Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

ĐỀ tài THỰC TRẠNG lạm PHÁT ở VIỆT NAM từ 2008 2011 và các GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ lạm PHÁTỞ nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (881.88 KB, 50 trang )

ĐỀ TÀI: THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TỪ 2008-2011
VÀ CÁC GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁTỞ NƯỚC TA
HIỆN NAY


PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU:
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................ 2
2. Mục tiêu nghiên cứu........................................................................... 3
3. Đối tượng nghiên cứu ......................................................................... 4
4. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................ 4
5. Phương pháp nghiên cứu .................................................................... 4
6. Tình hình nghiên cứu ......................................................................... 4
7. Hướng đóng của đề tài ....................................................................... 5
8. Cấu trúc đề tài .................................................................................... 5
B. PHẦN NỘI DUNG:
Chương 1: Cơ sở lý luận về lạm phát: ................................................ 6
1.1.

Khái niệm lạm phát .................................................................. 6

1.2.

Phân loại lạm phát .................................................................... 6

1.3.

Đo lường lạm phát và các chỉ tiêu đo lường lạm phát ............... 7


1.3.1. Đo lường lạm phát............................................................... 7
1.3.2. Các chỉ tiêu đo lường lạm phát ............................................ 8
1.4.

Nguyên nhân của lạm phát ....................................................... 9

1.5.

Tác động của lạm phát ........................................................... 10

Chương 2: Thực trạng lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2008-2011: 12
2.1. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2008-2011.............. 12
2.2. Nguyên nhân của lạm phát ở Việt Nam..................................... 23
2.3.Tác động của lạm phát đối với kinh tế-xã hội ............................ 30
Chương 3: Các giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam hiện nay:32
3.1. Thực hiện chính sách tài chính- tiền tệ một cách thận trọng, linh
hoạt và hiệu quả .............................................................................. 32
3.2.Thực hiện chính sách tài khóa thu hẹp, thắt chặt đầu tư công,
giảm bội chi ngân sách .................................................................... 35
1


PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

3.3. Chính sách ổn định tỷ giá ......................................................... 36
3.4. Thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm
chế nhập siêu, sử dụng tiết kiệm năng lượng ................................... 37
C. PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ: .............................................. 39
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 40


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Lạm phát là một hiện tượng kinh tế xã hội gắn với nền kinh tế thị
trường. Nó là một trong những hiện tượng quan trọng nhất của thế kỷ XXI và ảnh
tới mọi hệ thống kinh tế dù phát triển hay không.
Lạm phát được coi là một căn bệnh kinh niên của mọi nền kinh tế hàng hoátiền tệ.Nó có tính thường trực,nếu không thường xuyên kiểm soát,không có những
giải pháp chống lạm phát thường trực,đồng bộ và hữu hiệu thì lạm phát có thể xảy
ra ở bất cứ nền kinh tế hàng hoá nào với bất kì chế độ xã hội nào.
Trong đời sống hằng ngày , lạm phát là một trong những vấn đề kinh tế vĩ
mô, nó trở thành mối quan tâm lớn của các nhà chính trị và công chúng .Lạm phát
giờ đây đã trở thành vấn đề toàn cầu chứ không phải là vấn đề riêng của Việt Nam.
Châu Âu , Châu Úc , Châu Mỹ , hay Việt Nam đều gặp rủi ro lạm phát ở những
mức độ khác nhau và đang dùng nhiều bài thuốc khác nhau để chống lại lạm phát .
Lạm phát như 1 căn bệnh của nền kinh tế thị trường , nó là hai vấn đề hết sức phức
tạp đòi hỏi mỗi quốc gia phải có sự đầu tư lớn về thời gian và trí tuệ mới có thể
mong muốn đạt kết quả tốt . Kiểm soát lạm phát là nhịêm vụ hàng đầu của chính
phủ .
Ở Việt Nam, từ sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, nền kinh
tế nước ta đã trải qua nhiều bước thăng trầm : từ khủng hoảng trầm trọng với mức
độ lạm phát lên đến 3 con số, tăng trưởng thấp, đời sống nhân dân khó khăn dần
2


PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

tiến đến tỷ lệ lạm phát ổn định , tăng trưởng khá, rồi lại đứng trước thách thức và
nguy cơ tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế các nước trong khu vực và trên thế
giới với tăng trưởng chậm và nguy cơ suy thoái. Ở nước ta một số năm tỷ lệ lạm
phát ở mức độ thấp, nhưng đến nay lạm phát lại có nguy cơ tiềm ẩn và tái phát
cao. Nhất là cho đến thời điểm này giá cả các mặt hàng thiết yếu trong và ngoài

nước diễn ra rất phức tạp. Giá hầu hết các mặt hàng nhập khẩu thiết yếu như :
xăng dầu, sắt thép, chất dẻo, phân bón … đều tăng. Đặc biệt trong thời gian gần
đây khi giá vàng trong ngoài nước, tỷ giá ngoại hối đột ngột tăng cao rồi lại có xu
hướng giảm dần thì một câu hỏi đặt ra : liệu đó có phải là dấu hiệu báo trước của
lạm phát tăng cao? Tình hình đó đòi hỏi nhà nước phải có những quan điểm và
giải pháp cẫp vĩ mô cũng như vi mô để kiềm chế cũng như khắc phục lạm phát .
Chúng ta đang trong quá trình chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế, từ nền kinh tế
tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhắc đến
nền kinh tế thị trường thì vấn đề lạm phát là một vấn đề mang tính tất yếu và
khách quan, và muốn được hưởng những lợi ích về vật chất mà nền kinh tế thị
trường có thể mang lại thì chúng ta phải khắc phục và giải quyết cho được vấn đề
lạm phát.
Lạm phát gây ra nhiều tác hại cho nền kinh tế như tình trạng khủng
hoảng,công nhân đình công đòi tăng lương,giá nguyên liệu tăng đột biến,thảm hoạ
tự nhiên,chi phí sản xuất tăng…
Trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội , lạm phát nổi lên là một vấn đề
đáng quan tâm. Cùng với sự phát triển đa dạng và phong phú của nền kinh tế thì
nguyên nhân dẫn tới lạm phát càng ngày càng phức tạp. Trong nền kinh tế tăng
trưởng nhanh của nước ta luôn thường trực nguy cơ tái lạm phát cao, mà trong sự
nghiệp phát triển kinh tế thị trường ở nước ta lại theo định hướng xã hội chủ nghĩa
có sự điều tiết của nhà nước thì việc nghiên cứu về lạm phát,tìm hiểu nguyên nhân

3


PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

và các biện pháp chống lạm phát có vai trò to lớn góp phần vào sự nghiệp phát
triển của đất nước.
Nước ta từ tháng 12/2007, do tác động của tình hình phát triển kinh tế chung

của hội nhập khu vực và thế giới, chỉ số giá tiêu dùng cho đến nay vẫn ở mức 2
con số vượt qua ngưỡng lạm phát cho phép của mỗi quốc gia là 9%. Mặc dù chính
phủ đưa ra các biện pháp để kiềm chế lạm phát song vẫn chưa ổn định, giá cả vẫn
ở mức cao. Tình hình lạm phát năm 2010 và những tháng đầu năm 2011 đã và
đang có nhiều diễn biến trái chiều với sự dự đoán và có nhều biến động do ảnh
hưởng của tình hình kinh tế thế giới cũng như các chính sách kinh tế trong nước.
Tình hình lạm phát ở Việt Nam hiện nay là một chủ đề cần phải đưa ra bàn
luận , nghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn, từ đó có những giải pháp can thiệp
một cách linnh hoạt, hiệu quả ổn định vĩ mô nền kinh tế nước ta trong thời kỳ hội
nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy nghiên cứu lạm phát ở nước ta đang là một vấn đề cấp
thiết hiện nay.
Từ những lí do trên nên em chọn đề tài “ Thực trạng lạm phát ở Việt Nam từ
2008-2011 và các giải pháp kiềm chế lạm phát ở nước ta hiện nay”.
2.Mục đích nghiên cứu:
Đề tài này nhằm mục đích phân tích những nguyên nhân và diễn biến thực
tiễn về lạm phát của Việt Nam giai đoạn năm 2008-2011, những tác động của lam
phát đến nền kinh tế xã hội, những giải pháp kiềm chế lạm phát ổn định và phát
triển kinh tế quốc gia, đồng thời đưa ra những dự báo về tình hình lạm phát trong
thời gian tới.
3.Đối tượng nghiên cứu:
Xuất phát từ lý do trên, đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề sau:
- Tìm hiểu một số lý luận chung về lạm phát như khái niệm, phân loại,
nguyên nhân, các tác động của lạm phát,…
4


PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

- Khái quát thực trạng lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2008-2011.
- Dựa trên tình hình lạm phát trong giai đoạn này đưa ra những nguyên

nhân, các giải pháp kiềm chế đồng thời xem xét hiệu quả của chính sách kiềm chế
lạm phát tác động như thế nào đối với nền kinh tế.
4. Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng, nguyên nhân và tác động lạm phát ở
Việt Nam gian đoạn 2008-2011 và hiệu quả của chính sách kiềm chế lạm phát của
chính phủ.
5.Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng các phương pháp sau để nghiên cứu về lạm phát:
 Phương pháp tổng hợp
 Phương pháp phân tích
 Phương pháp so sánh
 Phương pháp đối chiếu
 Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
 Phương pháp thống kê…
6. Tình hình nghiên cứu:
Trong thời gian gần đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thế giới
thì lạm phát đã và đang trở thành một vấn đề mang tính thời sự cấp bách đối với
nhiều quốc gia. Lạm phát trong thời kì nào thì cũng luôn mang cùng một bản chất
tuy nhiên trong mỗi một thời kì khác nhau của nền kinh tế thì lạm phát lại có những
biểu hiện mới và có những nguyên nhân mới cần phải được xem xét. Vì vậy tuy đã
có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học về lạm phát nhưng tôi nghĩ việc tiếp
tục nghiên cứu về vấn đề “lạm phát ở Việt Nam” là rất cần thiết và mang tính cấp
thiết hiện nay, từ đó giúp đưa ra được những giải pháp nhằm giải quyết tình trạng
lạm phát, giúp cho nền kinh tế phát triển và tăng trưởng một cách bền vững.
5


PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

7. Hướng đóng góp của đề tài:

Từ việc nghiên cứu các giai đoạn lạm phát từ 2008 đến nay để có cái nhìn
tổng quát hơn về lạm phát ở Việt Nam qua đó đánh giá hiệu quả của các chính
sách mà chính phủ đưa ra từ đó những đề xuất những giải pháp nhằm kiểm soát và
kiềm chế sự gia tăng tỷ lệ lạm phát trong thời gian tới.
8. Cấu trúc đề tài:
Ngoài phần mở đầu và kết luận đề tài gồm có 3 chương:
Chương 1: cơ sở lý luận về lạm phát;
Chương 2: thực trạng lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2008-2011;
Chương 3: các giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam hiện nay.

6


PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT
1.1. Khái niệm lạm phát:
-Trong bộ "Tư bản" nổi tiếng của mình C. Mác viết: "Việc phát hành tiền
giấy phát hành vào lưu thông vượt quá số lượng vàng mà nó đại diện thì giá trị của
tiền giấy giảm xuống và tình trạng lạm phát xuất hiện.
- Một định nghĩa nữa về lạm phát do các nhà kinh tế học hiện đại đưa ra và nó
được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực nghiên cứu thị trường : "Lạm phát là sự tăng
lên của mức giá trung bình theo thời gian"
- Lạm phát được đặc trưng bởi chỉ số lạm phát. Nó chính là GNP danh nghĩa/
GNP thực tế. Trong thực tế nó được thay thế bằng tỷ số giá tiêu dùng hoặc chỉ số
giá bán buôn Ip = aip.d
ip: chỉ số giá cả của từng loại nhóm hàng
d: tỷ trọng mức tiêu dùng của từng loại hàng.
-Trong kinh tế học, thuật ngữ “lạm phát” được dùng để chỉ sự tăng lên theo

thời gian của mức giá chung hầu hết các hàng hoá và dịch vụ so với thời điểm một
năm trước đó. Như vậy tình trạng lạm phát được đánh giá bằng cách so sánh giá cả
của hai loại hàng hoá vào hai thời điểm khác nhau, với giả thiết chất lượng không
thay đổi.
-Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức
mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá
tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác.
1.2. Phân loại lạm phát:
- Thiểu phát: tỷ lệ lạm phát ở mức âm và dễ bi nhầm với giảm phát.

7


PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

- Lạm phát vừa phải: mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá từ 3 đến
10% một năm, còn gọi là lạm phát một con số. Lạm phát vừa phải làm cho giá cả
biến động tương đối. Trong thời kỳ này nền kinh tế hoạt động bình thường, đời
sống của người lao động ổn định. Sự ổn định đó được biểu hiện: giá cả tăng lên
chậm, lãi suất tiền gửi không cao, không xảy ra với tình trạng mua bán và tích trữ
hàng hoá với số lượng lớn...Có thể nói lạm phát vừa phải tạo tâm lý an tâm cho
người lao động chỉ trông chờ vào thu nhập. Trong thời gian này các hãng kinh
doanh có khoản thu nhập ổn định, ít rủi ro nên sẵn sàng đầu tư cho sản xuất, kinh
doanh.
- Lạm phát phi mã: mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá tương đối
nhanh với tỷ lệ 2 hoặc 3 con số một năm, nhưng vẫn thấp hơn siêu lạm phát.. Ở
mức phi mã, lạm phát làm cho giá cả chung tăng lên nhanh chóng, gây biến động
lớn về kinh tế , các hợp đồng được chỉ số hoá. Lúc này người dân tích trữ hàng
hoá, vàng bạc, bất động sản và không bao giờ cho vay tiền ở mức lãi suất bình
thường.

Nhìn chung lạm phát thì phi mã được duy trì trong thời gian dài sẽ gây ra
những biến dạng kinh tế nghiêm trọng. Trong bối cảnh đó, đồng tiền sẽ bị mất giá
nhanh, cho nên mọi người chỉ giữ lượng tiền tối thiểu vừa đủ cho các giao dịch
hàng ngày. Mọi người có xu hướng tích trữ hàng hóa, mua bất động sản và chuyển
sang sử dụng vàng hoặc các ngoại tệ mạnh để làm phương tiện thanh toán cho các
giao dịch có giá trị lớn và tích lũy của cải.
- Siêu lạm phát: Siêu lạm phát là lạm phát "mất kiểm soát", tốc độ lưu thông
tiền tệ tăng kinh khủng, giá cả tăng nhanh không ổn định, tiền lương thực tế bị
giảm mạnh, tiền tệ mất giá nhanh chóng, thông tin không còn chính xác, các yếu tố
thị trường biến dạng và hoạt động kinh doanh lâm vào tình trạng rối loạn. Tuy
nhiên, siêu lạm phát rất ít khi xảy ra.

8


PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

Không có định nghĩa chính xác về siêu lạm phát. Một định nghĩa cổ điển về
siêu lạm phát do nhà kinh tế ngưười Mỹ Phillip Cagan đưa ra là mức lạm phát
hàng tháng từ 50% trở lên (nghĩa là cứ 31 ngày thì giá cả lại tăng gấp đôi).
1.3. Đo lường lạm phát và các chỉ tiêu đo lường lạm phát:
1.3.1. Đo lường lạm phát:
-Lạm phát được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả của
một lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế (thông thường dựa
trên dữ liệu được thu thập bởi các tổ chức Nhà nước, mặc dù các liên đoàn lao
động và các tạp chí kinh doanh cũng làm việc này). Giá cả của các loại hàng hóa
và dịch vụ được tổ hợp với nhau để đưa ra một mức giá cả trung bình, gọi là mức
giá trung bình của một tập hợp các sản phẩm. Chỉ số giá cả là tỷ lệ mức giá trung
bình ở thời điểm hiện tại đối với mức giá trung bình của nhóm hàng tương ứng ở
thời điểm gốc. Tỷ lệ lạm phát thể hiện qua chỉ số giá cả là tỷ lệ phần trăm mức

tăng của mức giá trung bình hiện tại so với mức giá trung bình ở thời điểm gốc.
-Để dễ hình dung có thể coi mức giá cả như là phép đo kích thước của một
quả cầu, lạm phát sẽ là độ tăng kích thước của nó.
- Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị của
chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ số,
cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện. Tuy nhiên
thước đo lạm phát phổ biến nhất là CPI- Chỉ số giá tiêu dùng( consumer price
index) đo giá cả của một số lượng lớn các loại hàng hóa và dịch vụ khác nhau bao
gồm thực phẩm, lương thực, chi trả cho các dịch vụ y tế…,được mya bởi “người
tiêu dùng thông thường”
1.3.2. Các chỉ tiêu đo lường lạm phát:
- Chỉ số giá sinh hoạt (viết tắt tiếng Anh: CLI) là sự tăng trên lý thuyết giá cả
sinh hoạt của một cá nhân so với thu nhập, trong đó các chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
9


PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

được giả định một cách xấp xỉ. Các nhà kinh tế học tranh luận với nhau là có hay
không việc một CPI có thể cao hơn hay thấp hơn so với CLI dự tính. Điều này
được xem như là "sự thiên lệch" trong phạm vi CPI. CLI có thể được điều chỉnh
bởi "sự ngang giá sức mua" để phản ánh những khác biệt trong giá cả của đất đai
hay các hàng hóa khác trong khu vực (chúng dao động một cách rất lớn từ giá cả
thế giới nói chung).
- Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đo giá cả các hàng hóa hay được mua bởi "người
tiêu dùng thông thường" một cách có lựa chọn. Trong nhiều quốc gia công nghiệp,
những sự thay đổi theo phần trăm hàng năm trong các chỉ số này là con số lạm
phát thông thường hay được nhắc tới. Các phép đo này thường được sử dụng trong
việc chuyển trả lương, do những người lao động mong muốn có khoản chi trả
(danh định) tăng ít nhất là bằng hoặc cao hơn tỷ lệ tăng của CPI. Đôi khi, các hợp

đồng lao động có tính đến các điều chỉnh giá cả sinh hoạt, nó ngụ ý là khoản chi
trả danh định sẽ tự động tăng lên theo sự tăng của CPI, thông thường với một tỷ lệ
chậm hơn so với lạm phát thực tế (và cũng chỉ sau khi lạm phát đã xảy ra).
- Chỉ số giá sản xuất (PPI) đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận được không
tính đến giá bổ sung qua đại lý hoặc thuế doanh thu. Nó khác với CPI là sự trợ cấp
giá, lợi nhuận và thuế có thể sinh ra một điều là giá trị nhận được bởi các nhà sản
xuất là không bằng với những gì người tiêu dùng đã thanh toán. Ở đây cũng có
một sự chậm trễ điển hình giữa sự tăng trong PPI và bất kỳ sự tăng phát sinh nào
bởi nó trong CPI. Rất nhiều người tin rằng điều này cho phép một dự đoán gần
đúng và có khuynh hướng của lạm phát CPI "ngày mai" dựa trên lạm phát PPI
ngày "hôm nay", mặc dù thành phần của các chỉ số là khác nhau; một trong những
sự khác biệt quan trọng phải tính đến là các dịch vụ.
- Chỉ số giá bán buôn đo sự thay đổi trong giá cả các hàng hóa bán buôn
(thông thường là trước khi bán có thuế) một cách có lựa chọn. Chỉ số này rất giống
với PPI.
10


PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

- Chỉ số giá hàng hóa đo sự thay đổi trong giá cả của các hàng hóa một cách
có lựa chọn. Trong trường hợp bản vị vàng thì hàng hóa duy nhất được sử dụng là
vàng. Khi nước Mỹ sử dụng bản vị lưỡng kim thì chỉ số này bao gồm cả vàng và
bạc.
- Chỉ số giảm phát GDP dựa trên việc tính toán của tổng sản phẩm quốc nội:
Nó là tỷ lệ của tổng giá trị GDP giá thực tế (GDP danh định) với tổng giá trị GDP
của năm gốc, từ đó có thể xác định GDP của năm báo cáo theo giá so sánh hay
GDP thực.
1.4. Nguyên nhân của lạm phát:
- Lạm phát do cầu kéo: Kinh tế học Keynes cho rằng nếu tổng cầu cao hơn

tổng cung ở mức toàn dụng lao động, thì sẽ sinh ra lạm phát. Trong khi đó, chủ
nghĩa tiền tệ giải thích rằng do tổng cầu cao hơn tổng cung, người ta có cầu về tiền
mặt cao hơn, dẫn tới cung tiền phải tăng lên để đáp ứng. Do đó có lạm phát. Nhiều
người có trong tay một khoản tiền lớn và họ sẵn sàng chi trả cho một hàng hoá hay
dịch vụ với mức giá cao hơn bình thường. Khi nhu cầu về một mặt hàng tăng lên sẽ
kéo theo sự tăng lên về giá cả của mặt hàng đó. Giá cả của các mặt hàng khác cũng
theo đó leo thang, dẫn đến sự tăng giá của hầu hết các loại hàng hoá trên thị trường.
Lạm phát do sự tăng lên về cầu được gọi là “lạm phát do cầu kéo”, nghĩa là cầu về
một hàng hoá hay dịch vụ ngày càng kéo giá cả của hàng hoá hay dịch vụ đó lên
mức cao hơn.các nhà khoa học mô tả tình trạng lạm phát này là "quá nhiều tiền
đuổi theo quá ít hàng hóa”
- Lạm phát do cầu thay đổi: Giả dụ lượng cầu về một mặt hàng giảm đi, trong
khi lượng cầu về một mặt hàng khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung cấp
độc quyền và giá cả có tính chất cứng nhắc phía dưới (chỉ có thể tăng mà không thể
giảm), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn không giảm giá. Trong khi đó mặt
hàng có lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng lên, nghĩa là
lạm phát.
11


PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

- Lạm phát do chi phí đẩy: Chi phí của các doanh nghiệp bao gồm tiền lương,
giá cả nguyên liệu đầu vào, máy móc, chi phí bảo hiểm cho công nhân, thuế... Khi
giá cả của một hoặc vài yếu tố này tăng lên thì tổng chi phí sản xuất của các xí
nghiệp chắc chắn cũng tăng lên. Nếu tiền công danh nghĩa tăng lên, thì chi phí sản
xuất của các xí nghiệp tăng. Các xí nghiệp vì muốn bảo toàn mức lợi nhuận của
mình sẽ tăng giá thành sản phẩm. Mức giá chung của toàn thể nền kinh tế cũng
tăng.
- Lạm phát do cơ cấu: Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh

nghĩa cho người lao động. Ngành kinh doanh không hiệu quả, vì thế, không thể
không tăng tiền công cho người lao động trong ngành mình. Nhưng để đảm bảo
mức lợi nhuận, ngành kinh doanh kém hiệu quả sẽ tăng giá thành sản phẩm. Lạm
phát nảy sinh vì điều đó.
- Lạm phát do xuất khẩu: Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng
cung, hoặc sản phẩm được huy động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm
cho thị trường trong nước giảm khiến tổng cung thấp hơn tổng cầu. Lạm phát nảy
sinh do tổng cung và tổng cầu mất cân bằng.
- Lạm phát do nhập khẩu: Sản phẩm không tự sản xuất trong nước được mà
phải nhập khẩu. Khi giá nhập khẩu tăng (do nhà cung cấp nước ngoài tăng giá như
trong trường OPEC quyết định tăng giá dầu, hay do đồng tiền trong nước xuống
giá) thì giá bán sản phẩm đó trong nước cũng tăng. Lạm phát hình thành khi mức
giá chung bị giá nhập khẩu đội lên.
- Lạm phát tiền tệ: Cung tiền tăng (chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua
ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền ngoại tệ khỏi mất giá so với trong nước; hay
chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua công trái theo yêu cầu của nhà nước)
khiến cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên là nguyên nhân gây ra lạm phát.

12


PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

- Lạm phát đẻ ra lạm phát: Khi nhận thấy có lạm phát, cá nhân với dự tính
duy lý sẽ cho rằng tới đây giá cả hàng hóa sẽ còn tăng, nên đẩy mạnh tiêu dùng
hiện tại. Tổng cầu trở nên cao hơn tổng cung, gây ra lạm phát.
1.5. Tác động của lạm phát:
- Các hiệu ứng tích cực:
Nhà kinh tế đoạt giải Nobel James Tobin nhận định rằng lạm phát (tỷ lệ
tăng giá mang giá trị dương) vừa phải sẽ có lợi cho nền kinh tế. Ông dùng từ

"dầu bôi trơn" để miêu tả tác động tích cực của lạm phát. Mức lạm phát vừa
phải làm cho chi phí thực tế mà nhà sản xuất phải chịu để mua đầu vào lao động
giảm đi. Điều này khuyến khích nhà sản xuất đầu tư mở rộng sản xuất. Việc làm
được tạo thêm. Tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm.
- Các hiệu ứng tiêu cực:
+ Đối với lạm phát dự kiến được:
Trong trường hợp lạm phát có thể được dự kiến trước thì các thực thể
tham gia vào nền kinh tế có thể chủ động ứng phó với nó, tuy vậy nó vẫn gây ra
những tổn thất cho xã hội:


Chi phí mòn giày: lạm phát giống như một thứ thuế đánh vào người

giữ tiền và lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát nên
lạm phát làm cho người ta giữ ít tiền hay làm giảm cầu về tiền. Khi đó họ cần
phải thường xuyên đến ngân hàng để rút tiền hơn. Các nhà kinh tế đã dùng
thuật ngữ "chi phí mòn giày" để chỉ những tổn thất phát sinh do sự bất tiện
cũng như thời gian tiêu tốn mà người ta phải hứng chịu nhiều hơn so với không
có lạm phát.


Chi phí thực đơn: lạm phát thường sẽ dẫn đến giá cả tăng lên, các

doanh nghiệp sẽ mất thêm chi phí để in ấn, phát hành bảng giá sản phẩm.


Làm thay đổi giá tương đối một cách không mong muốn: trong trường

hợp do lạm phát doanh nghiệp này tăng giá (và đương nhiên phát sinh chi phí
13



PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

thực đơn) còn doanh nghiệp khác lại không tăng giá do không muốn phát sinh
chi phí thực đơn thì giá cả của doanh nghiệp giữ nguyên giá sẽ trở nên rẻ tương
đối so với doanh nghiệp tăng giá. Do nền kinh tế thị trường phân bổ nguồn lực
dựa trên giá tương đối nên lạm phát đã dẫn đến tình trạng kém hiệu quả xét trên
góc độ vi mô.


Lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân trái

với ý muốn của người làm luật do một số luật thuế không tính đến ảnh hưởng
của lạm phát. Ví dụ: trong trường hợp thu nhập thực tế của cá nhân không thay
đổi nhưng thu nhập danh nghĩa tăng do lạm phát thì cá nhân phải nộp thuế thu
nhập trên cả phần chênh lệch giữa thu nhập danh nghĩa và thu nhập thực tế.


Lạm phát gây ra sự nhầm lẫn, bất tiện: đồng tiền được sử dụng để làm

thước đo trong tính toán các giao dịch kinh tế, khi có lạm phát cái thước này co
giãn và vì vậy các cá nhân khó khăn hơn trong việc ra các quyết định của mình.
+ Đối với lạm phát không dự kiến được:
 Đây là loại lạm phát gây ra nhiều tổn thất nhất vì nó phân phối lại của
cải giữa các cá nhân một cách độc đoán. Các hợp đồng, cam kết tín dụng
thường được lập trên lãi suất danh nghĩa khi lạm phát cao hơn dự kiến người
đi vay được hưởng lợi còn người cho vay bị thiệt hại, khi lạm phát thấp hơn dự
kiến người cho vay sẽ được lợi còn người đi vay chịu thiệt hại. lạm phát không
dự kiến thường ở mức cao hoặc siêu lạm phát nên tác dụng của nó rất lớn.

Các nhà kinh tế có quan điểm rất khác nhau về quy mô của các tác động tiêu
cực của lạm phát, thậm chí nhiều nhà kinh tế cho rằng tổn thất do lạm phát gây
ra là không đáng kể và điều này được coi là đúng khi tỷ lệ lạm phát ổn định và
ở mức vừa phải. Khi lạm phát biến động mạnh, tác động xã hội của nó thông
qua việc phân phối lại của cải giữa các cá nhân một cách độc đoán rõ ràng là
rất lớn và do vậy chính phủ của tất cả các nước đều tìm cách chống lại loại lạm
phát này.
14


PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2008 2011:
2.1. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2008-2011
 Năm 2008
- Tỷ lệ lạm phát đang ở mức cao nhất kể từ năm 1991, khi Việt Nam gặp khó
khăn về tài chính. Các chuyên gia cảnh báo lạm phát trong cả năm 2008 có thể lên
trên 30%, bộ Kế hoạch - Đầu tư VN dự đoán con số lạm phát cả năm sẽ vào khoảng
25%.
-Theo thông tin của tổng cục thống kê, chỉ số lạm phát khởi điểm năm 2008
với mức chỉ số CPI tháng 1 là 2.38% cho thấy dấu hiệu lạm phát tăng cao trong
năm 2008, lạm phát bắt đầu tăng bất thường vào tháng 3/2008 tăng 2.99% (tháng 2
tăng 3.56%).
-Trong các nhóm hàng hóa và dịch vụ tháng này tăng mạnh đẩy giá lên là:
các nhóm hàng lương thực tăng 10.5%, phương tiện đi lại, bưu điện tăng 5.76%,
nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 3.55%, các nhóm hang hóa và dịch vụ khác chỉ
tăng ở mức 0.3-1.5%.
- Chỉ số giá tiêu dùng tháng 4/2008 đã tăng thấp mức tăng của các tháng
trước nhưng vẫn còn tăng và nhiều mặt hàng đứng ở mức giá cao. Giá cả thị
trường diễn biến phức tạp. Giá tiêu dùng tháng 5/2008 so với tháng trước tăng

3.59% tăng cao nhất trong 5 tháng đầu năm 2008.
- Giá tiêu dùng tháng 6/2008 đã tăng chậm lại, ở mức tăng 2.14% so với
tháng trước. Giá tiêu dùng tháng 7 tăng 1.13% so với tháng 6. Thống kê chính thức
ước tính tỷ lệ lạm phát của Việt Nam ở tháng 7 là 27,04%, dù chưa tính tác động
của việc tăng giá xăng mới đây.

15


PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

-Tỷ lệ lạm phát của tháng 6 là 26,8%. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê VN cho
hay tốc độ tăng giá trong tháng 7 đã giảm, chỉ số tiêu dùng (CPI) tăng 1,13% so với
tháng 6. Ðây là mức tăng thấp nhất kể từ đầu năm đến nay.
-Giá lương thực tháng 6 giảm 0,37% so với tháng 6, vì đang được mùa lúa
gạo.
-Theo Tổng cục Thống kê, các nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống, đồ uống và
thuốc lá, may mặc, mũ nón, giầy dép… đều tiếp tục giảm mạnh so với tháng trước.
- Giá tiêu dùng tháng 9 tăng chậm lại một mặt do giá trên thị trường thế giới
của một số hàng hóa nước ta nhập khẩu đã giảm và sản xuất nông nghiệp trong
nước được mùa, nhưng yếu tố quan trọng nhất là do những nổ lực của các cấp các
ngành trong việc thực hiện 8 nhóm giải pháp của chính phủ. Giá tiêu dùng tháng
12/2008 so với tháng 11 giảm 0.68%.
-Lạm phát thực sự bùng nổ và thực sự gây nên những bất ổn vĩ mô vào năm
2008. Lạm phát đỉnh điểm vào tháng 7 năm 2008 khi lên tới trên 30% (YoY). Kết
thúc năm 2008, lạm phát lùi về còn 19.89%, đây là mức cao nhất trong vòng 17
năm qua. Trong đó CPI của lương thực tăng cao nhất và đạt 49.16%.
-Tháng 5/2008, CPI một tháng tăng gần 4%, đó là thời điểm tăng đột biến của
giá lương thực (CPI lương thực tăng 22.19%). Trước đó tháng 3/2008 lạm phát
cũng tăng 3.56% so với tháng trước. Tính trung bình 6 tháng đầu năm 2008 lạm

phát lên tới 2.86% cho mỗi tháng.
-Các chính sách thắt chặt tiền tệ của NHNN, các biện pháp kìm chế lạm phát
của chính phủ đồng thời từ tháng 9/2008 khủng hoảng tài chính từ Mỹ bắt đầu lan
rộng ra toàn cầu làm giá cả nhiều mặt hàng giảm mạnh, nhờ đó lạm phát kể từ
tháng 9 đã giảm mạnh so với những tháng trước đó. Liên tiếp 3 tháng 10, 11 và
12/2008 CPI tăng trưởng âm.
 Năm 2009
16


PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

-Những tháng đầu năm 2009 lạm phát không còn là một vấn đề đáng lo
ngại.Trung bình 7 tháng đầu năm lạm phát chỉ tăng 0.45%/tháng, so với tháng
12/2008 đến tháng 7/2009 lạm phát chỉ tăng 3.22%, trong đó lương thực thực phẩm
giảm 0.33%.
- CPI năm 2009 có mức tăng chậm hơn so với các năm trước, không có những
đột biến lớn không bất thường về quy luật. Lạm phát cả năm 2009 được công bố
chính thức là 6.88%.
- Trong tháng 1/2009 CPI lên nhẹ 0.32% chủ yếu do yếu tố tâm lý, người tiêu
dùng chấp nhận giá cao hơn trong tháng giáp Tết Nguyên đán. Sang tháng 2 CPI
tăng 1.17% do vào dịp tết và rằm tháng giêng kéo giá lương thục, thực phẩm và
nhiều loại hàng hóa dịch vụ đồng loạt lên mức cao.
- Chỉ số giá USD đã tăng 10.7% trong vòng 1 năm, tính đến tháng 12/2009
gây áp lực rất lớn lên giá hàng hóa nhập khẩu và các mặt hàng sử dụng nguyên
liệu nhập khẩu.

17



PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

Biểu đồ 1: Biểu đồ diễn biến CPI năm 2009
Nguồn: Tổng cục thống kê

-Theo quy luật, giá cả một số mặt hàng thiết yếu thường tăng giá trước Tết
nguyên đán. Mức tăng này đã đẩy chỉ số giá mặt hàng lương thực tháng 12 tăng
6,88% so với tháng trước và tăng 4.57% so với năm 2008.
-Mặt hàng thực phẩm so với tháng trước không tăng mạnh nhưng so với năm
2008 lại có mức tăng cao 8,39%.
-Sức tăng của 2 mặt hàng này đã đưa chỉ số giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn
uống trong tháng 12 tăng mạnh ở mức 2,06%. So với năm ngoái mức tăng này
chênh cao 8,71%.
-Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng bao gồm: tiền thuê nhà ở, điện, nước, chất
đốt và vật liệu xây dựng tháng 12 cũng tăng ở mức 1,4%. So với năm 2008, mức
tăng này thấp hơn so với một số nhóm hàng khác.
-Nhóm đồ uống, thuốc lá tăng 0,97%, nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng
0,81%. Một số nhóm khác có mức tăng không cao, đạt ở mức từ 0,07 đến 0,25%
như nhóm văn hoá, giải trí, thiết bị và đồ dùng gia đình.
-Trong 11 nhóm hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng thiết yếu, trong tháng 12 và cả
năm 2009 nhóm Bưu chính viễn thông lại giảm 0,11%.
-Riêng chỉ số giá vàng trong tháng qua đã tăng cao 10,49%, đưa cả năm tăng
19,16% so với năm 2008. Chỉ số đô la Mỹ tháng 12 tăng 3,19% đưa con số cả năm
2009 lên 9,17% so với năm 2008. Mức tăng này cũng đã được các chuyên gia dự
báo ngay từ đầu năm. Tuy nhiên với những chính sách bình ổn hiện nay, dự báo
chỉ số giá vàng sẽ nằm trong vòng ổn định hơn trong những tháng tới.

18



PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

-Một số chuyên gia nhận định, chỉ số giá năm 2009 đang nằm trong mức như
mong đợi, tuy nhiên vẫn còn một số lo ngại bởi, so với cùng kỳ năm ngoái một số
mặt hàng thiết yếu vẫn đang có xu hướng tăng cao, từ 8,53 đến 9,56%.
Diễn biến làm phát hàng tháng năm 2009

-Cuộc khủng hoảng kinh tế 2008-2009 đã góp phần làm giảm lạm phát ở Việt
Nam từ cuối năm 2009, giá quốc tế giảm cùng với tổng cầu giảm đã giúp Việt
Nam đảo ngược xu thế đáng ngại so với năm 2008.
 Năm 2010
-Diễn biến CPI năm 2010 tạo bởi mức chênh lệch giữa tháng tăng đỉnh và
đáy lên đến hơn 1.5%, khá tương đồng với năm 2007. Hai điểm tăng cao nhất
được tạo thành từ mức tăng xấp xỉ 2% của tháng 2 và tháng 12.
- Tết Canh dần rơi vào đầu tháng 2/2010 các mức tăng CPI hai tháng đầu
năm đều trên 1% và tiến gần 2%, nhưng khác biệt trong năm nay lại rơi vào tháng
3 khi chỉ số giá tiêu dùng không giảm mạnh như các năm trước.
19


PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

Trong tháng 3 bắt đầu có những đột biến:
+ NHNN công bố tỷ giá VND/ USD tăng 2% ở mức giá trần là 19.000
+ Đồng loạt áp dụng từ ngày 1/3: giá than bán cho điện tăng đến 47% tùy
loại, giá điện tăng 6,8%, giá nước sạch tại Tp.HCM tăng khoảng 50%.
+ Một tác động khác gây ảnh hưởng lớn đến giá cả và tâm lý người dân,
ngay trước ngày các viên chức trở lại làm việc sau kỳ nghỉ Tết kéo dài, trưa 21/2,
giá xăng đột ngột được điều chỉnh tăng khoảng 3,6%.
+Tiếp theo các diễn biến này, gas, xi măng, sắt thép… cũng kéo nhau tăng

giá.
+ Ngay sau đó, từ ngày 15/3 những thông tin về khả năng CPI tháng sau Tết
tăng cao đã được một số nguồn tin dự báo sớm. Con số chính thức sau đó chốt lại
mức tăng 0,75%, chỉ kém năm 2008 đột biến nhưng tương đương năm 2004 và
1996.
-Mục tiêu được Chính phủ đặt ra lúc này là ổn định nền kinh tế, đặc biệt là
kiềm chế lạm phát, tăng trưởng cung tiền cả năm giới hạn ở 20% so với cuối năm
2009; tăng trưởng tín dụng 25%.
- Trái với suy luận trong khoảng 5 tháng từ tháng 4 đến tháng 8, chỉ số giá
tiêu dùng liên tục tăng rất thấp, về gần sát mức 0% (tháng 7 chỉ tăng 0,06% so với
tháng 6). Xét về cao độ, các mức tăng này lập kỷ lục về độ thấp kể từ 2004.
+ Sức mua tăng đột ngột thể hiện ở tổng mức bán lẻ đi lên trong tháng 4 và
đến tháng 5 đạt mức tăng gần 27% so với cung kỳ.
+ Mức tăng trưởng đi xuống dầnvà đến tháng 10/2010, giá trị sản xuất công
nghiệp đã giảm 3,4% so với tháng 9.
- Trong 4 tháng cuối năm, chỉ số giá tiêu dùng liên tục duy trì ở mức cao. Có
tới 3 tháng đạt kỷ lục về cao độ, cho thấy sức nóng của lạm phát đã ở gần.
20


PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

+ Ngày 9/8, giá xăng dầu sau một thời gian dài được giữ cố định đã điều
chỉnh tăng lên khoảng 2,5%, đẩy CPI tháng 9 vào vòng thử thách mới.
+ ngày 18/8, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục điều chỉnh tỷ giá bình quân liên
ngân hàng giữa VND với USD lên mức 18.932 VND (tăng gần 2,1%) và giữ
nguyên biên độ tỷ giá +/-3%.
+ Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội kéo dài 10 ngày cũng ảnh hưởng
không nhỏ đến chỉ số giá tiêu dùng tháng 10. Lại thêm lũ lụt diễn ra liên miên tại
miền Trung kéo dài thêm chuỗi tác động đến chỉ số giá tiêu dùng giai đoạn cuối

năm.
+ Khoảng trung tuần tháng 10, thị trường lại ghi nhận các đợt leo thang của
giá vàng và USD, trong bối cảnh xu hướng CPI đã bắt đầu tăng cao.
+ Chính sách tiền tệ đã nới lỏng hơn, giá trị sản xuất công nghiệp tháng 11
đã tăng 4,9% so với tháng 10 và dự kiến tháng 12 này con tăng khoảng 6% so với
tháng trước. Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến cũng giảm dần về mức
28% tăng hơn so với cùng kỳ.
+Lạm phát dự báo vẫn ở mức thấp trong bối cảnh dư thừa năng lực sản xuất
và tỉ lệ thất nghiệp cao. Sự phục hồi giá cả hàng hóa đã làm tăng chỉ số giá tiêu
dùng trên phạm vi toàn cầu. Ước tính lạm phát của các nước phát triển sẽ tăng lên
mức 1,4% trong năm 2010 so với mức 0,1% trong năm 2009; lạm phát tại các
nước mới nổi và đang phát triển ở mức 6,2% so với mức 5,2% của năm 2009; tại
các nước đang phát triển châu Á, lạm phát dự kiến tăng lên mức 6,1% so với mức
3,1% của năm 2009 (biểu đồ 3)
Lạm phát tại các nước phát triển, các nước mới nổi và đang phát triển,
các nước châu Á đang phát triển và Việt Nam (bình quân năm)

21


PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

Nguồn: World Economic Outlook, IMF, 10/2010
-Trong năm 2010, chỉ số giá tiêu dùng tăng 11,75% so với tháng 12/2009, vượt
xa chỉ tiêu lạm phát Quốc hội thông qua đầu năm là không quá 7% và mục tiêu
Chính phủ điều chỉnh là không quá 8%. Trong đó, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn
uống tăng 16,18%, với quyền số 39,93%, nhóm này đã đóng góp vào mức tăng
chung của chỉ số CPI khoảng 6,46%, hơn một nửa mức tăng CPI của cả năm. Tiếp
đến là nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt, VLXD, tăng 15,74%, với quyền số
10,01%, nhóm này góp phần làm tăng chỉ số chung khoảng 1,57%. Nhóm giáo dục

có mức tăng cao nhất 19,38%, với quyền số không lớn là 5,72%, nhưng nhóm này
đã đóng góp mức tăng khoảng 1,1% vào mức tăng chung của chỉ số CPI.

22


PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

Diễn biến chỉ số CPI theo tháng giai đoạn 2008 – 2010
Nguồn: Tổng cục Thống kê
-Nhìn chung trong cả năm 2010, diễn biến CPI gần như song hành cùng
những thay đổi chính sách vĩ mô và can thiệp thị trường từ cơ quan chức năng.
Những ngày năm mới đang đến cũng đọng lại một năm lạm phát không đạt chỉ
tiêu, nhưng còn neo lại những đoán định về hướng điều chỉnh chính sách có thể
xuất hiện trong đầu năm tới.
 Năm 2011:
-Báo chí ngoại quốc và trong nước và những cơ quan tài chánh và đầu tư
quốc tế từ đầu năm tới nay nói rất nhiều đến tình trạng lạm phát nghiêm trọng ở
Việt Nam. Điểm đặc biệt là trong tất cả vùng Đông và Đông Nam Á châu, ngoại
trừ Việt Nam, mức lạm phát rất thấp, 1% như ở Đài Loan, 1.7% ở Mã Lai, 3.3% ở
Thái Lan và cao nhất 6% ở Lào.
-Mức lạm phát tháng 1 năm 2011 là 1,74%
23


PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

- Chỉ số giá tiêu dùng cả nước trong 2 tháng đầu năm tăng tổng cộng 3,78%
chủ yếu do tác động của Tết. Như vậy, nếu tính toán một cách cơ học, tại thời
điểm này, người ta đã “nhìn thấy” lạm phát tăng khoảng 6%. So với mục tiêu

khống chế CPI dưới 7% mà Quốc hội phê chuẩn cuối năm ngoái, dư địa cho 10
tháng còn lại chỉ còn trên dưới 1%. Chỉ trong quý một năm 2011, lạm phát ở Việt
Nam đã lên tới 6,1%. Các chuyên gia kinh tế cho rằng, việc Việt Nam có thể giữ
được lạm phát năm 2011 ở mức dưới 7% là điều khó trở thành hiện thực.
Chỉ số giá tiêu dùng, vàng và dollar mỹ 3 tháng đầu năm 2011

2011

Tháng 1

2010

Tháng 1 Tháng 12

Chỉ số giá tiêu

Tháng 2

Tháng 3
Tháng 2 Tháng 12

Tháng 3 Tháng 12

112.17

101.74

112.31

103.87


113.89

106.12

giá

133.87

99.95

136.17

99.6

141.27

104.58

Chỉ số giá đôla

109.45

99.68

110.11

100.62

112.05


103.7

dùng
Chỉ

số

vàng

mỹ

-Chỉ số giá tiêu dùng tháng 3/2011 tăng 2,17% so với tháng trước.
- Trong các nhóm hàng hóa và dịch vụ, hai nhóm có chỉ số giá tăng cao hơn
nhiều mức tăng chung là: Giao thông tăng 6,69%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng
3,67%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá thấp hơn mức tăng chung
nhưng cao hơn 1% là: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,98% (Lương thực tăng
2,18%, thực phẩm tăng 1,57%, ăn uống ngoài gia đình tăng 3,06%); thiết bị và đồ
24


×