí Minh còn có quan niệm độc đáo rằng: “Các chú dạy cho
cán bộ, đảng viên và nhân dân về chủ nghĩa Mác – Lênin, chắc có nhiều người
thuộc, nhưng các chú có làm cho mọi người hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin là thế
nào không? Theo Bác, hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin tức là cách mạng phân công
cho việc gì, làm Chủ tịch nước hay nấu ăn, đều phải làm tròn nhiệm vụ. Không
nên đào tạo ra những con người thuộc sách làu làu, cụ Mác nói thế này, cụ
Lênin nói thế kia, nhưng nhiệm vụ của mình được giao quét nhà lại để cho nhà
đầy rác…Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa.
Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu
chủ nghĩa Mác - Lênin được”25. Người còn cho rằng: trong học tập của cán bộ,
đảng viên là khó khăn, lâu dài nhưng nếu có quyết tâm cao, phương pháp học
tập tốt thì mọi việc đều có thể làm được “Không có việc gì khó. Chỉ e ta không
siêng… siêng học tập thì mau biết”26.
Theo Người, hoạt động lý luận của người cán bộ đều phải đáp ứng nhu
cầu của người cách mạng; đồng thời phải vận dụng lý luận đó một cách sáng
tạo trước mọi biến đổi của cách mạng, không nên dập khuôn máy móc. Người còn
khuyên trong cách viết không nên viết dài, nói dài, trừu tượng mà phải nói ngắn

gọn, cô đọng, hàm xúc, sinh động thì quần chúng mới hiểu được. Đặc trưng của
giáo dục lý luận chính trị là tính khái quát cao. Nhiều câu nói của Người có nội
dung bao quát cả nguyên lý, một chiến lược, nhưng Người thâu tóm trong một câu

24

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb. CTQG, HN. 1995, tr.247.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb. CTQG, HN. 1996, tr.554.
26
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb. CTQG, H.2000, tr. 632.
25


15
nói dễ hiểu, dễ nhớ, càng ngẫm càng thấm thía. Chính vì vậy, trong công tác giáo
dục lý luận chính trị phải quán triệt nguyên tắc này.
Thấm nhuần tư tưởng của Hồ Chí Minh, Đảng ta khẳng định: “học tập
là nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của mỗi cán bộ đảng viên. Cán bộ đảng
viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp phải thường xuyên có kế
hoạch học tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị, kiến thức chuyên môn và
năng lực hoạt động thực tiễn” 27. Như vậy, Đảng ta coi “học tập là công việc
suốt đời của cán bộ, đảng viên”, mọi cán bộ, đảng viên phải có kế hoạch
thường xuyên để học tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị, kiến thức
chuyên môn nghiệp vụ và năng lực hoạt động thực tiễn. Học tập vừa là quyền
lợi vừa là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi cán bộ, đảng viên và phải được quy
định thành nền nếp, chế độ. Thực tiễn cho thấy còn không ít cán bộ, đảng
viên còn “học vì bằng cấp”, “cốt để tiêu chuẩn hoá chức danh”… Những biểu
hiện đó là trái với tư tưởng của Bác về mục đích học tập cần được phê bình,
sửa chữa, để mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng thực sự là tấm gương về học tập
cho quần chúng noi theo, góp phần đưa cả nước trở thành một “xã hội học

tập”, phấn đấu vì Việt Nam giàu đẹp, văn minh, nhân dân có cuộc sống ấm
no, hạnh phúc.
Triết lý sâu xa của tư tưởng Hồ Chí Minh về lý luận trong tác phẩm Sửa
đổi lối làm việc chỉ ra rằng: Việc học tập lý luận là công việc suốt đời của mọi
cán bộ, đảng viên, gắn với thực tiễn cách mạng và phục vụ cho sự nghiệp cách
mạng. Tư tưởng đó ngày nay không những là kim chỉ nam, là phương châm cho
việc hoạch định chiến lược đào tạo, xây dựng, sử dụng cán bộ trong giai đoạn
cách mạng mới, mà còn là sự chỉ dẫn cụ thể cho hành động của mỗi cán bộ,
đảng viên trong hoạt động thực tiễn của mình.
Quán triệt tư tưởng của Hồ Chí Minh, tại Đại hội X, Đảng ta đặt vấn
đề: “Nâng cao trình độ trí tuệ, chất lượng nghiên cứu lý luận của Đảng; tiếp
tục làm sáng tỏ những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
27

Bộ Chính trị: Quy định số 45/QĐ-TW về “Chế độ học tập lý luận chính trị trong Đảng”, ngày 12 tháng 5 năm
1999, điều1.


16
nghĩa xã hội của nước ta; làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn đường lối, chính
sách của Đảng trong thời kỳ mới” 28. Thực hiện tốt công việc quan trọng này
thì Đảng mới có thể hoàn thành thắng lợi sứ mệnh lãnh đạo cách mạng trong
tình hình mới. Đó là công việc của bản thân Đảng, của toàn thể cán bộ, đảng
viên.
Đảng phải có “một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm
tròn vai trò chiến sỹ tiền phong”29, lời giáo huấn này của V.I.Lê-nin cần được
nhận thức sâu sắc hơn trong tình hình mới. Chúng ta đã có “một lý luận tiền
phong”, nhưng điều quan trọng là cần phải nắm chắc, hiểu đúng, hiểu rõ thực
chất những vấn đề cơ bản của lý luận ấy, đồng thời biết vận dụng sáng tạo và
phát triển lý luận phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới.

Giá trị và sức sống của “lý luận tiền phong” chính là ở chỗ đó. Vì thế, cần
thực hiện tốt yêu cầu cơ bản trong công tác nghiên cứu lý luận mà Đảng ta đã
xác định là “Thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung và phát triển lý luận, giải
quyết đúng đắn những vấn đề do cuộc sống đặt ra”30.
Sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nước ta đang diễn ra
trong sự vận động của lịch sử thế giới đương đại với nhiều diễn biến phức tạp,
khó lường. Nhiều vấn đề thực tiễn bức thiết đòi hỏi phải được làm sáng tỏ; nhiều
vấn đề lý luận cần được bổ sung, phát triển và hoàn thiện. Trong khi đó, “Công
tác tư tưởng còn nhiều bất cập và thiếu tính thuyết phục, tính chiến đấu. Công
tác lý luận chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề lý luận quan trọng trong công
cuộc đổi mới”31. Muốn “làm sáng tỏ được một số vấn đề lý luận quan trọng của
công cuộc đổi mới” thì nhất thiết chúng ta phải nắm chắc hơn những nguyên lý
cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, những tư tưởng cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí
Minh.

28

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, H. 2006, tr. 131.
V.I.Lênin, Toàn tập, tập 6, Nxb. Tiến Bộ, M. 1975, tr. 32.
30
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb.CTQG, H.2006, tr. 131.
31
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb.CTQG, H. 2006, tr. 48
29


17
Bản chất của chủ nghĩa Mác - Lê-nin là cách mạng và khoa học. Bản chất
cách mạng, khoa học đó đòi hỏi các chủ thể nghiên cứu vừa phải đứng vững trên
lập trường cách mạng, lập trường của giai cấp công nhân vừa phải thực hiện việc

nghiên cứu với một tinh thần và phương pháp khoa học nghiêm túc, đúng đắn.
Sự thiếu hụt về năng lực nhận thức và tư duy, sự yếu kém về trình độ sáng tạo ở
một bộ phận cán bộ đảng viên, kể cả một số người cán bộ làm công tác lý luận
đã dẫn đến tình trạng hời hợt, giản đơn, một chiều, thiên về miêu tả, suy diễn
một cách chủ quan về các vấn đề thực tiễn. Bệnh “giáo điều” trong nghiên cứu
lý luận, sự “hời hợt”, “đại khái”, không chịu đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý
luận cơ bản thì sẽ không những không thể có sự hiểu biết lý luận chắc chắn mà
còn có thể làm méo mó bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin cả trong nhận thức cũng như trong vận dụng vào thực tiễn.
Chúng ta thường hay nói đến sự “thiếu hụt”, sự “hạn chế” của lý luận
trong việc luận giải các vấn đề thực tiễn. Tuy nhiên, còn một thực tế cần phải
bàn đến hiện nay là: sự hiểu biết về lý luận của nhiều cán bộ, đảng viên, của
không ít cán bộ nghiên cứu lý luận còn hạn chế; nắm chưa thật chắc, chưa thật
sâu, chưa thật rõ thực chất một số nguyên lý, luận điểm cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Do nắm không chắc, không hiểu rõ thực chất nguyên lý lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lê-nin mà luận giải nội dung thiếu độ sâu, chưa “tới”, chưa “trúng”,
chưa phù hợp với thực tiễn. Không nắm chắc lý luận thì không thể làm sáng tỏ
được thực tiễn, không thể giải thích được thực tiễn một cách khoa học, cũng
không thể làm cho lý luận gắn với thực tiễn một cách tốt nhất, và càng không thể
phát triển được lý luận, do đó sức thuyết phục và giá trị của nghiên cứu sẽ không
cao. Muốn cho công trình khoa học có sức thuyết phục, giá trị cao thì chủ thể
nghiên cứu phải có trình độ lý luận ngang tầm, đáp ứng được yêu cầu, phải
thường xuyên đổi mới tư duy, không ngừng nâng cao trình độ trí tuệ, lý luận của
chính mình.


18
Người cán bộ, Đảng viên cần coi việc học tập, nghiên cứu lý luận là
một nhiệm vụ quan trọng . Người đảng viên không có lý luận hoặc trình độ lý
luận thấp thì không những không thể phát huy đầy đủ tính tiền phong của

mình mà còn có thể mắc sai lầm trong hoạt động thực tiễn, thậm chí dẫn đến
hậu quả nguy hại cho cách mạng. Ý nghĩa vai trò của “lý luận tiền phong” đối
với mọi đảng viên chính là ở chỗ đó. Vì vậy, học tập, tự học tập trong sách
vở, trong thực tiễn, trong phong trào cách mạng để nắm chắc và hiểu sâu hơn
lý luận, biết vận dụng sáng tạo lý luận trong thực tiễn phải là yêu cầu cơ bản,
thường xuyên của mọi đảng viên. Đảng viên giữ vị trí, trọng trách càng lớn
thì yêu cầu này càng cao và càng phải được đặt ra cấp bách. Đại hội X của
Đảng nhấn mạnh: “Đổi mới công tác giáo dục lý luận chính trị, tư tưởng
trong Đảng, trước hết là cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý chủ chốt các
cấp”32.
Phải kiên quyết khắc phục tình trạng xem thường lý luận, “dị ứng” với lý
luận, chạy theo mục đích thực dụng trong hoạt động thực tiễn; đồng thời phải
khắc phục tình trạng xa rời thực tiễn, không bám chắc vào thực tiễn cách mạng
sôi động của đất nước trong hoạt động lý luận.
Phải kiên quyết khắc phục căn bệnh lười học lý luận trong một số cán bộ,
đảng viên. Lười học lý luận, hoặc học lý luận một cách hình thức, mang tính chất
“trang trí”, “cốt có chứng chỉ” để thuận lợi cho con đường công danh, thì không thể
trở thành cán bộ thực sự có trí tuệ, thực sự có năng lực. Không thể vin cớ do “quá
bận rộn”, “quá nhiều việc” mà không chịu học tập, không tự bồi dưỡng chủ nghĩa
Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước, cũng như những vấn đề về tình hình thế giới, đất nước, nhiệm vụ cách mạng.
Lười học lý luận là một biểu hiện suy thoái, và từ sự suy thoái này dẫn đến suy
thoái về tư tưởng chính trị không phải là không thể xảy ra. Lý luận chủ nghĩa Mác Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh bị xem nhẹ, “bị bỏ qua”, thì sẽ tạo cơ hội, điều kiện
thuận lợi cho sự xuất hiện và phát triển trong xã hội những lý thuyết, những quan
điểm cơ hội, thực dụng, phi mác-xít.
32

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, H. 2006, tr. 131.



19
Trong thế kỷ XXI, chúng ta không những phải tiếp tục giải quyết những
vấn đề còn lại của thế kỷ trước, mà còn phải giải quyết những vấn đề mới nảy
sinh và hết sức phức tạp. Một loạt vấn đề: chủ nghĩa xã hội và triển vọng phát
triển của nó; sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân; xây dựng chủ nghĩa xã hội
với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện cách
mạng khoa học - công nghệ hiện đại và xu thế toàn cầu hóa kinh tế; phong trào
cách mạng thế giới và xu hướng phát triển; bản chất chủ nghĩa tư bản hiện đại;
“nhân quyền”, “dân chủ ”, chiến tranh và hoà bình... là những vấn đề lớn và
phức tạp đặt ra trong điều kiện lịch sử mới, cần có lời giải đáp khoa học với một
lập trường cách mạng đúng đắn .
Khi bàn về các vấn đề trên, có không ít những quan điểm khác nhau hoà trong
dàn “hợp xướng” tiến công chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh hy vọng
có thể hạ bệ và thay thế chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng ra
sức tuyên truyền về cái gọi là “hồi kết thúc”, sự “cáo chung” của chủ nghĩa xã hội,
sự “lạc hậu, lỗi thời” của chủ nghĩa Mác - Lê-nin; ra sức phủ nhận tư tưởng Hồ Chí
Minh và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã trở thành Anh hùng dân tộc vĩ đại, được UNESCO đánh
giá là Anh hùng giải phóng dân tộc và là Nhà văn hoá kiệt xuất. Nhân dân Việt
Nam nhiều thế hệ coi Hồ Chí Minh là lãnh tụ kính yêu. Như vậy, đứng về góc độ
văn hoá mà nói thì thực sự Hồ Chí Minh đã trở thành “thần tượng” của nhân dân
Việt Nam.
Trong nhiều “kênh” chống phá sự nghiệp cách mạng Việt Nam, các thế
lực thù địch đã nhằm vào hai “kênh” chính yếu nhất: chống Đảng Cộng sản Việt
Nam và chống Hồ Chí Minh. Chống Hồ Chí Minh là chống nền tảng tư tưởng và
kim chỉ nam cho hành động của Đảng và đánh vào giá trị tinh thần to lớn của
Đảng và dân tộc, hay nói như nhiều người là “hạ bệ thần tượng” Hồ Chí Minh.
Làm sụp đổ thần tượng này, tức là làm mất giá trị văn hóa và làm cho Việt Nam
đi theo một con đường khác. Đánh vào Hồ Chí Minh cũng tức là đánh vào sự
nghiệp cách mạng Việt Nam.



20
Trong nhiều biện pháp, thì biện pháp đánh vào cái gốc, đánh vào nền tảng tư
tưởng, vào yếu tố tinh thần, vào giá trị văn hóa, vào lãnh tụ của sự nghiệp cách mạng
Việt Nam… là biện pháp thâm hiểm nhất. Cho nên, những kẻ xấu không từ một thủ
đoạn nào, một hành vi nào, tận dụng tất cả mọi diễn đàn có thể có được trong công
nghệ thông tin hiện đại để bôi xấu, xuyên tạc về Hồ Chí Minh.
Sự tiến công của các thế lực thù địch đối với Đảng ta cùng với tình trạng
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ,
đảng viên đang tạo nên “hợp lực” nhằm làm suy yếu và thủ tiêu sự lãnh đạo
của Đảng, xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta. Tình hình đó làm
cho cuộc đấu tranh tư tưởng - lý luận vốn đã phức tạp lại càng trở nên phức tạp
hơn. Vì thế, nâng cao trình độ trí tuệ, trình độ lý luận cho cán bộ, đảng viên để
đủ sức giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng - lý luận là
vấn đề đặt ra rất cấp thiết và gay gắt hiện nay. Không có trình độ lý luận, nắm
không chắc, không vững, không thực chất lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng thì chúng ta không thể
giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh này. Có nâng cao trình độ lý luận của
đội ngũ cán hộ, đảng viên mới có thể làm cho công tác tư tưởng lý luận thực sự
“đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Ðảng, làm cho hệ tư tưởng của
Ðảng, của giai cấp công nhân, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, những giá trị tốt đẹp
trong truyền thống văn hóa dân tộc, những tinh hoa văn hóa thế giới chiếm vị trí
chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội” như Nghị quyết Trung ương Năm khoá
X của Đảng đã chỉ rõ.
Do vậy, để nâng cao trình độ lý luận của cán bộ, đảng viên, hơn lúc nào
hết chúng ta phải quán triệt sâu sắc những tư tưởng của Hồ Chí Minh, vận dụng
và thực hiện nghiêm túc việc “Đổi mới nội dung, phương pháp học tập và giảng
dạy trong hệ thống trường chính trị, nâng cao tính thiết thực và hiệu quả của

chương trình”33 theo tinh thần Đại hội X đã xác định. Thực hiện kế hoạch bồi
33

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, H. 2006, tr. 131.


21
dưỡng lý luận cho cán bộ, đảng viên, chú trọng bồi dưỡng những cán bộ nghiên
cứu lý luận giỏi, có trình độ cao; nâng cao tinh thần trách nhiệm và tạo điều kiện
cho cán bộ, giáo viên, cán bộ nghiên cứu trong tự học, tự bồi dưỡng trình độ lý
luận của mình; đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu khoa
học; gắn nghiên cứu lý luận với thực tiễn; gắn nghiên cứu lý luận với giảng
dạy… phải là những biện pháp cơ bản, cần thực hiện tốt để có thể nâng cao trình
độ lý luận cho cán bộ, đảng viên, để có thể tạo ra được đội ngũ cán bộ lý luận
xứng tầm.
Ở đây, việc bồi dưỡng, nâng cao trình độ lý luận cho đội ngũ cán bộ làm
công tác lý luận có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Theo đó, một chiến lược đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác lý luận một cách khoa học, sát thực tế, có
bước đi và lộ trình phù hợp là đòi hỏi bức thiết của tình hình. Nghiên cứu sâu
hơn, toàn diện hơn về kinh điển, để nắm chắc hơn những nguyên lý của chủ
nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh phải là một hướng ưu tiên, có tính
đột phá trong công tác đào tạo ở các trường Đảng của cả nước, nhất là trong đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác lý luận.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang
nhân dân. Sinh thời, Người luôn quan tâm tới mỗi bước tiến bộ trưởng thành của
quân đội, nhất là đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí
Minh về nâng cao trình độ lý luận của cán bộ, đảng viên của trong quân đội, một
mặt, chúng ta cần có nhận thức sâu sắc về những nội dung cốt lõi trong tư tưởng
của Người; mặt khác, chúng ta cần ra sức học tập, rèn luyện noi theo tấm gương tự
học tập, trau dồi lý luận cách mạng của Người, nhất là khi toàn quân ta đang đẩy

mạnh thực hiện cuộc vận động lớn: “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh”. Theo đó, cần nâng cao tính tích cực, chủ động, tự học tập lý luận của
mỗi cán bộ, đảng viên trong quân đội. Cùng với quá trình giáo dục, mỗi cá nhân
chủ động lấy tự học tập, tự rèn luyện bản thân để tiếp nhận và chuyển hóa hệ thống
tri thức lý luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh thành hành động cách mạng trong thực tiễn học tập, công tác và rèn luyện


22
nhằm đáp ứng những yêu cầu mới trong xây dựng và phát triển con người mới
trong quân đội hiện nay; đặc biệt mỗi người phải phấn đấu để “Tự giáo dục mình
thành người cộng sản”34.
Mặc dù tác phẩm Sửa đổi lối làm việc ra đời cách đây 65 năm, nhưng
đến nay vẫn còn nguyên giá trị, mang tính thời sự, là những bài học kinh
nghiệm quý báu được tổng kết từ thực tiến đấu tranh cách mạng. Trong cuộc
vận động lớn: “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”,
chúng ta cần làm sống lại và vận dụng tốt những quan điểm, tư tưởng giáo
dục lý luận cho cán bộ, đảng viên được chỉ dẫn trong tác phẩm: “ Sửa đổi lối
làm việc”.

34

V.I. Lênin, Toàn tập, tập 41, Nxb. Tiến bộ, M. 1978, tr. 60.



×