Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

tiểu luận triết học nâng cao vấn đề bản thể luận trong lịch sử triết học và trong triết học mác lênin)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.73 KB, 23 trang )

MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Triết học là một môn khoa học chung nhất, nghiên cứu về các sự vật và
hiện tượng của tự nhiên và xã hội, nhằm tìm ra quy luật của các đối tượng
nghiên cứu. Mục đích của triết học là giải quyết các vấn đề cơ bản của bản thể
luận và nhận thức luận. Nó là vấn đề cơ bản vì việc giải quyết nó sẽ quyết định
cơ sở để giải quyết những vấn đề khác của triết học. Đó là những lý luận về
nguồn gốc, về sự tồn tại hay những quan niệm về nguồn gốc của thế giới hay
bản thể luận.
Vậy, bản thể luận ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ triết học có điểm gì khác
nhau? Trong lịch sử triết học, triết học phương Đông, trong đó nổi bật có triết
học Ấn Độ và triết học Trung Quốc thì các triết gia có đề cập đến vấn đề bản thể
luận hay không. Không? Trong triết học phương Tây thì các triết gia quan tâm
nghiên cứu bản thể luận như thế nào? Từ đó có ảnh hưởng như thế nào đến việc
hình thành thế giới quan đúng đắn của triết học Mác. Để làm rõ những điều này,
tôi chọn đề tài: “Vấn đề bản thể luận trong lịch sử triết học và trong triết học
Mác-Lênin”
Trong quá trình làm nghiên cứu, thu thập tài liệu, tiểu luận không thể
tránh khỏi những khiếm khuyết , tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của
các thầy cô để bài viết của mình được hoàn thiện hơn. Tôi xin gửi lời cảm ơn
đến các thầy cô khoa Triết đã cung cấp kiến thức, giúp đỡ tôi trong quá trình học
tập và nghiên cứu.
2. Mục đích và nhiệm vụ của tiểu luận
Mục đích của tiểu luận là khái quát một cách chung nhất vấn đề “bản thể
luận” trong lịch sử triết học và trình bày một cách cụ thể vấn đề “bản thể luận”
trong triết học Mác-Lênin, từ đó rút ra ý nghĩa, phương pháp luận.
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ của tiểu luận là: nêu ra lý thuyết cơ
sở về triết học và bản thể luận; trình lày khái quát quan niệm về “bản thể luận”
trong lịch sử triết học và bản thể luận; trình bày khái quát quan niệm về “bản thể



luận” trong lịch sử triết học phương Đông và phương Tây; tập trung phân tích và
làm rõ nội dung “bản thể luận” trong triết học Mác-Lê nin và nêu ra ý nghĩa
phương pháp luận.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là nội dung cơ bản về bản thể luận trong phạm vi
lịch sử triết học và triết học Mác-Lênin.
4. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận sử dụng chủ yếu các phương pháp kết hợp giữa phân tích và
tổng hợp, lịch sử và logic, đối chiếu, so sánh, khái quát hóa.
5. Kết cấu tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận gồm
3 phần:
Chương I: Cơ sở lý luận
Chương II: Quan niệm về bản thể luận trong lịch sử triết học phương
Đông và phương Tây.
Chương III: Quan niệm về bản thể luận trong triết học Mác-Lênin và ý
nghĩa phương pháp luận.


CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.Khái niệm “triết học”
Triết học là một môn học gạo cội. Trước khi có sự ra đời của triết học
Mác-Lênin, triết học còn được coi là khoa học của mọi loại khoa học. Nhận định
này là hợp lý vì phần lớn các nhà triết học lỗi lạc trong lịch sử triết học đều bắt
nguồn từ các nhà khoa học và khoa học nào cũng cần tri thức triết học với tư
cách là phương pháp luận để hướng dẫn khoa học phát triển. Triết học ra đời từ
thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thứ VI Trước Công Nguyên, từ đó đến nay có nhiều
cách định nghĩa khác nhau về triết học. Theo quan điểm Mác xít, triết học là một
trong những hình thái ý thức xã hội; là học thuyết về những nguyên tắc chung

nhất của tồn tại, của nhận thức và của thái độ con người đối với thế giới; là khoa
học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Theo Học viện
Báo chí và Tuyên truyền: triết học là bộ môn nghiên cứu về những vấn đề chung
và cơ bản của con người trong thế giới quan đó; nhữ..ng vấn đề có kết nối với
chân lý, sự tồn tại, kiến thức, giá trị, quy luật, ý thức và ngôn ngữ 1. Nhưng tất
cả các cách định nghĩa đều bao hàm những nội dung cơ bản giống nhau: Triết
học nghiên cứu thế giới với tư cách là một chỉnh thể, tìm ra những quy luật
chung nhất chi phối sự vận động của chỉnh thể đó nói chung, của xã hội loài
người, của con người trong cuộc sống cộng đồng nói riêng và thể hiện nó một
cách có hệ thống dưới dạng duy lý.
Tóm lại, triết học được phân biệt với những môn khoa học khác bằng cách
thức mà nó giải quyết các vấn đề trên, đó là ở tính phê phán, phương pháp tiếp cận
có hệ thống chung nhất và sự phụ thuộc của nó và tính duy lý trong việc lập luận.
Triết học đã ra đời trong xã hội chiếm hữu nô lệ (ở phương Tây) và trong
thời kỳ chuyển từ xã hội chiếm hữu nô lệ sang xã hội phong kiến (phương
Đông) gắn liền với sự phân công lao động xã hội - tách lao động trí óc ra khỏi
lao động chân tay, khi con người đã có sự phát triển cả về thể lực và trí lực, có
một vốn hiểu biết nhất định và đạt đến khả năng khái quát hóa, trừu tượng hóa


để có thể rút được cái chung từ vô số sự vật, hiện tượng riêng lẻ, xây dựng nwn
các học thuyết lý luận. Triết học đã ra đời từ thực tiễn và do nhu cầu của thực
tiễn quyết định.
No headings found: Khái niệm “bản thể luận”
Thuật ngữ “bản thể luận” có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp và có nghĩa là
“học thuyết về tồn tại”. trong lịch sử triết học, trước thế kỷ XVII, thuật ngữ “bản
thể luận” chưa được xuất hiện với tư cách một khái niệm mà chỉ dưới dạng
những tư tưởng về nó, những tư tưởng về tồn tại. Tên gọi “bản thể luận” chỉ
được xuất hiện lần đầu tiên tại thế kỷ XVII. Trong Lexicon philosophicum (bách
khoa thư triết học) của triết gia R.Goclenius (1547 - 1628) và được xuất bản tại

Phrăngphuốc (Đức) vào năm 1613 2. Như vậy, tên gọi “bản thể luận” xuất hiện
vào thế kỷ XVII nhưng tư tưởng bản thể luận đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch
sử triết học trong cả triết học phương Đông và cả triết học phương Tây. Trong
triết học trước Mác, “bản thể luận” được hiểu là “triết học đầu tiên” là học
thuyết về sự tồn tại nói chung nên nó cùng nghĩa vơi siêu hình học - một hệ
thống những định nghĩa phổ biến có tính chất tư biện về tồn tại. Đến Mác-Lênin
quan điểm bản thể luận dùng để chỉ những quy luật của sự vận động phát triển
của những cái đang tồn tại. Vật chất và ý thức tồn tại đều chịu sự chi phối của
những quy luật đó.
Tóm lại, bản thể luận được hiểu là lý luận về bản thể, lý luận về nguồn
gốc, về tồn tại hay bản thể luận là quan niệm về thế giới, nó bàn tới tất cả những
gì đang tồn tại trong thế giới khách quan ở bản thân nó, và nó tồn tại theo tính
quy luật của nó.


CHƯƠNG II
QUAN NIỆM VỀ BẢN THỂ LUẬN TRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
PHƯƠNG ĐÔNG VÀ PHƯƠNG TÂY
1.Quan niệm về bản thể luận trong triết học phương Đông
Về mặt địa lý, “phương Đông cổ đại” bao gồm một vùng đất hết sức rộng
lớn, từ Ai Cập, Babilon tới Ấn Độ, Trung Hoa… và nơi đây được ví với cái nôi
của nền văn minh nhân loại. Người phương Đông cổ đại đã sớm lợi dụng những
thuận lợi của vùng đồng bằng phì nhiêu để có thể phát triển sản xuất. Chính dựa
trên những điều kiện đó, lịch sử triết học của các nước phương Đông xuất hiện
từ rất sớm, vào khoảng thiên niên kỷ thứ III Trước công nguyên. Sự phát triển
của tư tưởng và triết học phương Đông cổ, trung đại có những đặc điểm mang
đậm bản sắc độc đáo so với triết học phương Tây, thể hiện ddaamj nét ở một số
quốc gia tiêu biểu như Trung Quốc, Ấn Độ… với những quan niệm về bản thể
luận rất đặc sắc.
1.1.Quan niệm của triết học Trung Quốc cổ trung đại về bản thể luận:

Trường phái triết học Âm dương - Ngũ hành:
Trướng phái triết học cổ của Trung Quốc lại hướng đến việc lý giải sự tồn
tại của thế giới trong sự tương tác của các yếu tố tự nhiên trong thế giới. Với quan
điểm duy vật chất phác và tư tưởng biện chứng tự phát, lấy tự nhiên để giải thích
những gì thuộc về tự nhiên. Đây là quan niệm học thuyết về sự liên hệ, sự tác
động của các yếu tố cơ bản có trong thế giới là âm và dương và ngũ hành là bản
thể làm nên sự tồn tại của thế giới. Theo đó, mọi sự vật của vũ trụ đều bắt nguồn
từ bản thể tối cáo - “khí”, đó là thái cực là nguyên thể đầu tiên, cội nguồn của thế
giới. Khí là một khối hỗn độn, không đầu không cuối không đo lường được, thái
cức bao hàm trong đó hai mặt đối lập âm - dương, chúng vừa đối lập, vừa thống
nhất. Khi có sự liên hệ tác động qua lại và chuyển hóa lẫn nhau của âm - dương
trong thái cực đã tại ra sự vận động, sự biến hóa không ngừng của vũ trụ.
Học thuyết Ngũ hành cho rằng kim, mộc, thủy, hỏa, thổ là năm yếu tố vật
chất tạo ra vũ trụ. Các yếu tố này nằm trong mối quan hệ tương sinh, tương khắc


là khởi nguồn sinh diệt của thế giới. Điểm đặc biệt của học thuyết này thể hiện ở
chỗ nó không chỉ giải thích một cách hợp lý sự tồn tại, phát triển và diệt vong
của các hiện trượng trong tự nhiên mà còn có thể dùng nó để giải thích một các
thuyết phục các vấn đề trong xã hội. Đây chính mốc lịch sử đánh dấu sự phát
triển sơ khai của tư duy kho học người Trung Quốc cổ đại nhằm thoát khỏi sự
chi phối của các tư tưởng duy tâm tôn giáo.
Quan niệm của các triết gia:
Quan điểm về Đạo của Lão tử là quan điểm tiêu biểu của người Trung
Quốc cổ đại về bản thể luận. Theo Lão tử, “Đạo” là cái có trước trời đất, trống
không và lặng yên nhưng lại có ở mọi nơi, là nguồn gốc của vạn vật. Nó là sự
thống nhất của thế giới, là bản nguyên sâu kín, huyền diệu mà từ đó vạn vật có
danh tính, có hình thể được sinh ra. Đạo là thực thể vật chất của khối “hỗn độn”,
“mập mờ”, “thấp thoáng” không có đặc tính, không có hình thể, nhìn không nhìn
thấy, nghe không nghe thấy, bắt không bắt đươc, chẳng thể gọi tên. Nó tồn tại

bất luận con người có nhận thức được hay không 3. Qua những quan điểm về
bản thể luận trong khái niệm “Đạo”, ta có thể thấy những quan niệm biện chứng
đầy tinh tế và bí hiểm của người phương Đông.
Quan điểm của phái Nho gia chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong lịch sử
tư tưởng Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống mọi mặt của xã hội
Trung Quốc suốt hơn hai nghìn năm lịch sử, cũng như tác động đến Việt Nam và
một số nước Đông Á khác. Nho giáo chứa đựng những tư tưởng biện chứng sâu
sắc về mối liên hệ, về vận động, về quy luật với mục tiêu là xây dựng những cơ
sở lý luận cho các quan điểm chính trị, đạo đức và xã hội và con người nên lại
đưa ra những quan niệm khác khi lý giải về bản nguyên của tồn tại. Theo Mạnh
Tử “Tâm” là cái chủ thể trong mỗi con người, là cái thần linh có đủ mọi lý và
trời phú cho con người để hiểu biết, ứng đối với vạn vật, vạn sự. Tâm có quan hệ
với Tính, đem tâm tính đấy là ứng xử với vạn vật được gọi là Tình. Tâm - Lương
Tri - Lương năng là cơ sở để xây dựng luân lý đạo đức, nó là cái tự nhiên có ở
con người chứ không phải qua học tập, là cái vĩnh viễn không thay đổi, do vậy
con người cần “ phản tỉnh” để hành xử cho hợp lễ nghĩa.


1.2. Quan niệm của triết học Ấn Độ cổ trung đại về bản thể luận
Tri thức và văn hóa Ấn Độ truyền thống hết sức đa dạng, phong phú và có
những yếu tố phỏng đoán vượt thời gian. Nét đặc biệt trong văn hóa Ấn Độ là
mang dấu ấn sâu đạm về mặt tín ngưỡng, tôn giáo và tâm linh, với nhiều yếu tố
thần bí. Những kiến thức và văn hóa đó đã trở thành những chất liệu trực tiếp
cho sự xuất hiện các trường phái triết học ở Ấn Độ thời cổ đại. Các nhà triết học
ở Ấn Độ cho rằng bản thể của thế giới chính là các vị thần có tính chất tự nhiên,
vũ trụ tồn tại ba thế lực có liên hệ mật thiết với nhau là thiên giới, trần thế và địa
ngục. Sớm nhất là trong khoảng thế kỷ VIII - VI trước Công Nguyên, bộ kinh
Upanisad đã cho rằng bản nguyên tối cao bất diệt của thế giới là “tinh thần vũ
trụ tối cao” Brahman, đó là thực thể duy nhất, có trước, tồn tại vĩnh viễn, bất
diệt, là cái từ đó tất cả thế giới đều nảy sinh ra và nhập về nó sau khi chết. Ngoài

ra có nhiều các trường phái khác nhau như phái Samkhya, trường phái Nyaya
Vaisesika và Phật giáo.
Phái Samkhya có tư tưởng rất cổ và ảnh hưởng rất lớn. Tuy nhiên, nó có
tinh thần duy vật, phủ nhận sự tồn tại của Brahman và thần. Phái Samkhya cho
rằng thế giới là thế giới vật chất và nó tồn tại và vận động theo quy luật nhân
quả, kết quả đã tồn tại trong nguyên nhân trước khi nó xuất hiện. Quan niệm về
bản thể bắt đầu từ nguyên nhân.
Phái Nyaya - Vaisesika quan niệm bản nguyên duy nhất, đầu tiên của thế
giới là những hạt vật chất không đồng nhất, bất biến, vĩnh hằng được phân biệt ở
chất lượng, khối lượng và hình dạng, tồn tại trong một môi trường đặc biệt được
gọi là Anu (nguyên tử).
Phái Lokayata quan niệm bản nguyên của tồn tại được hình thành từ bốn
yếu tố: đất, nước, lửa, không khí. Những yếu tố này có khả năng tự tồn tại, tự
vận động trong không gian và cấu thành vạn vật. Thế giới xung quanh ta đa
dạng chính là do sự kết hợp khác nhau của các yếu tổ bản nguyên đó.
Phật giáo là một tôn giáo mang tư tưởng giải thoát chúng sinh ra khỏi nỗi
khổ cuộc đời. Phật cho rằng bản nguyên của thế giới chính là “Tâm”. “Tâm” ban
đầu vốn tròn đầy, chưa xao động, giống như mặt nước, khi gió thổi (vọng tâm


sinh khởi) mà tạo ra song to, sóng nhỏ, bọt hay bong bóng khác nhau. Gió
ngừng thổi thì mặt nước trở lại yên lặng. Vậy “tâm” ban đầu không thay đổi, khi
có tác động từ bên ngoài, có sự tiếp xúc “lục căn” (sáu giác quan) và lục trần
(thế giới khách quan) thì mới làm “tâm” xao động sinh ra “tham”, “sân”, “si”.
Khi vượt qua được “tham, sân, si” tức là con người đã được giác ngộ, được giải
thoát, trở về cái “tâm”ban đầu thanh tịnh. Một khái niệm khác của Phật giáo khi
đề cập đến vấn đề bản thể luận là “không”. Và trog kinh Phật có cụm từ “sắc sắc
không không” để nói về sự vô thường của cuộc sống. Vạn vật tự sinh tự diệt,
chuyển biến không ngừng trong từng phút giây.
2. Quan niệm về bản thể luận trong triết học phương Tây.

Trong khi phương Đông lấy xã hội, con ngời cá nhân làm gốc để nhìn nhận
xung quanh, đối tượng của triết học phương Đông chủ yếu là xã hội, chính trị, đạo
đức, tâm linh nên xu hướng là hướng nội. lấy trong để giải thích ngoài thì triết học
phương Tây lại có đối tượng rất rộng ôm toàn bộ tự nhiên, xã hội tư duy mà gốc
là tự nhiên, lấy ngoại để giải thích trong theo xu hướng nổi trội là duy vật. Khái
niệm “bản thể luận” được xuất hiện ở thế kỷ XVII tại phwong Tây. Khái niệm này
liên hệ mật thiết và hữu cơ với quá trình hình thành triết học phương Tây tới mức
chính nó, chính sự lý giải về nó đã tạo thành bản chất của phương pháp tư duy
trieetgs học Tây Âu. Trong mỗi thời kỳ, triết học Phương Tây lại có những nhà
triết học tiêu biểu với nhiều quan niệm về “bản thể luận” khác nhau, điều đó đã
tạo nên một bức tranh đầy màu sắc về triết học phương Tây.
2.1. Quan niệm của triết học Hy lạp cổ đại
Thời kỳ này các nhà triết học cũng chính là các nhà khoa học, chính vì
vậy quan niệm về bản thể luận của những nhà triết học thời này rất phong phú,
mang đậm dấu ấn cùng những ngành khoa học họ nghiên cứu.
Ta-let (624-547 TCN) cố gắng đi tìm một nguồn gốc chung, một thực thể
chung làm cơ sở của mọi vật. Đối với ông, thực thể đó chính là nước.
Trong công cuộc đi tìm cách xây dựng “bản thể luận mới”, chúng ta phải
kể đến Pi-ta-go (571-497 TCN). Ông vừa là nhà triết học vừa là nhà toán học.
Ông cho rằng bản nguyên thể giới là những con số. Con số là lực lượng chi phối


toàn bộ thế giới theo một quy luật nhất định. Vì vậy, con số không chỉ là bản
nguyên của toàn bộ sự vật mà còn là cơ sở của hiện tượng tinh thần. Con số tồn
tại vĩnh viễn nên linh hồn cũng bất tử. Nó chỉ chuyển từ dạng này sang dạng
khác. Tuy nhiên, uy luật toán học chỉ là một loại quy luật, ngoài ra còn rất nhiều
những quy luật khác.
Hê-ra-clit (khoảng 530 - 470 TCN) được coi là đại biểu vĩ đại nhất của chủ
nghĩa duy vật và phép biện chứng. Ông quan niệm về bản thể luận của thế giới là
lửa. Lửa là nguồn gốc của mọi sự trong vũ trụ, là cơ sở của linh hồn con người.

Theo ông, cả vũ trụ là một ngọn lửa vĩnh hằng, khồng không bùng cháy và tàn lụi.
Lửa trao đổi với tất cả và tất cả trao đổi với lửa. Cũng như chúng ta đổi hàng hóa
vấy vàng và vàng thành hàng hóa.
Đê-mô-crit (460-370TCN) đã tiếp tục con đường phân tích những cấu trúc
của tồn tại, trong quan hệ của nó với nguyên tử. Theo Đê - mô - crits, cơ sở của
thế giới vật chất là nguyên tử. Nguyên tử là các hạt vật chất nhỏ, không thể phân
chia được và tồn tại vĩnh viễn. Tuy nhiên, các nguyên tử khác nhau về hình thức,
trật tự và tư thế. Nguyên tử không những vô hạn về số lượng mà còn vô hạn về
hình thức. Các nguyên tử không kết hợp với nhau tùy tiên, ngẫu nhiên mà theo
trật tự nhất định. Sở dĩ các sự vật của thế giới khác nhau là do cấu tạo của
nguyên tử khác nhau lại được sắp xếp theo những trật tự khác nhau và đặc biệt
là ở những tư thế khác nhau.
Khác với Đê-mô-crit, Platon chia thế giới thành 2 bộ phận: thế giới của
những ý niệm và thế giới của những sự vật cảm tính. Thế giới của những sự vật
cảm tính là thế giới tồn tại không chân thực và thường xuyên biến đổi phụ thuộc
vào thế giới của những ý niệm, nó là cái bóng của ý niệm, do các ý niệm sản
sinh ra. Ông cũng kế thừa quan điểm của Pi-ta-go về những con số. Theo ông,
sự tồn tại cảu thế giới các ý niệm thông qua các quan hệ tỷ lệ toán học tác động
vào vật chất tạo ra thế giới các sự vật cảm tính. Chỉ có ý niệm mới tồn tại chân
thực, mới là đối tượng của nhận thức chân lý, còn có sự vật cảm tính chỉ là kết
quả của sự bắt chước ý niệm4.


Arixtot (384-322TCN) được coi là nhà bách khoa vĩ đại nhất cổ đại Hy
Lạp khi ông nghiên cứu nhiều ngành khoa học khác nhau. Ông phê phán học
thuyết ý niệm của Platon, ông vạch ra những mâu thuẫn về mặt logic trong học
thuyết ý nghĩa là Platon đã nhân đôi đối tượng nhận thức chứ không phải sự
nhận thức về chính đối tượng. Ông cho rằng bản chất sự vật không thể ở bên
ngoài sự vật, tách rời sự vật mà nằm ngay chính trong sự vật. Quan niệm của
ông về thế giời được thể hiện qua học thuyết bốn nguyên nhân: hình thức, vật

chất, vận động, mục đích. Ông đề xướng thuyết địa tâm, phủ nhận tính thống
nhất vật chất của thế giới. Quan điểm của ông có nhân tố duy vật khi cho rằng
thế giới cấu thành bởi các nhân tố: đất, nước, lửa, không khí và ete.
2.2. Quan niệm triết học Tây Âu thời trung cổ
Xã hội Tây Âu vào thế kỷ II - V là xã hội đánh dấu sự tan rã của chế độ
nô lệ và là sự ra đời của chế độ phong kiến, và chế độ phong kiến kéo dài đến
thế kỷ thứ XIV với sự thống trị của giai cấp địa chủ phong kiến và phương thức
sản xuất phong kiến cùng chế độ phong kiến phân quyền. Triết học thời kỳ này
là nển triết học kinh viện lấy vấn đề trung tâm là cuộc đấu tranh giữa niềm tin
tôn giáo và trí tuệ. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy thức và chủ nghĩa duy
danh là biểu hiện cho cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy
tâm trong triết học Tây Âu thời kỳ này. Tiêu biểu nhất trong thời kỳ này là nhà
triết học Tô-mát Đa-canh. Triết học của ông được nhờ Thiên Chúa coi là học
thuyết duy nhất đúng đắn và làm hệ tư tưởng của mình. Về quan niệm về bản thể
luận, ông cho rằng Thượng đế là cơ sở tồn tại của thế giới. Ông đưa ra năm luận
cứ để chứng minh cho sự tồn tại của Thượng đế. Luận cứ 1: Mọi sự vật đều vận
động nhưng đầu tiên không thể tự nó vận động được mà cần có “cú hích ban
đầu” và cú hích đó chính là Thượng đế. Luận cứ 2: Mọi sự vật đều có nguyên
nhân, và vũ trụ cũng có nguyên nhân của mình và nguyên nhân của nguyên nhân
đó là thượng đế. Trong vũ trụ có cả cái tất nhiện và cái ngẫu nhiên nhưng thế
giới với tư cách là một chỉnh thể là cái tất nhiên. Điều đó đòi hỏi phải có cái tất
yếu tuyệt đối chi phối, đó chính là thượng đế. Luận cứ 4: Mọi sự vật trong thế
giới đều thuộc về một mức độ Chân, Thiện, Mỹ nhất định. Do đó, để xác định


được mức độ Chân, Thiện, Mỹ cần phải có một cái Chân, Thiện, Mỹ tuyệt đối
làm tiêu chuẩn, đó chính là thượng đế. Luận cứ 5: Trong thế giới cần có Thượng
đế thì mới có thể lý giải được tính hợp lý của giới tự nhiên,
2.3. Quan niệm của triết học Tây Âu thời Phục hưng (TK15 - 16)
Cùng với những thay đổi về kinh tế - xã hội, cũng như sự phát triển khoa

học và nghệ thuật, triết học thời kỳ phục hưng đã có một bước ngoặt trong sự
phát triển, mở đầu cho một thời kỳ phát triển mới của chủ nghĩa duy vật. Về vấn
đề bản thể luận trong thời kỳ này, có một nhà triết học tiêu biểu là Giooc-đa-nô
Bru-no (1548-1600) ông là nhà triết học, đồng thời là nhà khoa học tự nhiên vĩ
đại người Italia. Phạm trù trung tâm trong triết học của ông là Cái duy nhất
(Uno). Uno chính là thượng đế tồn tại dưới dạng giới tự nhiên (Tự nhiên thần
luận). Ông cũng đã kế thừa và chịu ảnh hưởng của A-ritx- tốt, ông cho rằng có
sự thống nhất giữa vật chất và hình dạng trong Uno, mọi hình dạng chẳng qua
chỉ là hình dạng của vật chất mà thôi. Ông cũng tiếp nhận tư tưởng về sự thống
nhất vật chất của vũ trụ khi cho rằng: “mọi sự vật đều nằm trong vũ trụ và vũ trụ
nằm trong tất thảy mọi vật. Chúng ta ở trong vũ trụ và vũ trụ nằm trong chúng
ta”. Bên cạnh đó, ông cũng xây dựng thuyết đơn từ (monad): Theo đó, mọi sự
vật và cả vũ trụ đều được cấu tạo từ đơn tử, là những phần tử vật chất nhỏ nhất
có chứa khả năng tinh thần. Ông cũng kế tục và pháttriển học thuyết của Côpéc-ních “mặt trời là trung tâm”, nhưng ông cũng bổ sung thêm rằng, có vô số
thế giới, xung quanh trái đất có một bầu không khí cùng xoay với trái đất và mặt
trời cũng đổi chỗ với các vì sao. Với học thuyết đó, Bruno đã bác bỏ một quan
điểm cơ bản của tôn giáo về sự tồn tại của thế giới bên kia, thế giới thần linh.
Ông còn cho rằng thế giới vật chất tồn tại không ngừng, không có chúa trời nào
thống trị vũ trụ đó cả.
2.4. Quan niệm của triết học Tây Âu thời kỳ cận đại (TK 17 - 18)
Cuối thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa làm cho xã hội phong kiến Tây Âu rơi vào khủng hoảng trầm trọng về
kinh tế, chính trị và tinh thần. Từ đó dẫn đến các cuộc cách mạng tư sản, nhà
nước tư sản được hình thành, dân tộc tư sản ra đời. Triết học thời kỳ này khác về


chất so với triết học duy vật cổ đại Hy lạp, thể hiện ở phương pháp siêu hình, sự
gắn bó với khoa học thực nghiệm. Một đại diện tiêu biểu của thời kỳ này là
Phăng-xi Bê-cơn (1561-1626) người Anh. Ông là người đã kế thừa những tư
tưởng duy vật cổ đại Hy Lạp trong quan niệm về thế giới, thể hiện ở chỗ ông

thường xuyên trích dẫn và ca ngợi những nhà duy vật. Ông kịch liệt chống lại
quan điểm của triết học kinh viện về vật chất (thụ động, trừu tượng, chế cứng,
không vận động, dùng trong tranh luận…). Ông đưa ra khái niệm “vật chất thứ
nhất” để đối lập với khái niệm vật chất này của triết học kinh viện, trên cơ sở đó,
ông đưa ra 19 dạng vận động khác nhau của “vật chất thứ nhất”. Bên cạnh đó,
ông cũng ủng hộ quan điểm của Ăm-pê-đốc-lơ về sự không mất đi của vật chất.
Theo ông, tổng vật chất là giữ nguyên. Ông còn cải biến học thueyets về bốn
nguyên nhân của Arix-tốt theo hướng duy vật. Nhà triết học thứ hai trong thời
kỳ này là Rơ-nê Đê-các-tơ (1596-1654), nhà triết học và khoa học nổi tiếng
người Pháp. Khi giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, Đê-các-tơ đứng trên lập
trường nhị nguyên luận. Ông thừa nhận có hai thực thể vật chất và tinh thần tồn
tại độc lập với nhau, cùng song song là nguồn gốc của mọi sự vật, hiện tượng
trong thế giới. Thực thể vật chất là đối tượng nghiên cứu của vật lý, còn thực thể
tinh thần là đối tượng nhiên cứu của triết học. Tuy nhiên, cả hai thực thể này đều
là phụ thuộc vào một thực thể thứ ba là Thượng đế. Ông cố gắng đứng trên cả
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm để giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa
vật chất và tinh thần, giữa tồn tại và tư duy nhưng cuối cùng lại rơi vào chủ
nghĩa duy tâm. Ông còn phát hiện ra nguyên tắc quyết định luận trong thế giới,
có những dự báo khoa học về nguồn gốc vũ trụ, về sự phát triển đa dạng của các
loài sinh vật. Quan niệm của ông về bản thể luận có nhiều điểm tiến bộ nhưng
còn mang tính máy móc, siêu hình.
2.5. Quan niệm trong triết học cổ điển Đức (TK XVIII - nửa đầu TK XIX)
Bản thể luận duy tâm cổ điển Đức chịu tác động của những điều kiện kinh
tế - xã hội và chính trị đương thời. Trong khi Anh và Pháp tiến nhanh trên con
đường tư bản chủ nghĩa thì nước Đức vẫn là một nước lạc hậu về kinh tế và
chính trị. Vì giai cấp tư sản Đức yếu kém, không đủ khả năng nắm chính quyền,


nên các nhà lsy luận của giai cấp này là những nhà triết học duy tâm, sáng lập ra
các hệ thống triết học rất trừu tượng, tách khỏi đời sống thực tiến. Bế tắc trước

những vấn đề kinh tế - xã hội, các nhà triết học duy tâm Đức, bắt đầu từ Can-tơ
trở đi đã xây dựng bản thể luận triết học trong tư duy, ý thức của chủ thể, đặc
biệt đề cao tính năng động và tính duy lý của chủ thể.
Vốn là người sáng lập ra triết học cổ điển Đức, Can-tơ đã có những đóng
góp quan tron gj trong việc xây dựng bản thể luận độc đáo, đó chính là học
thuyết “vật tự có”. Theo ông, “vật tự có” là bản chất của mọi vậ khách quan tồn
tại bên ngoài con ngời, nó thuộc về lĩnh vực siêu nghiệm, siêu nhiên, con người
không thể nào nhận thức được. Đó là tất cả những gì con người chưa biết được,
“vật tự có” là những chuẩn mực, những lý tưởng tuyệt đối hoàn hảo mà con
người không bao giờ đạt được, ví dụ như “Chúa trời”, “tự do”…
Tiếp nối các bậc tiền bối, Hê-ghen đề nghị phải lãnh hội và diễn đạt chân
lý không chỉ như bản thể mà còn như chủ thể. Ông cho tinh thần thế giới là có
trước, tồn tại vĩnh viễn. Tinh thần thế giới tha hóa thành giới tự nhiên rồi lại
thông qua xã hội, lịch sử trở về chính nó. Tinh thần thế giới (ý niệm tuyệt đối) là
đối tượng của logic học, tinh thần thế giới tha hóa thành giới tự nhiên là đối
tượng của triết học tự nhiên. Tồn tại trong tự nhiên, tinh thần thế giới vẫn vận
động, biến đổi và đến một giai đoạn nhất định tha hóa quay trở về bản thân nó
thông qua xã hội, lịch sử trở về với tinh thần tuyệt đối, ý niệm tuyệt đối.
Một nhà đại diện triết học thời kỳ này là Lút-vích Phoi-ơ-bắc, một nhà triết
học lỗi lạc đã khôi phục lại địa vị xứng đáng cho chủ nghĩa duy vật trước Mác.
Ông cho rằng thế giới tự nhiên, thế giới vật chất là có trước, tồn tại vĩnh viễn,
không do ai sáng tạo ra, không phụ thuộc vào bất cứ ai. Nó tồn tại, vận động nhờ
những nguyên nhân ở trong chính bản thân nó. Thế giới vật chất là có trước, ý
thức có sau, ý thức là sản phẩm, thuộc tính của bộ óc của con người. Ông cũng có
quan điểm duy vật về không gian, thời gian. Theo ông, không có không gian, thời
gian ngoài vật chất, cũng không có vật chất tồn tại ngoài không gian, thời gian.
Chính không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất.


Nhìn chung, triết học cổ điển Đức đem lại cho triết học một diện mạo mới

những một hệ thống những bộ môn, những tư tưởng, những khái niệm sâu sắc,
đem lại một khuôn mẫu về văn hóa thế giới quan phổ quát. Bản thể luận duy tâm
của tồn tại xã hội ngời như một qúa trình phát triển, uan hệ giữa chủ thể và khách
thể được xem là một các triệt để. Hơn nữa, nó đi sâu vào lĩnh vực tồn tại lịch sử
cùa con người, luận chứng tư tưởng về tính quy luật xã hội, chỉ ra lao động như
những biểu hiện co bản của bản thể người. Tuy nhiên, nó cũng chủ yếu nhìn nhận
tiến trình tiến hóa và phát triển của tồn tại người từ lập trường duy tâm và thông
qua lăng kính của kho học tự nhiên đương thời, do vậy nó đem lại một niềm tin
mãnh liệt vào sức mạnh của khoa học, một kiểu sùng bái khoa học. Hai nữa
những quan điểm thời kỳ này chỉ dựa trên những cơ sở giá trị văn hóa phương
Tây và nó có xu hướng kiên định quan niệm duy lý thái quá về bản tỉnh người, coi
tư duy khoa học là thước đo tối cao và tối hậu về nhân tính, là phương tiện quan
trọng nhất cho sự nghiệp làm người. Đây là hạn chế lớn nhất của bản thể luận duy
tâm Đức.
Tóm lại, qua các thời kỳ lịch sử, lịch sử tinh thần của loài người ở phương
Tây được phản ảnh trong cách hệ thống bản thể luận triết học tương ứng. Bản
thể luận triết học cổ đại đã xây dựng hệ giá trị tinh thần gắn liền với con người
thế tục với “tự nhiên”dựa trên những hiểu biết của con người về thế giới tự
nhiên. Đến thời cận đại, bản thể luận xuất phát từ niềm tin tuyệt đối vào lý tính,
vào khoa học, coi đó là căn nguyên, là giá trị tối cao của tồn tại người, vì thế bản
thể luận này coi các nguyên lý của nhận thức khoa học như các nguyên lý của
tồn tại đích thực. Trong khi đó, bản thể luận duy tâm cổ điển Đức đồng thời
phản ảnh hệ thông giá trị văn hóa tinh thần truyền thống của thời đại công
nghiệp, phản tư lại hệ thống ấy qua lăng kính của xã hội đang chuẩn bị tiến hành
cách mạng tư sản và những thành tựu, cũng như những bài học của bản thân nền
văn minh công nghiệp. Ta có thể khẳng định bản thể luận trong triết học duy tâm
cổ điển Đức vẫn là một thành tựu lâu dài của lịch sử tư tưởng triết học nhân loại,
trở thành tiền đề cho những triết học ở thời hiện đại.




CHƯƠNG 3
QUAN NIỆM VỀ BẢN THỂ LUẬN TRONG TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
VÀ Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN
1.Quan niệm về bản thể luận trong triết học Mác - Lênin.
Khuynh hướng chung của các nhà triết học duy vật thời cổ đại là đi tìm
một thức thể ban đầu nào đó là coi nó là yếu tố tạo ra tất cả các sự vật, hiện
tượng khác nhau của thế giới, tất cả để bắt nguồn từ đó và cuối cùng đều tan
biến phát triển, ddã xuất hiện những tư tưởng biện chứng nhất định trong quan
niệm về vật chất, song quan niệm đó ở các nhà triết học duy vật thời kỳ này về
cơ bản vẫn mang tính chất cơ giới, thời kỳ này thì các nhà triết học đã đồng nhất
vật chất với thuộc tính của vật chất. Chỉ đến triết học Mác-Lênin mới có thể giải
quyết triệt để những hạn chế theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng ra đời vào những năm 40 của
thế kỷ XIX với sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử với tư cách
một lực lượng chính trị xã hội độc lập dấu tranh lại giai cấp tư sản vì dân chủ và
tiến bộ xã hội. Thực hiện cách mạng của giai cấp vô sản là cơ sở chủ yếu khác
nhất cho sự ra đời triết học Mác.
Cách tiếp cận vấn đề bản thể luận:
Về cách tiếp cận giải quyết vấn đề bản thể luận trong triết học Mác-Lênin
là chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế giới vật
chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức của con người; Hai là
mọi bộ phận của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất với nhau, biểu
hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết cấu vật
chất, hoặc có nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự chi phối
của những quy luật khách quan phổ biển của thế giới vật chất; Ba là thế giới vật
chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận. Trong thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn,
vô hạn và vô tận. Trong thế giới không có gì khác ngoài những quá trình vật chất
đang biến đổi và chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả
của nhau.



Quan niệm vật chất:
Vật chất, với tư cách là phạm trù cơ bản của triết học, ngay từ khi mới ra
đời đã được các nhà triết học quan tâm giải quyết. Phát triển quan niệm của Mác
và Ăng-ghen, Lênin đã đưa ra định nghĩa về vật chất: “Vật chất là một phạm trù
triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho cong người trong
cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại
không lệ thuộc vào cảm giác”5. Định nghĩa trên đã có ý nghĩa to lớn khi Lênin
đã làm rõ: Với tư cách là thực tại khách quan, vật chất không tồn tại phụ thuộc
vào ý thức con người, kiên định và triệt để uan niệm nhất nguyên của chủ nghĩa
duy vật, không thể quy v ật chất nói chung về vật thể, không thể đồng nhất vật
chất với những dạng cụ thể của cật chất như các nhà duy vật cổ đại. Thứ hai,
Lênin đã chỉ ra vật chất có thể được ý thức phản ánh, khẳng định được năng lực
nhận thức của con người, vạch ra đường ranh giới với thuyết bất khả tri. Thứ ba,
trong nhận thức luận, khi vật chất đối lập với ý thức, đặc tính duy nhất để nhận
biết vật chất là tính thực tại khách quan.Vậy, Lênin đã đưa ra được phương pháp
định nghĩa mới, mang tính trừu tượng hóa, khái quát hóa cao. Định nghĩa này là
một dấu mốc lớn, bác bỏ thuyết không thể biết, khắc phục những sai lầm, hạn
chế trong quan điểm duy tâm, siêu hình về vật chất. Bên cạnh đó, quan niệm này
cũng đã khắc phục được cuộc khủng hoảng về thế giới quan trong vật lý học,
định hướng cho sự phát triển của khoa học cụ thể. Cho đến bây giờ và mai sau,
khoa học không thể bác bỏ được định nghĩa của Lênin về vật chất. Theo
Ph.Ăng-ghen: “Vận động là phương thức tồn tại của vật chất”. Nghĩa là, vật chất
chỉ tồn tại bằng cách vận động, thông qua vận động mà biểu hiện sự tồn tại của
mình. Không thể có vật chát không vận động, thông qua vận động mà bộc lộ đặc
điểm, tính chất, kết cấu của nó và từ đó, con người có thể nhận thức được bản
chất, quy luật của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Mang tính kế
thừa, Mác-Lênin khẳng định vật chất gắn liền với vận động, nhưng trong quá
trình vận động không ngừng đó vẫn bao hàm cả hiện tượng đứng im. Tuy nhiên,

đứng im chỉ là tương đối khi nó biểu hiện sự vận động trong thăng bằng, trong
sự ổn định tương đối về vật chất hoặc nó chỉ xảy ra khi đặt nó trong một mối


quan hệ xác định chứ không phải trong mọi quan hệ cùng lúc và đứng im chỉ
xảy ra với một hình thức vận động nhất định chứ không phải với mọi hình thức
vận động. Vì vậy, đứng im chỉ là tạm thời, tương đối, vận động mới là vĩnh viễn,
tuyệt đối, bởi vận động diễn ra ở mọi nơi, mọi lúc, trong mọi sự vật, hiện tượng,
nó tồn tại từ đầu khi sự vật ra đời cho đến khi sự vật kết thúc, sự vật đó mất đi,
sự vật khác lại ra đời lại có hình thức vận động của mình. Không gian và thời
gian là những hình thức tồn tại của vật chất, không có vật chất tồn tại ngoài
không gian và thời gian.
Quan niệm về ý thức:
Trên cơ sở của những thành tựu khoa học, ý thức được định nghĩa là thuộc
tính của vật chất nhưng không phải là mọi dạng vật chất mà chỉ là thuộc tính cảu
một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con người. Nói một cách khác, ý thức
có nguồn gốc tự nhiên, đồng thời nó chỉ xuất hiện ở giai đoạn phát triển cao nhất
của thế giới vật chất, đó là sự xuất hiện của con ngời cùng bộ não. Bên cạnh đó,
ý thức còn có nguồn gốc xã hội, nó được hình thức chủ yếu do hoạt động lao
động cải tạo, biến đổi thế giới khách quan của con người và xuất hiện ngôn ngữ.
Thông qua lao động, con người có thể tác động vào thế giới khách quan làm cho
nó bộ lộ những thuộc tính, kết cấu, những quy luật vận động của mình để dần
hình thành tri thức. Trong quá trình lao động, ngôn ngữ cũng xuất hiện với vai
trò là hệ thống tín hiệu vật chất mnang nội dung ý thức. Không có ngôn ngữ thì
ý thức không thể tồn tại và thể hiện được. Vậy, bản chất của ý thức là sự phản
ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người một cách năng động,
sáng tạo.Ý thức không phải là một hiện tượng tự nhiện thuần túy mà là một hiện
tượng mang tính xã hội, ý thức bắt nguồn từ thực tiễn lịch sử - xã hội, là sản
phẩm của các quan hệ xã hội, chịu sự chi phối chủ yếu của các quan hệ xã hội,
các điều kiện sinh hoạt hiện thực của con người và phản ánh những quan hệ xã

hội 6.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:
Chủ nghĩa duy tâm đã trừu tượng hóa ý thức, tinh thần vốn có của con
người thành một lực lượng thần bí, tách khỏi con người hiện thực. Họ coi con


người là tồn tại duy nhất, tuyệt đối, là tính thứ nhất từ đó sinh ra tất cả, còn thế
giới vật chất chỉ là bản sao, biểu hiện khác của ý thức tinh thần, là tính thứ hai.
Do ý thức tinh thần sinh ra. Trong khi đó, chủ nghĩa duy vật siêu hình thì truyệt
đối hóa yếu tố vật chất, chỉ nahaans mnahj một chiều vai trò của vật chất sinh ra
ý thức, quyết định ý thức, phủ nahanj tính độc lập tương đối của ý thức, không
thấy được tính năng động sáng tạo, vai trò to lớn của ý thức trong hoạt động
thực tiễn cải tạo hiện thực khách quan.
Triết học Mác-Lênin khẳng định vật chất và ý thức, có quan hệ chặt chẽ với
nhau, trong đó vật chất đóng vai trò quyết định ý thức, nhưng ý thức cũng có tác
động trở lại đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Vật
chất quyết định sự ra đời cuả ý thức bởi ý thức ra đời là kết quả tất yếu của quá
trình tiến hóa lâu dài của thế giới vật chất, dẫn đến sự xuất hiện của một kết cấu
đặc biệt là bộ não người từ đó có khả năng phản ánh bằng ý thức. Vật chất quyết
định nội dung, sự vận động, biến đổi của ý thức. Thế giới khách quan đa dạng ra
sao sẽ được phản ánh và cải biến trong bộ não người. Khi thế giới khách quan
thay đổi thì nội dung phản ánh của ý thức cũng thay đổi theo. Ngược lại, ý thức có
vai trò chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người, chính vì vậy nó có thể tác đọng
trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Ý thức giúp con
người nhận thức được quy luật khách quan, trên cơ sở, con người xác định đúng
đắn mục tiêu và đề ra phương hướng hoạt động phù hợp. Chính vì vậy, nếu ý thức
phản ánh đúng đắn điều kiện vật chất, hoàn cảnh khách quan thì sẽ thúc đẩy tạo
sự thuận lợi cho sự phát triển của đối tượng vật chất. Ngược lại, nếu ý thức phản
ánh sai lệch hiện thực sẽ làm cho hoạt động của con người không phù hợp với
quy luật khách quan, do đó sẽ kìm hãm sự phát triển của vật chất.

Biểu hiện ở mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong đời sống xã hội là
quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong đó tồn tại xã hội quyết định ý
thức xã hội, đồng thời ý thức xã hội có tính độc lập tương đối và tác động trở lại
tồn tại xã hội. Ngoài ra, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức còn là cơ sở để
nghiên cứu, xem xét mối quan hệ khác như: lý luận và thực tiến, khách thể và
chủ thể, vấn đề chân lý.


2. Ý nghĩa phương pháp luận và liên hệ thực tiễn.
Những quan điểm về bản thể luận trong triết học Mác-Lênin đã giải quyết
triệt để hai mặt trong một vấn đề cơ bản của triết học theo quan điểm của chủ
nghĩa duy vậ biện chứng. Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định vật chất có
trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức, nhưng ý thực lại có tác động
ngược trở lại tới vật chất. Chính vì thế, con người cần phải tôn trọng khách quan
đồng thời phát huy tính năng động chủ quan. Con người cần tôn trọng các quy
luật tự nhiên và xã hội, trong hoạt động thực tiễn con người phải xuất phát từ
thực tế khách quan, lấy khách quan làm căn cứ cho những hoạt động của mình.
Nếu con người lấy tình cảm làm điểm xuất phát, áp đặt ý chí thay cho thực tế,
lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ rơi vào chủ quan duy ý chí. Bên cạnh đó,
phát huy vai trò tích cực của ý thức, của nhân tố con người trong việc phản ánh
đúng đắn thế giới khách quan, nhận thức được quy luật, xác định được mục tiêu,
đề ra phương hướng và tổ chức hoạt động hiệu quả.
Quan điểm triết học Mác-Lênin đã khắc phục hạn chế sai lầm của chủ
nghĩa duy vật trước Mác về vật chất: Bác bỏ phủ nhận quan điểm của chủ nghĩa
duy tâm và tôn giáo về vấn đề này. Nó tạo cơ sở cho các nhà triết học duy vật
biện chứng xây dựng quan điểm vật chất trong lĩnh vực đời sống xã hội.
Từ lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và kinh nghiệm rút ra trong quá trình
lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút ra bài học quan trọng là
“mọi đường lối, chủ trương của Đảng”


(7)

. Một trong những bài học lớn về sự

thành công của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong lãnh đạo cách mạng Việt
Nam là bài học kiên định lập trường, vận dụng sáng tạo lý luận và phương pháp
luận khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta. Rõ
ràng, muốn xây dựng nền kinh tế xã hội nên nền tảng lực lượng sản xuất tiên
tiến, hiện đại, theo V.I.Lênin, dứt khoát phải giữ vững vai trò lãnh đạo cảu giai
cấp công nhân, thông qua đội tiền phong của mình là Đảng cộng sản. Đồng thời
phải thường xuyên làm tốt việc củng cố nền chuyên chính vô sản, củng cố khối
đại đoàn kết dân tộc, đặc biệt là khối liên minh công nhân, nông dân và trí thức.
Nhờ sự trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ


thể của Việt Nam nên cách mạng nước ta giành những thắng lợi to lớn, có ý
nghĩa lịch sử, lập nên những kỳ tích vĩ đại.


KẾT LUẬN
Bản thể luận là tri thức căn cốt của triết học, từ đó ứng dụng vào nhiều
lĩnh vực khao học khác nhau, bởi nó không chỉ quy định việc ta lựa chọn những
lý thuyết nào cho những nghiên cứu của mình mà còn quyết định tính đúng đắn
của những kết quả nghiên cứu và ứng dụng của nó trong mọi mặt của xã hội.
Nghiên cứu các thời đại lịch sử bản thể luận không những đem lại cho chúng ta
bức tranh cô đọng, xúc tích, chuẩn xác về tiến trình phát triển của bản thân triết
học, mà còn cho phép chúng ta nhận thấy các thang bậc kế tiếp nhau trong công
cuộc khám phá và hiện thực hóa bản chất của loài ngời thông qua những giá trị
tinh thần căn bản nhất. Mỗi thời đại đều có những ý kiến khác nhau về thực chất
của tồn tại người và có vô số những tư tưởng đã xuất hiện. Chỉ có một số ít

những tư tưởng có thể bám rễ được vào môi trường tinh thần của một xã hội, có
tính đúng đắn để làm cơ sở cho các thế hệ sau. Gạt bỏ những điểm hạn chế, kế
thừa những mặt tích cực, triết học Mác-Lênin đã đưa ra những quan điểm đúng
đắn về bản thể luận, tìm ra được câu trả lời cho những đường hướng, những
phương pháp nhằm phát triển xã hội. Nắm vững linh hồn sống của chủ nghĩa
Mác là phép biện chứng duy vật, V.I.Lênin đã giải quyết thành công mối quan hệ
giữa kế thừa và sáng tạo, giữa bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác trong lịch sử
mới, nhờ đó đã định ra chiến lược và sách lược đấu tranh cách mạng đúng đắn.
Cách mạng Việt Nam đã kiên định, vận dụng linh hoạt quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin vào điềukiện của ta. Trong bất kỳ điều kiện nào, kiên định và vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin là cái đảm bảo chắc chắn nhất để giành cách
mạng thắng lợi; trái lại nếu dập khuôn, máy móc thì nhất định sẽ mắc sai lầm và
không thể tránh khỏi tổn thất hay sự sụp đổ như chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và
Đông Âu.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Bùi Đăng Duy - Nguyễn Tiến Dũng: Lịch sử triết học phương Tây hiện
đại, nxb tổng hợp Tp.HCM.
2. Bùi Thị Thanh Hương - Nguyễn Văn Đại: Khái lược lịch sử triết học,
nxb Chính trị - Hành chính, 2013.
3. Bùi Thị Thanh Hương - Nguyễn Đình Trình: Giáo trình lịch sử triết học
cổ điển Đức, nxb Khoa học xã hội, 2014.
4. Đảng cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nxb Sự thật, Hà nội, 1995.Tr5.
5. Khoa triết học, Học viện Báo chí và tuyên truyền: Giáo trình lịch sử
triết học Trung Quốc thời kỳ cổ - trung đại, nxb Chính trị - Hành chính,2009.
6. Khoa triết học, Học viện Báo chí và tuyên truyền: Giáo trình lịch sử
triết học Mác-Lênin, nxb Chính trị - Hành chính,2009.
7. Thích Quảng Tùng, Luân văn thạc sỹ triết học, trường đại học khoa học

xã hội và nhân văn, “Tư tưởng bản thể luận trong triết học phật giáo quan kinh
viên giác”
8. Trường Đại học kinh tế quốc dân: Những nội dung cơ bản của triết học
Mác-Lênin, nxb Đại học kinh tế quốc dân,2007.



×