BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN QUẢN LÝ GIÁO DỤC
_____________
_____________
TẠ HOÀI NAM
PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ BIÊN TẬP VIÊN
Ở NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH ĐỔI MỚI GIÁO DỤC
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 60 140 101
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Nguyễn Khắc Bình
Hà Nội, năm 2016
i
LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc, tác giả luận văn xin
chân thành cảm ơn:
Trung tâm Đào tạo sau đại học – Bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý
thuộc Học viện Quản lý giáo dục, cùng các thầy cô tham gia giảng dạy đã
cung cấp những kiến thức cơ bản, giúp tác giả trong quá trình học tập và
nghiên cứu.
Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Phó Giáo sư, Tiến sĩ
Nguyễn Khắc Bình – người trực tiếp hướng dẫn, đã tận tình giúp đỡ cho tác
giả về kiến thức cũng như phương pháp luận trong suốt quá trình nghiên cứu
để hoàn thành luận văn này.
Tác giả xin chân thành cảm ơn các đồng chí Lãnh đạo, các đồng nghiệp
ở các ban biên tập và các phòng, ban Công ty Cổ phần Dịch vụ xuất bản Giáo
dục Hà Nội đã ủng hộ, giúp đỡ và tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho tác giả
trong suốt thời gian học tập và hoàn thành luận văn này.
Xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên, chia sẻ, giúp đỡ tôi hoàn
thành chương trình đào tạo cao học.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song không thể tránh khỏi những thiếu sót,
tác giả kính mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của các thầy cô
giáo, bạn bè đồng nghiệp.
Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2016
Tác giả luận văn
Tạ Hoài Nam
ii
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Biên tập viên
BTV
Bộ Giáo dục và Đào tạo
BGD&ĐT
Cải cách giáo dục
CCGD
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNH, HĐH
Công ty Cổ phần Dịch vụ xuất bản
giáo dục Hà Nội
CTCPDVXBGDHN
Cộng tác viên
CTV
Đổi mới giáo dục
ĐMGD
Giáo dục và đào tạo
GD&ĐT
Kinh tế – xã hội
KT–XH
Nhà xuất bản
NXB
Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam
NXBGDVN
Sách giáo khoa
SGK
Sách tham khảo
STK
Sản xuất – kinh doanh
SXKD
Xuất bản phẩm
XBP
iii
MỤC LỤC HÌNH, SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Trang
Hình 1.1. Mô hình phát triển nguồn nhân lực theo Leonard Nadler
35
Sơ đồ 2.1. Cơ cấu tổ chức CTCPDVXBGDHN hiện nay
50
Bảng 2.1. Thực trạng số lượng và cơ cấu BTV CTCPDVXBGDHN
hiện nay
Bảng 2.2. Trình độ đào tạo của BTV CTCPDVXBGDHN hiện nay
53
57
Bảng 2.3. Tổng hợp ý kiến đánh giá việc thực hiện vai trò, nhiệm vụ BTV 60
Bảng 2.4. Nhu cầu được đào tạo, bồi dưỡng
63
Bảng 3.1. Kết quả khảo sát về tính cấp thiết và tính khả thi các biện pháp
đề xuất
102
iv
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1
2. Mục đích nghiên cứu
3
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
4
4. Giả thuyết khoa học của đề tài
4
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
4
6. Phương pháp nghiên cứu
5
7. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu đề tài
5
8. Cơ cấu luận văn
6
Chương 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ
BIÊN TẬP VIÊN Ở NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC VN
1.1. Tình hình nghiên cứu đề tài
7
1.2. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
8
1.2.1. Phát triển
8
1.2.2. Phát triển nguồn nhân lực
9
1.2.3. Khái niệm đội ngũ biên tập viên
11
1.3. Bối cảnh đổi mới giáo dục và định hướng phát triển đội ngũ BTV
của CTCPDVXBGDHN
13
1.3.1. Xây dựng đội ngũ BTV đủ về số lượng, cơ cấu phù hợp và đồng bộ 16
1.3.2. Xây dựng đội ngũ BTV có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình
độ cao về chuyên môn, nghiệp vụ, năng động, sáng tạo đủ khả
năng thực hiện chiến lược đa dạng hoá sản phẩm, mở rộng thị
trường, giữ vững vị thế số 1 về làm SGK
17
1.3.3. Đổi mới hình thức trả lương, thực hiện khoán quỹ lương
đến từng ban biên tập
1.4. Vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ BTV NXB
18
19
v
1.4.1. Vị trí, vai trò biên tập viên
19
1.4.2. Chức năng, nhiệm vụ của BTV
20
1.4.3. Đặc điểm của công tác biên tập
25
1.5. Phẩm chất, năng lực của BTV NXB
27
1.5.1. Phẩm chất của BTV
27
1.5.2. Năng lực của BTV
29
1.6. Phát triển đội ngũ BTV
34
1.6.1. Mục tiêu, các hoạt động và mô hình phát triển nguồn nhân lực
34
1.6.2. Các hoạt động quản lý đội ngũ trong một tổ chức
35
1.6.3. Phát triển đội ngũ BTV ở NXB
37
1.7. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác phát triển đội ngũ BTV ở NXB 39
1.7.1. Các yếu tố khách quan
39
1.7.2. Các yếu tố chủ quan
42
Tiểu kết Chương 1
43
Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ
BIÊN TẬP VIÊN Ở CÔNG TY CỔ PHẦN DỊCH VỤ
XUẤT BẢN GIÁO DỤC HÀ NỘI
2.1. Vài nét về CTCPDVXBGDHN
45
2.2. Thực trạng đội ngũ biên tập viên ở CTCPDVXBGDHN
47
2.2.1. Tình hình biên tập XBP của CTCPDVXBGDHN
47
2.2.2. Số lượng biên tập viên của CTCPDVXBGDHN
49
2.2.3. Cơ cấu đội ngũ biên tập viên của CTCPDVXBGDHN
52
2.2.4. Chất lượng biên tập viên của CTCPDVXBGDHN
56
2.2.5. Đội ngũ lãnh đạo các ban biên tập của CTCPDVXBGDHN
65
2.2.6. Đánh giá chung về thực trạng đội ngũ biên tập viên
của CTCPDVXBGDHN
2.3. Thực trạng quản lý đội ngũ BTV CTCPDVXBGDHN
67
68
vi
2.3.1. Quy hoạch đội ngũ BTV
68
2.3.2. Tuyển dụng, sử dụng
69
2.3.3. Đào tạo, bồi dưỡng
72
2.3.4. Kiểm tra, đánh giá
74
2.3.5. Các điều kiện làm việc
75
2.3.6. Chế độ chính sách đối với BTV
76
Tiểu kết Chương 2
79
Chương 3: BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ BIÊN TẬP VIÊN
Ở CÔNG TY CỔ PHẦN DỊCH VỤ XUẤT BẢN GIÁO DỤC
HÀ NỘI TRONG BỐI CẢNH ĐỔI MỚI GIÁO DỤC
3.1. Một số biện pháp phát triển đội ngũ BTV CTCPDVXBGDHN
82
3.1.1. Xây dựng quy hoạch nhân sự các ban biên tập trước mắt
và lâu dài
83
3.1.2. Đổi mới việc tuyển dụng, sử dụng
87
3.1.3. Chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ
92
3.1.4. Phát huy tính tự chủ của các ban biên tập, tăng cường vai trò
lãnh đạo của cán bộ quản lý ban
96
3.1.5. Bổ sung và thực hiện tốt chế độ, chính sách đãi ngộ đối với BTV 98
3.2. Khảo nghiệm tính cần thiết và khả thi của các biện pháp
102
Tiểu kết Chương 3
103
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
104
2. Khuyến nghị
106
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công tác xuất bản là một bộ phận quan trọng trong lĩnh vực hoạt động
văn hoá – tư tưởng của xã hội. Chỉ thị số 42–CT/TW của Ban Bí thư Trung
ương Đảng ngày 29–8–2005 về nâng cao chất lượng toàn diện của hoạt động
xuất bản đã khẳng định: "Sự nghiệp xuất bản là một lĩnh vực hoạt động tư
tưởng sắc bén của Đảng, Nhà nước và nhân dân, là một bộ phận quan trọng
của nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, có nhiệm vụ tích
luỹ và truyền bá các giá trị tinh thần, góp phần nâng cao dân trí, phát triển
văn hoá,... góp phần đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành xã hội
học tập". Trong những năm gần đây, hoạt động xuất bản đã có bước phát triển
nhanh, từng bước thích ứng với cơ chế thị trường, đáp ứng nhu cầu ngày càng
cao và đa dạng của người đọc, góp phần tích cực vào việc tuyên truyền, phổ
biến đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, nâng cao dân trí, phát triển
kinh tế – văn hoá...
Tuy vậy, hoạt động xuất bản còn có những yếu kém, chưa đáp ứng
được nhu cầu ngày càng lớn và đa dạng của xã hội về cung cấp thông tin, tri
thức và thưởng thức văn học nghệ thuật trong thời kì đổi mới, công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, mở rộng giao lưu, hội nhập quốc tế: còn thiếu nhiều loại
sách phổ cập tri thức, chất lượng sách còn hạn chế; thậm chí vẫn còn xuất bản
và lưu hành một số sách có nội dung sai phạm về chính trị, tư tưởng, gây ảnh
hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội. Trong lĩnh vực xuất bản sách giáo dục
cũng còn tồn tại một số hạn chế, chưa đáp ứng được các yêu cầu đổi mới
giáo dục.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến những yếu kém trên xuất phát
từ đội ngũ BTV còn nhiều hạn chế về trình độ, năng lực ; các nhà quản lý
NXB chưa quan tâm đúng mức đến công tác tổ chức, quản lý phát triển, đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ biên tập. Nhiều biên tập viên ở các NXB chưa
2
được đào tạo về nghiệp vụ xuất bản, chủ yếu qua tự học và truyền nghề trên
cơ sở có một bằng đại học chuyên môn cụ thể.
Đối với một NXB, đội ngũ BTV là lực lượng lao động chính, trực tiếp
làm ra sản phẩm, là linh hồn của NXB. Số lượng và chất lượng của đội ngũ
này là nhân tố góp phần quyết định chất lượng hoạt động của mỗi NXB.
Người ta ví BTV là "Bà đỡ" cho sự ra đời của các xuất bản phẩm. Không có
ấn phẩm sách, báo nào là không có dấu ấn của người biên tập. Đặc điểm nghề
nghiệp đòi hỏi người BTV phải là những nhà khoa học có đủ năng lực thẩm
định và góp phần nâng cao chất lượng các XBP. Những tiêu chuẩn về trình độ
chuyên môn, năng lực, phẩm chất, thái độ nghề nghiệp của người biên tập là
yếu tố quan trọng quyết định chất lượng XBP. Để hoạt động xuất bản có hiệu
quả, vấn đề thiết yếu là phải xây dựng và kiện toàn đội ngũ cán bộ biên tập
vững về lý luận, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, hết lòng với nghề nghiệp. Vì
vậy, vấn đề quy hoạch, quản lý phát triển đội ngũ BTV NXB trở nên vấn đề
cấp thiết.
Bên cạnh những đòi hỏi cấp thiết của sự phát triển nói chung trong hoạt
động xuất bản, còn có những yêu cầu, nhiệm vụ mà ngành giáo dục đặt ra đối
với hoạt động xuất bản sách giáo dục nói riêng.
Theo tinh thần của Nghị quyết số 29–NQ/TW về đổi mới căn bản toàn
diện GD&ĐT, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, BGD&ĐT đã khẩn trương
xây dựng Đề án Đổi mới chương trình và SGK sau năm 2015. Mục tiêu tổng
quát và những nội dung cốt lõi của Đề án là "Đổi mới căn bản, toàn diện
GD&ĐT". Với xu hướng mới, SGK nói riêng, sách giáo dục nói chung sau
năm 2015 sẽ có nhiều thay đổi, trong đó đặc biệt chú ý tới chủ trương một
chương trình nhiều bộ SGK với tính chất cạnh tranh khốc liệt về chất lượng
và thị phần giữa các bộ SGK và giữa các NXB.
Được thành lập năm 1957, NXBGDVN là một doanh nghiệp nhà nước
trực thuộc BGD&ĐT, có nhiệm vụ tổ chức biên soạn, biên tập, in ấn và tổng
3
phát hành các loại SGK và các XBP giáo dục khác phục vụ giảng dạy, học tập
của các ngành học, bậc học trong toàn quốc; đồng thời giúp BGD&ĐT chỉ
đạo công tác phát hành sách và thư viện trường học.
NXBGDVN đã trải qua 3 cuộc CCGD với nhiều lần thực hiện việc làm
sách và thay thế SGK. Đội ngũ BTV đã tự học, tự bồi dưỡng và được đào tạo
bồi dưỡng có hệ thống, đặc biệt là được trải nghiệm qua thực tế làm sách giáo
dục, đã từng bước trưởng thành, đáp ứng tốt nhiệm vụ trong mỗi thời kỳ. Qua
mỗi đợt thay sách, đội ngũ BTV đã tích tụ được nhiều kinh nghiệm làm sách
giáo dục. Tuy nhiên, BTV cũng còn một vài hạn chế cần được bổ khuyết với
thách thức về khả năng thích ứng trước những thay đổi mới. Đồng thời,
NXBGDVN cần phải có những biện pháp phát triển đội ngũ BTV thích hợp
giúp họ đủ sức, đủ lực, dồi dào trí tuệ để đáp ứng yêu cầu của ĐMGD.
Việc nắm rõ thực trạng và đề ra các biện pháp pháp phát triển đội ngũ
BTV trong giai đoạn thay SGK mới sau năm 2015 là nhiệm vụ hết sức quan
trọng, góp phần không nhỏ trong việc thực hiện đổi mới căn bản, toàn toàn
diện GD&ĐT.
Đây là vấn đề hết sức mới mẻ chưa có đề tài nào tiến hành nghiên cứu.
Xuất phát từ lý luận và thực tiễn trên, tác giả tiến hành nghiên cứu đề
tài: "Phát triển đội ngũ biên tập viên ở Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam
trong bối cảnh đổi mới giáo dục" với mong muốn qua khảo sát thực tế sẽ
xác định được thực trạng về số lượng và chất lượng đội ngũ BTV để từ đó đề
xuất những biện pháp phát triển đội ngũ BTV ở NXBGDVN trong bối cảnh
ĐMGD.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về phát triển đội ngũ BTV
NXB và thực trạng công tác phát triển đội ngũ BTV ở NXBGDVN trong
những năm qua để đề xuất một số biện pháp phát triển đội ngũ BTV ở
CTCPDVXBGDHN trong bối cảnh ĐMGD phục vụ công cuộc phát triển
KT–XH của đất nước.
4
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3. 1. Khách thể nghiên cứu
Công tác phát triển đội ngũ BTV ở NXBGDVN.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp phát triển đội ngũ BTV NXBGDVN trong bối cảnh ĐMGD.
4. Giả thuyết khoa học của đề tài
Công tác phát triển đội ngũ BTV ở NXBGDVN trong thời gian qua đã
đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, đứng trước bối cảnh
ĐMGD thì công tác phát triển đội ngũ BTV còn có những hạn chế, bất cập do
các nguyên nhân khác nhau, trong đó có nguyên nhânlà chưa có biện pháp
phát triển đội ngũ BTV chưa phù hợp. Nếu đề xuất và áp dụng biện pháp phát
triển đội ngũ BTV phù hợp hơn thì sẽ phát triển được đội ngũ BTV ở
NXBGDVN tốt hơn.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Xác lập cơ sở lý luận về phát triển đội ngũ BTV ở NXBGDVN.
5.2. Đánh giá thực trạng các biện pháp phát triển đội ngũ BTV ở
NXBGDVN trong thời gian gần đây.
5.3. Đề xuất một số biện pháp phát triển đội ngũ BTV ở NXBGDVN
trong bối cảnh ĐMGD.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá các vấn đề lý luận từ các tài liệu
lý luận và thực tiễn có liên quan đến việc phát triển đội ngũ BTV của
NXBGD như:
– Các tài liệu, văn kiện của Đảng, Nhà nước về phát triển GD, xây
dựng đội BTV ở NXB.
– Các kết quả nghiên cứu tài liệu trong nước và nước ngoài về phát
triển đội ngũ BTV.
5
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
– Phương pháp điều tra bảng hỏi: Xây dựng các bảng điều tra phù hợp
với nội dung luận văn, thống kê, phân tích các dữ liệu để có những đánh giá
về phát triển đội ngũ BTV ở NXBGDVN trong bối cảnh ĐMGD.
– Phương pháp chuyên gia: Thông qua bảng hỏi các ý kiến chuyên gia,
CBQL Công ty, các phòng ban của CTCPDVXBGDHN có nhiều kinh
nghiệm để khảo sát tình hình phát triển đội ngũ BTV ở CTCPDVXBGDHN.
– Phương pháp phỏng vấn: gặp trực tiếp các CBQL, BTV để trao đổi về
tình hình phát triển đội ngũ BTV ở CTCPDVXBGDHN.
– Phương pháp điền dã (đi thực địa tại địa bàn)
6.3. Nhóm các phương pháp hỗ trợ
Phương pháp xử lý số liệu bằng toán thống kê. Sử dụng phần mềm
SPSS 16.0.
7. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu đề tài
7.1. Địa bàn nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu một số biện pháp phát triển đội ngũ biên tập viên ở
Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam trong bối cảnh đổi mới giáo dục. Tuy
nhiên, từ năm 2003 đến nay, NXBGDVN chuyển sang hoạt động theo mô hình
Công ty mẹ – Công ty con theo Quyết định số 102/2003/QĐ – TTg ngày
21/5/2003 của Thủ tướng Chính phủ và Quyết định 3961/2003/QĐ –
BGD&ĐT ngày 28/7/2003 của Bộ trưởng BGD&ĐT. Mô hình này nhằm đổi
mới tổ chức quản lý, chuyển từ liên kết hành chính giữa NXBGDVN với các
đơn vị thành viên sang cơ chế đầu tư tài chính là chủ yếu, xác định rõ quyền
lợi, trách nhiệm về vốn và lợi ích kinh tế, thúc đẩy quá trình SXKD, nâng cao
chất lượng quản lý, hiệu quả đầu tư, uy tín và khả năng cạnh tranh trên thị
trường trong nước và quốc tế.
CTCPDVXBGDHN được thành lập năm 2007 từ các ban biên tập của
NXBGDVN. Chức năng và nhiệm vụ chính của Công ty là tổ chức biên soạn,
6
biên tập, dịch thuật, thiết kế, minh hoạ chế bản SGK trong toàn bộ hệ thống
NXBGDVN.
Do vậy, đề tài này chỉ tập trung nghiên cứu một số biện pháp quản lý
của Ban Lãnh đạo CTCPDVXBGDHN nhằm phát triển đội ngũ BTV tại
CTCPDVXBGDHN trong bối cảnh ĐMGD.
7.2. Khách thể khảo sát
– Ban Giám đốc, Kế toán trưởng: 5 người
– Các trưởng phó ban Biên tập: 13 người
– Biên tập viên CTCPDVXBGDHN: 57 người
7.3. Thời gian nghiên cứu
6 tháng (từ tháng 12/2015 đến tháng 05/2016)
8. Cơ cấu luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Kết quả nghiên cứu, Luận văn được
trình bày trong 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về phát triển đội ngũ BTV ở NXB.
Chương 2. Thực trạng công tác phát triển đội ngũ BTV ở
CTCPDVXBGDHN.
Chương 3. Biện pháp phát triển đội ngũ BTV ở CTCPDVXBGDHN
trong bối cảnh ĐMGD.
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
7
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ
BIÊN TẬP VIÊN Ở NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC VIỆT NAM
1.1. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có một số công trình nghiên cứu về hoạt động xuất bản ở Việt Nam
như: Luận án Phó Tiến sĩ Pháp luật xuất bản ở Việt Nam, quá trình thực hiện
và đổi mới trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Vũ Mạnh
Chu; Luận án Phó Tiến sĩ Đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động của
các NXB trong bước chuyển sang cơ chế thị trường của Đường Vinh Sường;
Luận án Phó Tiến sĩ Một số vấn đề về hoàn thiện tổ chức quản lý ở các NXB
nước ta hiện nay của Khuất Duy Hải; Luận án Phó Tiến sĩ Xuất bản và phát
hành SGK trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước của
Trương Bích Châu. Các luận án này đều đề cập đến vấn đề quản lý nhà nước
đối với hoạt động xuất bản ở tầm vĩ mô.
Tác giả Nguyễn Khắc Bình đã có công trình nghiên cứu về Đào tạo
theo hệ thống tín chỉ ở Việt Nam nhằm đưa ra một số biện pháp đổi mới tổ
chức thực thi chính sách về quản lý đào tạo ở các trường đại học, cao đẳng ở
Việt Nam. Tác giả cũng nêu lên vấn đề bất cập và hạn chế của đội ngũ BTV
trong biên soạn sách giáo dục ở các NXB trong đó có NXBGDVN (Tạp chí
Tâm lý học, tháng 7 năm 2014).
Tác giả Trần Thị Hà và Nguyễn Khắc Bình trong nghiên cứu Những
thành tựu và bất cập trong việc thực hiện chính sách đổi mới phát triển giáo
dục đại học ở Việt Nam theo hướng giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm
cho cơ sở đào tạo đã nêu những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo
trong đó có yếu tố tài liệu, giáo trình, SGK và công tác biên soạn, xuất bản
sách giáo dục ở nước ta hiện nay (Báo cáo tại Hội nghị Hợp tác giáo dục Việt
Nam – Nhật Bản tháng 9 năm 2012).
Trong lĩnh vực quản lý một NXB cụ thể có Luận văn Thạc sĩ Khoa học
giáo dục Biện pháp quản lý bồi dưỡng chuyên môn – nghiệp vụ cho BTV
8
NXBGD của Hoàng Lê Bách. Luận văn này đi sâu nghiên cứu vấn đề quản lý
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ BTV NXBGDVN.
Cho tới nay chưa có đề tài hay luận án nào nghiên cứu vấn đề phát triển
đội ngũ BTV của NXBGDVN. Vì vậy, nghiên cứu đề tài Phát triển đội ngũ
biên tập viên ở Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam trong bối cảnh đổi mới
giáo dục là vấn đề thực sự cần thiết.
1.2. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
1.2.1. Phát triển
Có nhiều cách hiểu về phát triển tuỳ theo việc xem xét vấn đề từ những
cấp độ khác nhau.
Theo Từ điển Tiếng Việt: "Phát triển là biến đổi hoặc làm cho biến đổi
theo chiều hướng tăng, từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản
đến phức tạp" [39, tr. 989]. Theo quan niệm này thì tất cả sự vật, hiện tượng,
con người và xã hội hoặc tự thân biến đổi, hoặc do tác động bên ngoài làm
cho biến đổi tăng tiến cả về số lượng và chất lượng. Đó là sự phát triển.
Theo quan điểm Triết học thì thuật ngữ phát triển dùng để khái quát
những vận động theo chiều hướng đi lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật hiện tượng. Cái
mới ra đời thay thế cái cũ, cái tiến bộ ra đời thay thế cái lạc hậu. Đó là quá
trình tích luỹ dần dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, là quá trình nảy
sinh cái mới trên cái cũ do đấu tranh giữa các mặt đối lập nằm trong bản thân
sự vật, hiện tượng. Sự phát triển không bao quát sự vận động đi lên của sự vật
hiện tượng. Quá trình phát triển sẽ làm thay đổi mối liên hệ, cơ cấu, phương
pháp tồn tại, vận động và chức năng vốn có theo chiều hướng ngày càng hoàn
thiện hơn của sự vật, hiện tượng.
Theo quan niệm của David C. Korten – nhà hoạt động xã hội nổi tiếng
của Mỹ trong tác phẩm Bước vào thế kỷ XXI, hành động tự nguyện và chương
trình nghị sự toàn cầu: "Phát triển là một tiến trình qua đó các thành viên
của xã hội được tăng những khả năng của cá nhân và định chế của mình
9
để huy động và quản lý các nguồn lực nhằm tạo ra những thành quả bền
vững, nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống, phù hợp với nguyện vọng của họ"
[20, tr. 119].
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về phát triển nhưng khái niệm phát
triển đề cập ở đây là phát triển con người: phát triển thể chất, phát triển lý trí,
trí tuệ, phát triển tâm lý, phát triển năng lực...
Tác giả Phạm Minh Hạc cho rằng, sự phát triển toàn diện của con
người trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế là sự phát triển
về khả năng của con người: Năng lực, trí tuệ và kỹ năng hành động; trình độ
nghiệp vụ chuyên môn hoá; Khả năng hợp tác và cạnh tranh; Khả năng di
chuyển nghề nghiệp; Khả năng hoạch định và đánh giá; sức chịu đựng sức ép,
căng thẳng do nhịp độ của cuộc sống và môi trường gây ra; Học vấn về công
nghệ; Hiểu biết về xã hội; Hiểu biết về quản lý hành chính [15].
Trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, một cách
phát triển khác có tính hệ thống, mang đậm tính chất nhân văn đã được định
hình rõ nét trong tư duy phát triển của nhiều quốc gia, đó là sự phát triển bền
vững, trong đó con người được coi là trung tâm của sự phát triển. Người ta
quan niệm: Phát triển là sự mở rộng phạm vi lựa chọn của con người để đạt
đến cuộc sống trường thọ, khoẻ mạnh, có ý nghĩa và xứng đáng với con
người. Phát triển con người phải là sự phát triển mang tính nhân văn. Đó là sự
mở rộng cơ hội cho người dân nhằm hướng tới một cuộc sống đầy đủ về vật
chất, phong phú về tinh thần.
Từ những quan niệm nêu trên, ta có thể hiểu: Phát triển là sự thay đổi,
sự tăng tiến về cả số lượng lẫn chất lượng của sự vật và hiện tượng, của con
người trong cộng đồng và xã hội.
1.2.2. Phát triển nguồn nhân lực
1.2.2.1. Khái niệm nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là tất cả những ai làm việc trong tổ chức, từ thủ trưởng
cao nhất đến nhân viên bình thường nhất, thấp nhất; từ người làm việc trí óc
10
đến làm việc tay chân; từ làm công việc phức tạp đến đơn giản; Kể cả những
người đang chờ đợi để có thể vào làm việc cho tổ chức, tức là nguồn dự trữ
của tổ chức.
1.2.2.2. Phát triển nguồn nhân lực
Hiện nay trên thế giới đang tồn tại khá nhiều định nghĩa về nguồn
nhân lực.
Leonard Nadler cho rằng, phát triển nguồn nhân lực và giáo dục, đào
tạo (theo nghĩa rộng) là những thuật ngữ có cùng nội hàm. Tác giả này đã
định nghĩa: "Phát triển nguồn nhân lực là làm tăng kinh nghiệm học được
trong một khoảng thời gian xác định để tăng cơ hội nâng cao năng lực thực
hiện công việc". Trong khi đó, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên
hợp quốc (UNESCO) sử dụng khái niệm phát triển nguồn nhân lực theo nghĩa
hẹp và cho rằng, phát triển nguồn nhân lực là làm cho toàn bộ sự lành nghề
của dân cư luôn luôn phù hợp yêu cầu phát triển của đất nước. Tổ chức Lao
động quốc tế (ILO) cho rằng, phát triển nguồn nhân lực bao hàm phạm vi
rộng hơn, không chỉ là sự chiếm lĩnh trình độ lành nghề hoặc vấn đề đào tạo
nói chung, mà còn là sự phát triển năng lực và sử dụng năng lực đó vào việc
làm có hiệu quả, cũng như thoả mãn nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân. Liên
hợp quốc (UN) thì nghiêng về sử dụng khái niệm phát triển nghồn nhân lực
theo nghĩa rộng, bao gồm giáo dục, đào tạo và sử dụng tiềm năng con người
nhằm thúc đẩy phát triển KT–XH và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Theo PGS.TS Mạc Văn Trang: "Phát triển nhân lực là nâng cao hiệu
quả hoạt động của tổ chức thông qua đào tạo, bồi dưỡng các cá nhân thành
viên" [36]. Như vậy, phát triển nhân lực là quá trình chuẩn bị lực lượng có đủ
các yếu tố cần thiết của các thành viên theo kịp sự thay đổi và chuyển biến
của một tổ chức. Sự chuẩn bị đó phải có kế hoạch và xuất phát từ mục tiêu
nhiệm vụ của tổ chức.
Theo sách trong tủ sách của Viện Kinh tế thế giới, tác giả Lê Thị Ái
Lâm đã viết trong cuốn Phát triển nguồn nhân lực thông qua GD&ĐT: Kinh
11
nghiệm Đông Á do NXB Khoa học xã hội ấn hành năm 2003, "Phát triển
nguồn nhân lực, xét từ góc độ một đất nước là quá trình tạo dựng lực lượng
lao động năng động có kỹ năng và sử dụng chúng có hiệu quả, xét từ góc độ
cá nhân là việc nâng cao kỹ năng, năng lực hành động và chất lượng cuộc
sống nhằm nâng cao năng suất lao động và thu nhập. Phát triển nguồn nhân
lực là các hoạt động nhằm nâng cao và khuyến khích đóng góp tốt hơn kiến
thức và thể lực của người lao động, đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu sản xuất.
Kiến thức có được nhờ quá trình đào tạo và tiếp thu kinh nghiệm, trong khi đó
thể lực có được nhờ chế độ dinh dưỡng, rèn luyện thân thể và chăm sóc y tế"
[23, tr. 16 –17].
Theo các tác giả Trần Xuân Cầu và Mai Quốc Chánh viết trong Giáo
trình Kinh tế nguồn nhân lực của Trường Đại học Kinh tế quốc dân do NXB
Đại học Kinh tế quốc dân ấn hành năm 2009: "Với cách tiếp cận phát triển từ
góc độ xã hội, phát triển nguồn nhân lực là quá trình tăng lên về mặt số lượng
(quy mô) nguồn nhân lực và nâng cao về mặt chất lượng nguồn nhân lực, tạo
ra cơ cấu nguồn nhân lực ngày càng hợp lý" [7; tr 104].
Ở phương diện quản lý nguồn nhân lực trong một tổ chức, phát triển
được hiểu như một mong muốn mang tính mục tiêu quản lý mà chủ thể quản
lý tổ chức đó cần đạt tới. Để đạt được mục tiêu đó, chủ thể quản lý phải có
những hoạt động quản lý nhằm làm cho hay tạo ra sự biến đổi của nguồn nhân
lực theo hướng tiến bộ không những về số lượng, cơ cấu mà cả về chất lượng.
Như vậy, trong luận văn này có thể hiểu: phát triển nguồn nhân lực trong
một tổ chức là hoạt động quản lý nhằm làm cho nguồn nhân lực biến đổi theo
hướng tiến bộ về số lượng, cơ cấu và đặc biệt là chất lượng để lực lượng người
lao động của một tổ chức đáp ứng được các yêu cầu và nhiệm vụ được giao.
1.2.3. Khái niệm đội ngũ biên tập viên
1.2.3.1. Khái niệm đội ngũ
Khái niệm đội ngũ được sử dụng rộng rãi trong xã hội như: đội ngũ trí
thức, đội ngũ công nhân, đội ngũ giáo viên, đội ngũ cán bộ...
12
Theo ý nghĩa quân sự thì thuật ngữ "đội ngũ" được hiểu là một tổ chức
gồm nhiều người, tập hợp thành một lực lượng.
Theo Từ điển Tiếng Việt: "Đội ngũ là tập hợp một số đông người, cùng
chức năng hoặc nghề nghiệp, hợp thành một lực lượng" [39, tr. 339].
Như vậy, khái niệm "đội ngũ" được cấu thành bởi các yếu tố: là một tập
hợp người; có cùng một mục đích, một lý tưởng; làm việc theo kế hoạch; gắn
bó với nhau về quyền lợi vật chất và tinh thần.
1.2.3.2. Khái niệm biên tập viên
"Biên tập viên là người làm công tác biên tập" [39, tr. 86].
– Theo nghĩa rộng, biên tập là một hoạt động, gồm việc tổ chức khai
thác, lựa chọn các tác phẩm để in, nhân bản, để truyền phát trong các chương
trình nghe nhìn, các chương trình phát thanh, truyền hình, báo in; đồng thời góp
phần sửa chữa nâng cao chất lượng tác phẩm; kiểm tra sai sót khi nhân bản;
góp phần vào việc phổ biến tác phẩm. Với nghĩa này hoạt động biên tập là một
khâu quan trọng của mọi hoạt động báo chí, truyền thông và nghệ thuật.
– Theo nghĩa hẹp, biên tập là khái niệm chỉ hoạt động biên tập xuất bản
trong các NXB, chủ yếu là biên tập sách. Đó là công việc khai thác, lựa chọn,
tổ chức bản thảo; gia công sửa chữa, hoàn chỉnh bản thảo để sẵn sàng nhân
bản thành XBP, nhằm đáp ứng nhu cầu văn hoá tinh thần của xã hội.
Như vậy, đối với một NXB, BTV được hiểu là người biên tập sách mà
hoạt động của họ là khai thác, lựa chọn, tổ chức bản thảo; gia công sửa chữa,
hoàn chỉnh bản thảo để sẵn sàng nhân bản thành XBP, nhằm đáp ứng nhu cầu
văn hoá tinh thần của xã hội.
BTV là người hoạt động (công tác) trong các NXB, chuyên làm việc
với tác phẩm, tham gia quá trình sửa chữa, gia công, làm cho tác phẩm trở nên
hoàn thiện hơn, có thể đáp ứng nhu cầu của xã hội về giá trị tinh thần là sách.
1.2.3.3. Khái niệm đội ngũ biên tập viên
Đội ngũ BTV là tập hợp các BTV làm công tác biên tập trong các
NXB, các toà soạn báo, tạp chí có đủ tiêu chuẩn đạo đức, trình độ chuyên
13
môn, nghiệp vụ, được tổ chức thành một lực lượng, cùng có chung nhiệm vụ
là thực hiện các mục tiêu xuất bản, phát hành, SXKD của NXB, của toà soạn
báo, tạp chí.
Đội ngũ BTV NXBGDVN là tập hợp những BTV làm nhiệm vụ tổ
chức biên soạn, biên tập sách giáo dục phục vụ các ngành học, bậc học nhằm
thực hiện tốt mục tiêu GD&ĐT và nhiệm vụ chính trị của NXBGDVN do
BGD&ĐT giao: đảm bảo cung ứng đầy đủ, đồng bộ SGK cho học sinh trên
mọi miền đất nước.
Đối với các nhà quản lý NXB, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là phải
gắn kết được các BTV, những cá thể với sắc thái riêng của mình, để tạo nên
một đội ngũ BTV
–
một khối thống nhất, đoàn kết, phát huy sức mạnh của
từng cá nhân tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả đội ngũ. Do đó, việc không
ngừng củng cố và phát triển đội ngũ BTV là nhiệm vụ quan trọng của NXB.
1.3. Bối cảnh đổi mới giáo dục và định hướng phát triển đội ngũ
BTV của CTCPDVXBGDHN
Phát triển con người được coi là mục tiêu hàng đầu của mỗi tổ chức.
Việc phát triển đội ngũ cán bộ hiện tại và trong suốt thời gian chuyển tiếp còn
giữ vai trò thiết thực hơn, vì nó sẽ ảnh hưởng lâu dài đến tương lai và lợi ích
của tổ chức. Mục tiêu chiến lược và định hướng mới cho chiến lược phát triển
10–20 năm tiếp theo là chủ động hoàn thành bộ SGK mới phục vụ tốt nhất
cho nhiệm vụ đổi mới căn bản toàn diện của ngành GD&ĐT nước nhà, tiếp
tục khẳng định vị thế của Công ty trong hệ thống NXBGDVN.
Kiên trì với phương châm lấy việc phục vụ nhiệm vụ chính trị là mục
tiêu, kinh doanh là phương tiện để đạt mục tiêu đó; đảm bảo cung ứng đầy đủ,
đồng bộ, kịp thời SGK phục vụ việc học tập và giảng dạy của học sinh, giáo
viên các trường phổ thông trong cả nước.
Tìm mọi biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm, không ngừng đa dạng
hoá sản phẩm giáo dục. Đặc biệt, nắm vững chủ trương đổi mới nội dung
14
chương trình giáo dục, phương pháp dạy và học để nâng cao chất lượng nội
dung, hình thức SGK, để SGK nước ta không thua kém SGK các nước phát
triển trong khu vực và thế giới về chất lượng nội dung, hình thức, nhưng có giá
bán rẻ và ổn định, phù hợp với mặt bằng mức sống của đại đa số người dân.
Nắm vững thời cơ và vận hội, vững bước phát triển, phấn đấu nâng cao
và phát huy vị thế của thương hiệu "Giáo dục". Đặc biệt, trong tình hình hiện
nay, xu thế đổi mới, một chương trình nhiều bộ SGK sẽ là phương án thay thế
việc sử dụng một chương trình, một bộ SGK duy nhất lâu nay vẫn được áp
dụng. Đây là Nghị quyết số 29 Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khoá XI về đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT.
Ngày 20 tháng 10 năm 2014, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Phạm Vũ Luận đã
báo cáo trước Quốc hội Tờ trình về Đề án đổi mới chương trình, SGK giáo
dục phổ thông. Nội dung cơ bản của Đề án bao gồm: Cơ sở xác định nguyên
tắc và nội dung đổi mới chương trình và SGK, nguyên tắc đổi mới chương
trình và SGK, nội dung đổi mới chương trình và SGK, nhiệm vụ và giải pháp
thực hiện đổi mới chương trình và SGK... Mục tiêu của Đề án là xây dựng,
ban hành chương trình giáo dục phổ thông mới, SGK phổ thông mới phù hợp
với hệ thống giáo dục phổ thông theo tinh thần Nghị quyết số 29–NQ/TW
ngày 04 tháng 11 năm 2013 Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương
khoá XI, Nghị quyết số 88/2014/QH13 ngày 28 tháng 11 năm 2014 của Quốc
hội và tuyên bố của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên hợp
quốc: "Học để biết – Học để làm – Học để chung sống – Học để tự khẳng
định mình", góp phần tạo chuyển biến căn bản, toàn diện về chất lượng, hiệu
quả giáo dục và phát triển con người Việt Nam toàn diện về Đức, Trí, Thể,
Mỹ, hướng tới "công dân toàn cầu".
Chương trình mới, SGK mới được xây dựng theo hướng coi trọng dạy
người với dạy chữ, rèn luyện, phát triển cả về phẩm chất và năng lực; chú
trọng giáo dục tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, nhân cách,
lối sống; phát hiện, bồi dưỡng năng khiếu và định hướng nghề nghiệp cho
15
mỗi học sinh; tăng cường năng lực ngoại ngữ, Tin học và các kỹ năng
sống, làm việc trong điều kiện hội nhập quốc tế; đẩy mạnh ứng dụng, phát huy
thành quả khoa học công nghệ thế giới, nhất là công nghệ giáo dục và công
nghệ thông tin.
Chương trình mới, SGK mới lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính
chủ động, tích cực, sáng tạo, khả năng tự học của học sinh; tăng cường tính
tương tác trong dạy và học giữa thầy với trò, trò với trò và giữa các thầy giáo,
cô giáo.
Đối với NXBGDVN nói chung và CTCPDVXBGDHN nói riêng, đây
sẽ vừa là thách thức, vừa là cơ hội. Là thách thức, vì NXBGDVN không còn
ưu thế là đơn vị duy nhất làm SGK, việc cạnh tranh sẽ rất gay gắt trong khi
đội ngũ cán bộ, công nhân viên chưa quen với cơ chế thị trường, thiếu năng
động, sáng tạo. Nhưng cũng lại là cơ hội, vì NXBGDVN sẽ phát huy được
các thế mạnh: có đội ngũ cán bộ biên tập tất cả các môn học, có năng lực,
chuyên môn giỏi, có gần 60 năm kinh nghiệm làm SGK; có tiềm lực kinh tế
mạnh, cơ sở vật chất đầy đủ, máy móc hiện đại tiếp cận với công nghệ
xuất bản tiên tiến,... để khẳng định vị trí, vai trò hậu cần quan trọng của
NXBGDVN đối với ngành Giáo dục nước nhà những năm qua và tiếp tục
phấn đấu giữ vững vị thế đó trong những năm tới mặc dù sẽ có nhiều thay đổi,
nhiều khó khăn, thách thức.
Việc làm SGK trong tình hình mới đòi hỏi NXBGDVN phải đầu tư
nhiều hơn nữa cả về tiềm lực con người và tiềm lực kinh tế, phải huy động
sức mạnh của cả tập thể, đặc biệt là đội ngũ BTV. Nhiều yêu cầu mới đặt ra
cho cán bộ biên tập, đó là:
–
Phải nâng cao toàn diện năng lực chuyên môn, nghiệp vụ.
–
Nắm vững chủ trương, định hướng đổi mới nội dung chương trình,
phương pháp giảng dạy... của BGD&ĐT để vận dụng, triển khai vào công tác
xuất bản, biên tập SGK.
16
–
Nhạy bén, năng động, sáng tạo trong khai thác đề tài và tổ chức bản
thảo. Tích cực đi thực tế, tìm hiểu, nắm bắt nhu cầu của học sinh, giáo viên
các vùng, miền phục vụ cho công tác làm bản thảo.
Nâng cao ý thức tự đào tạo, bồi dưỡng những kiến thức về kinh tế,
–
marketing... để tính được chi phí làm bản thảo từ đó có ý thức tiết kiệm trong
mọi khâu của quy trình làm sách vì mục tiêu giảm giá thành sản phẩm, tạo lợi
thế cạnh tranh.
–
Lấy tiêu chí chất lượng – hiệu quả làm thước đo cho mọi hoạt động.
Để đạt được các mục tiêu đặt ra, CTCPDVXBGDHN phải triển khai
các chiến lược hành động đồng bộ trên tất cả các mặt hoạt động, trong đó
chiến lược về nguồn nhân lực giữ vai trò quan trọng. Nội dung của chiến lược
nguồn nhân lực trong giai đoạn tới của Công ty tập trung vào xây dựng đội
ngũ, trong đó có đội ngũ BTV, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, có trình độ
cao, đủ khả năng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Nội dung
định hướng quản lý phát triển đội ngũ BTV CTCPDVXBGDHN được cụ thể
hoá trên các mặt sau:
1.3.1. Xây dựng đội ngũ BTV đủ về số lượng, cơ cấu phù hợp và
đồng bộ
Xây dựng quy hoạch, xác định nhu cầu điều chỉnh tổ chức, nhu cầu
tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng để có đội ngũ BTV đủ số lượng, cơ cấu hợp
lý, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của đơn vị. Sắp xếp bộ máy, cơ cấu các
ban biên tập đảm bảo đủ, gọn nhẹ, năng động, linh hoạt, hạn chế việc tuyển
dụng thêm, tận dụng tối đa nhân lực sẵn có.
Để hoàn thành tốt việc làm SGK mới sau năm 2015 của Công ty dẫn tới
nhu cầu bổ sung cán bộ biên tập, thu hút người tài, trẻ hoá đội ngũ; đề cao sự
năng động, sáng tạo, đổi mới trong cách nghĩ, cách làm; giảm bớt và triệt tiêu
sự bảo thủ, trì trệ, theo lối mòn.
17
Quá trình xây dựng, phát triển đội ngũ BTV đủ về số lượng, đồng bộ về
cơ cấu phải vừa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt, vừa đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ lâu dài vì sự phát triển của Công ty và của từng BTV.
Đội ngũ BTV CTCPDVXBGDHN đang được điều chỉnh trong 1–2
năm tới: tuyển dụng bổ sung BTV cho các ban biên tập còn thiếu, điều
chuyển những BTV không thích nghi được với sự đổi mới sang các bộ phận
khác; tinh giản bộ máy các ban biên tập gọn nhẹ nhưng linh hoạt, năng động,
hoạt động hiệu quả.
1.3.2. Xây dựng đội ngũ BTV có bản lĩnh chính trị vững vàng, có
trình độ cao về chuyên môn, nghiệp vụ, năng động, sáng tạo đủ khả năng
thực hiện chiến lược đa dạng hoá sản phẩm, mở rộng thị trường, giữ vững
vị thế số 1 về làm SGK
– Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 42–CT/TW ngày 29/8/2005 về việc nâng
cao chất lượng toàn diện của hoạt động xuất bản để đổi mới công tác đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ BTV nhằm nâng cao từng bước trình độ mọi mặt của BTV.
100% BTV được đào tạo và có chứng chỉ hành nghề biên tập. Đào tạo đội ngũ
BTV biết sử dụng ngoại ngữ và thành thạo máy tính. Phấn đấu đến năm 2017
có 100% BTV làm biên tập trên máy vi tính. Đây là thời điểm bắt tay vào việc
biên tập SGK theo chương trình mới.
–
Tiếp tục duy trì các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cho BTV, đổi mới
các hình thức, nội dung đào tạo bồi dưỡng nhằm cập nhật các kiến thức, kỹ
năng còn khiếm khuyết. BTV CTCPDVXBGDHN nhất thiết phải có nền kiến
thức cơ bản, toàn diện, có phông văn hoá rộng. Chỉ có như vậy mới có thể đáp
ứng được công tác biên tập trong tình hình mới.
–
Giáo dục tư tưởng chính trị, động viên cán bộ thực sự hoà nhập với
mô hình hoạt động kinh tế mới.
–
Xây dựng các chính sách khuyến khích đối với BTV, tạo động lực
tích cực đào tạo nâng cao trình độ; phát huy tính năng động, sáng tạo khai
18
thác nguồn chất xám trong xã hội để mở rộng nguồn đề tài, tăng số lượng đề tài
và số lượng phát hành.
–
Nghiên cứu, đề xuất các giải pháp đổi mới quản lý các ban biên tập để
phù hợp với tình hình mới, cơ chế thị trường, tạo động lực phát triển.
–
Tăng cường vai trò lãnh đạo của cán bộ quản lý ban biên tập. Người
cán bộ quản lý ban biên tập trong tình hình mới phải hội đủ các tiêu chuẩn:
+ Chuyên môn, tay nghề phải cao hơn những người khác
+ Nắm được sở trường, sở đoản của từng cán bộ trong ban
+ Giúp cho mỗi BTV phát huy sở trường, bỏ bớt sở đoản
+ Đối xử công bằng, thưởng phạt công minh
+ Chịu trách nhiệm toàn bộ về chất lượng sản phẩm do ban mình làm ra
+ Lo trước mọi người và hưởng sau mọi người
Một đội ngũ BTV đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, có chất lượng cao
cả về bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống và trình độ, năng lực chuyên môn,
nghiệp vụ sẽ là một tiềm lực mạnh, xứng đáng là nguồn nhân lực số một của
NXBGDVN.
1.3.3. Đổi mới hình thức trả lương, thực hiện khoán quỹ lương đến
từng ban biên tập
Cải cách cơ chế lương – thưởng, thực hiện khoán quỹ lương, trả lương
theo doanh thu, tạo động lực thúc đẩy năng suất lao động. Thu nhập của BTV
sẽ phụ thuộc vào doanh thu và chi phí đầu vào của từng tên sách. Bản thảo
nào chi phí thấp thì lợi nhuận sẽ cao và ngược lại. Bản thảo nào phát hành
được nhiều thì doanh thu lớn, tương ứng thu nhập của BTV sẽ nhiều hơn.
Khoán quỹ lương và trả lương theo doanh thu nhằm khuyến khích ý
thức tiết kiệm vật tư và các chi phí làm bản thảo đồng thời tạo nên sự công
bằng trong đánh giá và đãi ngộ, tạo động lực làm việc thực sự cho BTV.