MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN................................................................................................................
Lời mở đầu................................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài khóa luận....................................................1
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan....................................................2
2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới..................................................................2
2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước Việt Nam...................................................3
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu..................................................................4
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu..........................................................5
4.1. Đối tượng nghiên cứu.......................................................................................5
4.2. Mục tiêu nghiên cứu........................................................................................5
4.3. Phạm vi nghiên cứu..........................................................................................6
5. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................6
6. Kết cấu của khóa luận tốt nghiệp...........................................................................7
Chương 1...................................................................................................................... 8
Những lí luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh...........................................................8
hợp đồng theo mẫu trong thương mại........................................................................8
1.1. Một số vấn đề lí luận về hợp đồng mẫu:..............................................................8
1.1.1. Một số vấn đề lí luận về hợp đồng:...............................................................8
1.1.2. Một số vấn đề lý luận về hợp đồng theo mẫu:............................................11
1.2.Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật điều chỉnh về hợp đồng theo mẫu trong
thương mại.................................................................................................................17
1.2.1.Cơ sở ban hành.............................................................................................17
1.2.2. Nội dung pháp luật điều chỉnh về hợp đồng theo mẫu trong thương mại.
................................................................................................................................. 22
1.3. Nguyên tắc về pháp luật điều chỉnh vấn đề về hợp đồng theo mẫu trong
thương mại.................................................................................................................24
Chương 2.................................................................................................................... 26
Thực trạng pháp luật điều chỉnh vấn đề về hợp đồng theo mẫu trong thương mại
..................................................................................................................................... 26
2.1. Tổng quan tình hình và các nhân tố ảnh hưởng đến pháp luật về hợp đồng
theo mẫu trong thương mại.......................................................................................26
2.1.1. Tổng quan tình hình....................................................................................26
2.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng...............................................................................28
2.2. Thực trạng các quy phạm pháp luật điều chỉnh vấn đề về hợp đồng theo mẫu
trong thương mại.......................................................................................................29
2.2.1. Chủ thể của hợp đồng theo mẫu trong thương mại...................................29
2.2.2. Hình thức của hợp đồng theo mẫu trong thương mại...............................37
2.2.3. Nội dung bị coi là vô hiệu hợp đồng theo mẫu trong thương mại............39
2.2.4. Chế tài xử lý vi phạm của hợp đồng theo mẫu trong thương mại............42
2.3. Thực trạng thực hiện các quy phạm pháp luật điều chỉnh về hợp đồng theo
mẫu trong thương mại tại Công ty Cổ phần Truyền thông và Dịch vụ Nodo.......43
2.3.1. Tình hình giao kết hợp đồng theo mẫu trong thương mại tại Công ty Cổ
phần Truyền thông và Dịch vụ Nodo....................................................................43
2.3.2. Tình hình thực hiện hợp đồng theo mẫu trong thương mại tại Công ty Cổ
phần Truyền thông và Dịch vụ Nodo....................................................................46
2.4. Các kết luận và phát hiện qua nghiên cứu........................................................49
2.4.1. Những kết quả đạt được..............................................................................49
2.4.2. Những hạn chế.............................................................................................50
Chương 3.................................................................................................................... 54
Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh về hợp đồng theo mẫu trong
thương mại.................................................................................................................54
3.1. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống quy định pháp luật về hợp đồng
theo mẫu trong thương mại.......................................................................................54
3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao khả năng áp dụng các quy định pháp luật về
hợp đồng theo mẫu trong thương mại tại Công ty Cổ phần Truyền thông và Dịch
vụ Nodo....................................................................................................................... 58
3.3. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu...................................................59
KẾT LUẬN.................................................................................................................... .
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và rèn luyện tại trường Đại học Thương Mại, em đã
nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ và giảng dạy nhiệt tình của các thầy cô giáo trong
Khoa Kinh tế - Luật và Nhà trường. Qua quá trình học tập em đã tích lũy được nhiều
kiến thức để vận dụng vào công việc của mình trong tương lai. Với đề tài khóa luận tốt
nghiệp “Pháp luật về hợp đồng theo mẫu trong thương mại - Thực tiễn áp dụng tại
Công ty Cổ phần Truyền thông và Dịch vụ Nodo”, em đã có cơ hội vận dụng những
kiến thức của mình đã học vào thực tế để củng cố thêm vốn kiến thức và hiểu biết của
mình.
Trước hết, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình tới cô giáo ThS. Trần
Ngọc Diệp – người đã trực tiếp hướng dẫn em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp đại
học. Em cũng xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới tất cả các thầy cô giáo trong
Bộ môn Luật chuyên ngành và trong Khoa Kinh tế- Luật đã truyền dạy cho em những
kiến thức hữu ích để vận dụng vào thực tế giúp em trong việc hoàn thành khóa luận
này.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới giám đốc Công ty Cổ phần Truyền thông
và Dịch vụ Nodo cùng toàn thể cô, chú, anh, chị nhân viên trong công ty đã tạo điều
kiện giúp em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Do thời gian thực tập và hiểu biết còn nhiều hạn chế về mặt lý luận và kinh
nghiệm thực tế nên khóa luận còn nhiều thiếu sót, em rất mong nhận được sự đóng
góp, nhận xét từ các thầy cô để khóa luận được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 24 tháng 4 năm 2018
Nguyễn Minh Trang
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS
Bộ Luật Dân sự
LBVNTD
Luật Bảo vệ người tiêu dùng
BVNTD
Bảo vệ người tiêu dùng
LTM
Luật thương mại
QĐ
Quyết định
TTg
Thủ tướng
HĐTM
Hợp đồng theo mẫu
ĐKGDC
Điều kiện giao dịch chung
Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài khóa luận
Hợp đồng là công cụ chủ yếu để xác lập quan hệ giữa các cá nhân, tổ chức
trong đời sống thường ngày và là một chế định điển hình trong pháp luật dân sự nói
riêng và pháp luật nói chung. Hợp đồng được giao kết hàng ngày, với nhiều hình thức,
giữa nhiều chủ thể khác nhau, trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Với sự phát triển ngày
càng mạnh mẽ của đời sống kinh tế - xã hội, vai trò của hợp đồng ngày càng được phát
huy, trở thành cơ sở, nền tảng cho các mối quan hệ trong rất nhiều lĩnh vực, ngay cả
lĩnh vực hôn nhân và gia đình.
Trên thế giới, hợp đồng theo mẫu đã được sử dụng rất nhiều và phổ biến. Ở Việt
Nam, loại hợp đồng này cũng đã được áp dụng ngày một nhiều trong thực tiễn hoạt
động giao dịch hàng hóa, dịch vụ giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng. Những lĩnh
vực áp dụng hợp đồng theo mẫu thường là những lĩnh vực sản xuất, kinh doanh có số
lượng khách hàng lớn, ổn định, đặc biệt là những lĩnh vực mà nhà cung cấp hàng hóa,
dịch vụ mang tính chất độc quyền. Khi người tiêu dùng muốn mua, sử dụng hàng hóa,
dịch vụ của các doanh nghiệp này, họ bắt buộc phải đồng ý và ký kết vào các hợp đồng
với các điều khoản, điều kiện mặc định sẵn. Họ vẫn được quyền đọc, nhưng thường sẽ
không có thời gian để tìm hiểu rõ hoặc không được giải thích rõ về những nội dung
của hợp đồng nên thường không ý thức được các rủi ro pháp lý có thể gặp phải trong
quá trình thực hiện các hợp đồng đó. Thậm chí, một số trường hợp, người tiêu dùng đã
nhận thức được các rủi ro đó nhưng khi thương lượng lại với doanh nghiệp thì doanh
nghiệp thường nói đó là chính sách chung áp dụng cho tất cả mọi khách hàng và từ
chối việc sửa chữa, bổ sung hợp đồng theo ý kiến của người tiêu dùng đó.
Đối với một số lĩnh vực doanh nghiệp đưa ra hợp đồng theo mẫu đó là độc quyền
trong việc cung cấp hàng hóa, dịch vụ thì khách hàng, dù hoàn toàn ý thức được về các
khả năng rủi ro pháp lý khi tham gia hợp đồng cũng vẫn phải chấp nhận nếu muốn tiếp
tục mua hoặc sử dụng hàng hóa, dịch vụ. Ngay cả đối với một số lĩnh vực không phải
là độc quyền, người tiêu dùng hoàn toàn có thể lựa chọn các doanh nghiệp khác để
mua hoặc sử dụng hàng hóa, dịch vụ, nhưng có một thực tế tồn tại hiện nay, đó là các
doanh nghiệp trong cùng lĩnh vực thường chỉ có sự phân biệt về chất lượng hàng hóa,
dịch vụ, còn lại, các điều khoản, điều kiện dành cho khách hàng mua hoặc sử dụng
hàng hóa, dịch vụ của họ thường có một điểm chung: trong mọi trường hợp đều phải
bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp. Do đó, các hợp đồng theo mẫu của họ cũng
thường là giống nhau, thậm chí, một số doanh nghiệp còn sao chép lại y nguyên của
Page | 1
các doanh nghiệp khác.
Tình trạng này đã tồn tại từ lâu và đang dần trở nên phổ biến trong đời sống và
quan hệ kinh tế xã hội tại Việt Nam. Các doanh nghiệp ngày càng càng lạm dụng vị
thế để sử dụng ngày càng nhiều dạng hợp đồng theo mẫu với những điều khoản không
có lợi cho người tiêu dùng. Hơn lúc nào hết, các hợp đồng loại này đang nở rộ, được
sử dụng rộng rãi, áp dụng đại trà và cũng là đối tượng của những tranh chấp đang nảy
sinh ngày một nhiều giữa người tiêu dùng và doanh nghiệp.
Hợp đồng theo mẫu được sử dụng rất phổ biến tại Công ty Cổ phần Truyền thông
và Dịch vụ Nodo, các lĩnh vực ngành nghề của công ty rất đa dạng, cung ứng cho một
lượng khách hàng lớn và ổn định, vì vậy đặc trưng của dạng hợp đồng này là phù hợp
và đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của công ty. Khi áp dụng dạng hợp đồng
này, công ty còn cố gắng để bảo vệ cả quyền lợi của công ty lẫn quyền lợi của người
tiêu dùng, khách hàng chứ không lạm dụng vị thế khi ra các điều khoản trong hợp
đồng như một số công ty hiện nay trên thị trường.
Tuy nhiên, thực tế giao kết hợp đồng theo mẫu tại Công ty Cổ phần Truyền thông
và Dịch vụ Nodo cũng cho thấy sự phức tạp mà hợp đồng theo mẫu mang lại đối với
công ty trong việc cập nhật luật hợp đồng theo mẫu, ngoài ra còn có những vấn đề có
thể nảy sinh khi áp dụng quy định hiện tại đối với hợp đồng theo mẫu như vấn đề về
xác định năng lực chủ thể của các bên, bảo vệ quyền lợi nguời tiêu dùng, xác thời
điểm và địa điểm giao kết hợp đồng, vấn đề bản gốc,... Pháp luật hợp đồng truyền
thống chưa đề cập đến những vấn đề như nhìn vào góc độ của người dùng hợp đồng
khi kí kết hay những vấn đề liên quan đến lợi ích của các bên.
Chính vì vậy em đã chọn đề tài: “Pháp luật về hợp đồng theo mẫu trong thương
mại - Thực tiễn thực hiện tại Công ty Cổ phần Truyền thông và Dịch vụ Nodo”.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan
2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Có rất nhiều các công trình nghiên cứu liên quan tới hợp đồng theo mẫu, đa phần
đã nêu được đặc trưng của dạng hợp đồng này và một số giải pháp để bảo vệ khách
hàng. Sau đây là một số các bài ngiên cứu trên thế giới.
Bài viết “Contractual choice of law in contracts of adhension and party
autonomy” của Mo Zhang viết tại Temple University Legal Studies Resarch năm 2007
đã chỉ ra rằng dạng hợp đồng theo mẫu gây nhiều khó khăn cho pháp luật vì đặc tính
của nó khác biệt với dạng hợp đồng thông thường. Ở Mỹ, tính khả thi của hợp đồng
Page | 2
!o ")
o n [n
FEn
ng
; o,n FEn
X ; 2n @
)n "C J H
#:
[n ( ng % #eng n
)n
.
6 T g , #$ Jn 8 rqng ;
(>ng ( ng % #eng n
:n % -.
." g . % #eng sg ; 0ng # % F n #sng n
( ng % #eng 0ng
% #eng [ @
& ; ;
ng #eng X o n o n P ,
#:
0ng # . r.6 Q
2 #: s P A
B #@ ;
ng @ = @
= . #T #
' Zng # : ; o,n -. % #eng6
Q
2
-. t F!r O r!nuv! g # %
G P F,n rEn So "F . 4.v w! !v n`" bxyz
F
2
-. {r !(r
1!ss !r 2 rEn {.
L o .rs
L!r !s n`" bx_z
0ng r n n n@ :
r =n
( ng %
#eng ;
n . rong #@ @ % #eng !o ")
rP /n 2 #
'
r =n
-. #P n ' 6 T n En n Dng 0ng r n n #$ # % ng En < Z
# =" 9
n n.
ng
#$ @ n :
. #T nEn [ @ X ng f. ." ; ,o : 8
n #= so s n
" r. n Dng ng En K ".ng 8n
k -. Pn #: ng En < 6
Q
2 A
B -. 4!on
O6 Tr.;".n # %
2
n`" ^aap n@ :
n n.
ng "
# n R
r =n "
=n #T
% #eng6 5g
E (Vng #.ng ng
ng ,
# "W ' 0 s # : ; n rong
g@ / F.o F C
Pn 66 h g@
/n ":"
oW n P
oA
B rong "C C
o rEn "
8n sg o Y ng
sR
(>ng gW
, "C o
#: ; n <
:
n 2 sR (>ng
n 2 r
n "
X -. n
ng P 6 5 ng s&
r =n n #.ng # ng U
' s& =
F 2 U r ng "' -. ng
E (Vng6
"W ' s&
r =n -. T 2 ;| ].
"
n n ' #.ng
gKng " r.
#:
[n % #eng !o ")
F,o
s&
0ng Fqng o ng
E (Vng
o
n % o
ng " & (o6 Q
2 n #:
G P
#= # :
[n % #eng !o ") rong ;
)n g D # % & (o % #eng
#@ # : /n 2 o "C n:n (Jn - & (o6
Q
n `n A
B -. 5g dn T U 5g tn n`" ^abb6 Q
n `n #$
" rk
sh ; o.
X
n
ng : % #eng !o ") 6 m Jn 8
2 #Un %
#eng !o ") rong
2 > = S0ng ' ? En bxca : ]% #eng
" .F n
2 ng o
-. "C s n '
Vng $n
T ' # ( n E
F = -. J }
< m
-. J
r S.n.(. -. J ~ ] n 7
4o.n r* r. F
# =n n #= ng En <
H -. ? 5."
n Dng
g . #.ng
r =n ; 6 : G P
;
2n ng U :
(>ng "C s ; n
m.g! n z
nghiệm của các nước trên thế giới đối với pháp luật Việt Nam trong việc điều chỉnh
chế định hợp đồng theo mẫu, đảm bảo phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành tại
Việt Nam cũng như thực trạng và định hướng phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Bài “Bình luận về các quy định liên quan đến hợp đồng theo mẫu và điều kiện
giao dịch chung trong Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) “ của Đỗ Giang Nam, Khoa
Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, NCS tại Khoa Luật, Đại học Utrecht, Hà Lan năm
2015. Bài viết đã chỉ ra các thách thức của việc sử dụng điều khoản mẫu, hợp đồng
theo mẫu đối với nguyên tắc tự do hợp đồng, khái quát chung về các quy định điều
chỉnh hợp đồng theo mẫu trong pháp luật Việt Nam, điều kiện để điều khoản mẫu trở
thành một phần của hợp đồng, cơ chế kiểm soát tính công bằng của nội dung hợp đồng
theo mẫu, ngoài ra bài viết còn giải thích các khái niệm cơ bản về hợp đồng theo mẫu,
điều khoản mẫu.
Bài “Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong giao kết và thực hiện hợp đồng
gia nhập” của Ngô Văn Hiệp năm 2016 nói về nhu cầu điều chỉnh,thực trạng và giải
pháp hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giao kết và thực hiện
hợp đồng gia nhập, thêm vào đó là bài “Sự thỏa thuận trong giai kết hợp đồng gia
nhập” của Ngô Văn Hiệp năm 2016 nói về sự thỏa thuận trong kết hợp đồng gia
nhập,nêu ra những yếu tố thỏa thuận (ưng thuận) trong hợp đồng và thỏa thuận trong
giao kết hợp đồng gia nhập.
Bài “Hợp đồng gia nhập - Kinh nghiệm pháp luật của một số quốc gia và bài
học cho Việt Nam” của Trần Thị Thu Phương năm 2015. Bài viết tập đề cập khái niệm,
đặc điểm của hợp đồng gia nhập trong pháp luật của một số quốc gia trên thế giới và
phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về loại hợp đồng này. Trên cơ sở kinh nghiệm
quốc tế, bài viết đưa ra một số khuyến nghị nhằm làm rõ khung pháp lý về hợp đồng
này.
Có thể nói hiện nay chưa có công trình nghiên cứu nào tổng hợp một cách đầy đủ
và chuyên sâu về cả lý luận và thực tiễn về hợp đồng theo mẫu trong thương mại tại
Việt Nam. Tuy nhiên, xuất phát từ quan điểm khoa học vừa mang tính kế thừa vừa
mang tính mới mẻ, các công trình, bài viết trên của các tác giả rất bổ ích cho em trong
quá trình hoàn thành đề tài khóa luận.
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu
Đề tài khóa luận “Pháp luật về hợp đồng theo mẫu trong thương mại - Thực tiễn
thực hiện tại Công ty Cổ phần Truyền thông và Dịch vụ Nodo” đã tập trung nghiên
cứu pháp luật về dạng hợp đồng theo mẫu, thực tiễn áp dụng trong công ty và đã chỉ ra
Page | 4
được nhiều vấn đề còn thiếu sót trong việc áp dụng loại hợp đồng này trong thực tiễn.
Khóa luận đã chỉ ra được một số vấn đề dưới góc độ pháp lí như sau:
Thứ nhất, khóa luận làm rõ khái niệm, đặc điểm của dạng hợp đồng thông
thường, từ đó làm nổi bật lên khái niệm cũng như đặc điểm của dạng hợp đồng theo
mẫu qua sự khác biệt giữa hai dạng hợp đồng này.
Thứ hai, khóa luận nêu ra thực trạng pháp luật điều chỉnh về hợp đồng theo mẫu
cũng như thực trạng thực hiện các quy phạm pháp luật điều chỉnh về hợp đồng theo
mẫu trong thương mại tại Công ty Cổ phần Truyền thông và Dịch vụ Nodo thông qua
một số nội dung như điều kiện để hợp đồng có hiệu lực, nội dung của hợp đồng,.. và
thấy được những mặt ưu và nhược điểm còn tồn tại của dạng hợp đồng này.
Thứ ba, khóa luận đã đưa ra được một số các giải pháp giúp hoàn thiện pháp luật
điều chỉnh về hợp đồng theo mẫu trong thương mại tại Công ty Cổ phần Truyền thông
và Dịch vụ Nodo.
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của nghiên cứu này bao gồm:
- Khái niệm và các đặc điểm của hợp đồng theo mẫu trong lĩnh vực thương mại.
- Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia kí kết hợp đồng đồng theo mẫu
trong lĩnh vực thương mại.
- Thực trạng các quy định pháp luật hợp đồng theo mẫu trong lĩnh vực thương
mại và cơ chế quản lý của Nhà Nước đối với hoạt động này.
- Thực trạng áp dụng các quy định pháp luật của Công ty Cổ phần Truyền thông
và Dịch vụ Nodo, người tiêu dùng và các chủ thế khác có liên quan đối với hợp đồng
theo mẫu trong lĩnh vực thương mại.
4.2. Mục tiêu nghiên cứu
Thứ nhất, làm rõ cơ sở khoa học, lý luận chung về hợp đồng theo mẫu trong lĩnh
vực thương mại.
Thứ hai, phân tích các quy định trong pháp luật Việt Nam về các vấn đề cơ bản
liên quan đến hợp đồng theo mẫu trong lĩnh vực thương mại.
Thứ ba, đề xuất các khuyến nghị và nâng cao đối với pháp luật Việt Nam về các
vấn đề liên quan đến hợp đồng theo mẫu trong lĩnh vực thương mại cũng như giải
Page | 5
pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh về hợp đồng theo mẫu trong thương mại tại Công
ty Cổ phần Truyền thông và Dịch vụ Nodo.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
Để làm được mục tiêu trên, bài khóa luận đã dựa trên một loạt các quy định pháp
luật có liên quan đến hợp đồng theo mẫu trong lĩnh vực thương mại, đồng thời tìm ra
các bất cập về hợp đồng mẫu trong các case study cũng như của các doanh nghiệp đặc
biệt là Công ty Cổ phần Truyền thông và Dịch vụ Nodo.
Về thời gian: Khóa luận sẽ nghiên cứu các quy định trong Bộ Luật Dân sự 2015,
Luật bảo vệ người tiêu dùng 2010 và Luật thương mại 2005 và một số các văn bản
dưới luật khác để làm rõ khái niệm cũng như đặc điểm của dạng hợp đồng theo mẫu
trong thương mại.
Về không gian: Khóa luận tập trung làm rõ thực trạng quy định pháp luật và áp
dụng pháp luật về hợp đồng theo mẫu tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng tại Công ty
Cổ phần Truyền thông và Dịch vụ Nodo.
5. Phương pháp nghiên cứu
Bài khóa luận đã sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu: so sánh, phân
tích, tổng hợp để từ đó đánh giá ưu điểm, hạn chế của pháp luật Việt Nam về hợp đồng
theo mẫu trong lĩnh vực thương mại và các giải pháp hoàn thiện trên cơ sở tham khảo
so sánh có chọn lọc với hệ thống pháp luật trên thế giới. Cụ thể đối với từng chương
đó là:
Chương một đã sử dụng cách thu thập thông tin, lựa chọn, phân tích và tổng hợp
các dữ liệu tìm được để làm nổi bật lên những cơ sở lí luận của khái niệm, đặc điểm,
vai trò của hợp đồng theo mẫu trong thương mại.
Chương hai sử dụng phương pháp thu thập các văn bản pháp luật có giá trị và
liên quan tới vấn đề cần nghiên cứu đó là hợp đồng theo mẫu, từ đó chỉ ra được dạng
hợp đồn này được pháp luật điều chỉnh những khía cạnh nào. Qua đó thấy được những
bất cập còn gặp phải khi áp dụng dạng hợp đồng này.
Chương ba dựa theo những phân tích và thu thập thông tin ở trên để chỉ ra các
giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hợp đồng theo mẫu trong thương mại.
Có rất ít các bài nghiên cứu về vấn đề hợp đồng theo mẫu trong lĩnh vực thương
mại, các bài đã được nghiên cứu đa phần có kết quả nghiên cứu chỉ dựa trên nghiên
cứu lý luận, lý thuyết mà thiếu đi kết quả từ thực tiễn đời sống.
Page | 6
Bài khóa luận này vừa đưa ra được những lí luận, lý thuyết, đưa ra được những
bất cập và khắc phục từ thực tiễn. Đồng thời còn bổ sung phương pháp nghiên cứu
định lượng để đưa ra nhận xét chính xác hơn về đề tài. Không chỉ có vậy, từ việc đưa
ra được bất cập và phương pháp khắc phục thông qua thực tế, người tiêu dùng có thể
tự trang bị kiến thức luật pháp để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.
6. Kết cấu của khóa luận tốt nghiệp
Chương 1: Những lý luận cơ bản về hợp đồng theo mẫu trong thương mại.
Chương 2: Thực trạng pháp luật điều chỉnh vấn đề về pháp luật theo mẫu trong
thương mại tại Công ty Cổ phần Truyền thông và Dịch vụ Nodo.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh về hợp đồng theo
mẫu trong thương mại tại Công ty Cổ phần Truyền thông và Dịch vụ Nodo.
Page | 7
Chương 1
Những lí luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh
hợp đồng theo mẫu trong thương mại
1.1. Một số vấn đề lí luận về hợp đồng mẫu:
1.1.1. Một số vấn đề lí luận về hợp đồng:
a. Khái niệm:
Hợp đồng dân sự là một khái niệm có nguồn gốc lâu đời và thông dụng nhất, là
một trong những chế định quan trọng của pháp luật Dân sự. Có rất nhiều cách định
nghĩa “Hợp đồng dân sự”, chẳng hạn:
Theo phương diện chủ quan: Hợp đồng dân sự là một giao dịch dân sự, trong đó
các bên có sự thỏa thuận thống nhất ý chí với nhau nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm
dứt quyền, nghĩa vụ dân sự cho nhau.
Theo phương diện khách quan: Hợp đồng dân sự là một loại quan hệ xã hội được
quy phạm pháp luật dân sự điều chỉnh và thể hiện dưới một hình thức nhất định.
Dưới góc độ pháp luật thực định, khái niệm hợp đồng dân sự tại Việt Nam được
quy định tại Điều 385 BLDS năm 2015 quy định: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa
các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự”[1]. Khái
niệm này thể hiện đầy đủ về đặc điểm của hợp đồng dân sự nói riêng và hợp đồng nói
chung. Theo đó, hợp đồng phải là sự thỏa thuận giữa các bên chứ không phải là các
tuyên bố, thông báo, cam kết đơn phương của cá nhân hay tổ chức nào và nội dung của
hợp đồng để xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của các bên.
b. Đặc điểm và phân loại:
Đặc điểm:
Trên cơ sở khái niệm này, các nhà làm luật đặc biệt chú ý các nhân tố để hình
thành hợp đồng dân sự, bao gồm:
Thứ nhất, về chủ thể giao kết hợp đồng dân sự: Hợp đồng dân sự phải có sự tham
gia của hai chủ thể trở lên. Theo đó, nếu chỉ có một bên đưa ra tuyên bố đơn phương
thì không thể được coi là hợp đồng dân sự. Không những vậy, các chủ thể khi tham gia
xác lập, giao kết hợp đồng dân sự còn phải có đầy đủ năng lực pháp luật, năng lực
hành vi, nhận biết và ý thức đầy đủ về hành vi và hậu quả của hành vi do mình thực
hiện.
Page | 8
Thứ hai, về nguyên tắc giao kết hợp đồng dân sự: Việc giao kết hợp đồng dân sự
phải tuân thủ nguyên tắc tự do ý chí, tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác và ngay
thẳng giữa các bên. Điều này có nghĩa là, hợp đồng dân sự phải được hình thành trên
cơ sở thỏa thuận và thống nhất giữa các chủ thể tham gia xác lập và giao kết hợp đồng.
Nguyên tắc này được kế thừa từ tinh thần “Tự do khế ước” truyền thống lâu đời trong
pháp luật Việt Nam. Nếu thiếu đi tinh thần tự do, sự thỏa thuận này, hợp đồng dân sự
sẽ không còn là giao dịch đúng nghĩa.
Thứ ba, về hình thức của hợp đồng dân sự: Hợp đồng dân sự cơ bản có thể tồn tại
dưới cả hình thức bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Trong những
trường hợp pháp luật có quy định, một số dạng hợp đồng còn cần phải được công
chứng, chứng thực bởi các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
Thứ tư, về nội dung của hợp đồng dân sự: Nội dung của hợp đồng dân sự là tổng
hợp các quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng. Về cơ bản, các bên có
thể tự do thỏa thuận và thống nhất về các điều kiện, điều khoản của hợp đồng nhưng
không được trái với các quy định pháp luật hiện hành và không trái với đạo đức xã hội.
Xuất phát từ các quy định pháp luật hiện hành, khi giao kết hợp đồng, để tránh
các rủi ro pháp lý từ việc hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu, các chủ thể tham gia giao kết
phải thực sự chú trọng và cân nhắc về cả bốn yếu tố nêu trên cũng như các quyền lợi
và nghĩa vụ của mình phát sinh hoặc liên quan đến hợp đồng đã/sẽ giao kết đó.
Phân loại:
- Dựa vào mối liên hệ về quyền và nghĩa vụ giữa các bên chủ thể tham gia hợp
đồng, thì hợp đồng được chia thành hai loại là hợp đồng song vụ và hợp đồng đơn vụ,
trong đó:
+ Hợp đồng song vụ là hợp đồng mà mỗi bên đều có nghĩa vụ đối với nhau,
hay nói cách khác mỗi bên chủ thể tham gia hợp đồng vừa là người có quyền lại vừa
có nghĩa vụ. Do vậy, trong nội dung của hợp đồng này, quyền dân sự của chủ thể tham
gia này đối lập tương ứng với nghĩa vụ của chủ thể tham gia hợp đồng kia và ngược
lại. Khi các bên đã thoả thuận thời hạn thực hiện nghĩa vụ thì mỗi bên phải thực hiện
nghĩa vụ của mình khi đến hạn; không được hoãn thực hiện với lý do bên kia chưa
thực hiện nghĩa vụ đối với mình, trừ trường hợp tài sản của bên kia đã bị giảm sút
nghiêm trọng đến mức không thể thực hiện được nghĩa vụ như đã cam kết cho đến khi
bên kia có khả năng thực hiện được nghĩa vụ hoặc có người bảo lãnh; hoặc nếu bên
thực hiện nghĩa vụ trước chưa thực hiện nghĩa vụ của mình khi đến hạn.
Page | 9
+ Hợp đồng đơn vụ là hợp đồng mà chỉ một bên có nghĩa vụ. Điều này có
nghĩa là trong hợp đồng đơn vụ, chỉ có một hay nhiều chủ thể có nghĩa vụ mà không
có quyền gì đối với chủ thể kia, còn một hay nhiều chủ thể kia là người có quyền
nhưng không phải thực hiện nghĩa vụ nào (ví dụ hợp đồng tặng cho tài sản). Do đó,
nếu hợp đồng được giao kết dưới hình thức viết thì chỉ cần lập thành bản và giao cho
bên có quyền giữ hợp đồng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, bên có nghĩa vụ phải
thực hiện nghĩa vụ đúng như đã thoả thuận; chỉ được thực hiện trước hoặc sau thời hạn
nếu được bên có quyền đồng ý.
- Dựa vào thời điểm phát sinh hiệu lực, hợp đồng được chia thành hai loại sau:
+ Hợp đồng có hiệu lực tại thời điểm giao kết (hay còn được gọi là hợp đồng
ưng thuận). Đây là những hợp đồng mà theo quy của pháp luật, quyền và nghĩa vụ của
các bên phát sinh ngay sau khi các bên chủ thể thoả thuận xong về các nội dung chủ
yếu của hợp đồng. Trong việc thực hiện hợp đồng này, cho dù các bên tham gia chưa
trực tiếp thực hiện nghĩa vụ cam kết nhưng quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ đối với
bên kia đã phát sinh.
+ Hợp đồng thực tế là hợp đồng mà sau khi thoả thuận, hiệu lực của hợp đồng
chỉ phát sinh tại thời điểm các bên đã chuyển giao cho nhau đối tượng của hợp đồng.
- Dựa vào tinh chất thỏa thuận của hợp đồng, có thể chia thành hợp đồng theo
mẫu và hợp đồng thông thường:
+ Hợp đồng theo mẫu là hợp đồng gồm những điều khoản do một bên đưa ra
theo mẫu để bên kia trả lời trong một thời gian hợp lý; nếu bên được đề nghị trả lời
chấp nhận thì coi như chấp nhận toàn bộ nội dung hợp đồng theo mẫu mà bên đề nghị
đã đưa ra. Điều này có nghĩa là trong hợp đồng theo mẫu, chỉ có một người đưa ra các
điều khoản, còn bên kia không được sửa hay tham gia thỏa thuận các điều khoản trong
hợp đồng.
+ Hợp đồng thường là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi
hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Có sự thảo thuận của cả hai bên về nội dung
các điều khoản.
1.1.2. Một số vấn đề lý luận về hợp đồng theo mẫu:
a. Khái niệm:
Trên thế giới, hợp đồng theo mẫu có thể được quy định bằng các tên gọi khác
nhau cũng như tồn tại ở nhiều hình thức khác nhau. Xét từ khía cạnh bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng, các quốc gia và vùng lãnh thổ đã đưa ra khái niệm hợp đồng theo
Page | 10
mẫu gồm có: Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc, EU, Hoa Kỳ, Canada, Pháp, Hồng
Kong, Ấn Độ, Nauy, Anh…… nhưng về cơ bản các thuật ngữ này ở các nước khác
nhau đều có nội hàm như nhau, dùng để chỉ dạng hợp đồng do một bên đưa ra và bên
còn lại không có khả năng sửa đổi, thỏa thuận về từng điều khoản.
Theo Điều 1379 Bộ luật Dân sự Que’bec năm 1991 đã định nghĩa như sau: “Hợp
đồng theo mẫu là hợp đồng khi mà các quy định chủ yếu được áp đặt hoặc chuẩn bị
bởi một bên theo ý đồ của họ và những điều khoản đó không thể được tự do thảo
luận. Tất cả các hợp đồng không phải hợp đồng mẫu đều phải có thỏa thuận giữa các
bên”. [3]
Tại Pháp Jacques Ghestin – Giáo sư nổi tiếng chuyên ngành luật nghĩa vụ của
pháp tại Đại học Paris I Panthe’on – Sorbonne đưa ra một định nghĩa cũng tương tự
như vậy: “Hợp đồng theo mẫu có thể được định nghĩa là sự tham gia vào một hợp
đồng mẫu sẵn, được soạn thảo đơn phương của một bên, bên kia gia nhập vào và
không có khả năng thay đổi nội dung của hợp đồng”.
Năm 2002, các nhà lập pháp Đức đã chuyển hóa toàn bộ Luật về các điều kiện
thương mại chung vào Bộ luật dân sự CHLB Đức tại Quyển 2 – Nghĩa vụ dân sự,
Chương 2 – Các nghĩa vụ hợp đồng hình thành từ các điều kiện thương mại chung.
Theo đó, những điều kiện thương mại chung được quy định trong các Điều từ 305 đến
310.
Chế định hợp đồng theo mẫu được đề cập khá rõ ràng, cụ thể trong Luật Bảo vệ
Người tiêu dùng của Đài Loan. Theo đó, tại Khoản 9, Điều 2, Luật định nghĩa về hợp
đồng theo mẫu là: “ Hợp đồng mà một phần hoặc toàn bộ điều khoản cơ bản được
soạn thảo bởi các doanh nghiệp”. Tại Khoản 7, Điều 2 cũng đưa ra định nghĩa về các
điều khoản của hợp đồng theo mẫu là “Các điều khoản mẫu được các doanh nghiệp
đơn phương soạn thảo để giao kết với số lượng các lớn và không xác định các đối tác.
Ngoài dạng văn bản, những điều khoản này còn được thể hiện trên các bảng thông
báo công cộng, tờ rơi, các màn hình quảng cáo công cộng, internet hoặc các phương
tiện khác”.[6]
Pháp luật Hàn Quốc có quy định: “Cụm từ “Hợp đồng theo mẫu”, hay còn gọi là
hợp đồng gia nhập, được hiểu là một loại hợp đồng bao gồm các điều khoản, điều
kiện – bất kể phạm vi, thể loại hay tên gọi của chúng thế nào – được một bên chuẩn bị
trước dưới một hình thức nhất định, với mục đích giao kết hợp đồng với nhiều đối tác
khác nhau. [7]
Tuy tên gọi ở mỗi nước có sự khác nhau, nhưng nhìn chung, có thể định nghĩa
Page | 11
hợp đồng theo mẫu là: “Hợp đồng gồm những điều khoản do một bên đưa ra theo mẫu
để bên kia trả lời trong một thời gian hợp lý; nếu bên được đề nghị trả lời chấp nhận
thì coi như chấp nhận toàn bộ nội dung hợp đồng theo mẫu mà bên đề nghị đã đưa
ra” (Điều 405 Bộ luật Dân sự 2015) [1]
b. Đặc điểm và phân loại:
Đặc điểm:
Từ định nghĩa nêu trên, có thể thấy rằng hợp đồng theo mẫu có một số đặc điểm
khác biệt so với các hợp đồng thông thường. Điều này được thể hiện ở một số đặc
điểm khá nổi bật, rất dễ nhận biết như sau:
Thứ nhất, hợp đồng theo mẫu có các điều kiện, điều khoản do một bên trong hợp
đồng đưa ra chứ không dựa trên cơ sở của việc thỏa thuận, thương lượng rồi đi đến
thống nhất. Cho dù người tiêu dùng hiểu được hợp đồng cũng không mang lại nhiều ý
nghĩa thiết thực bởi đối với các hợp đồng kiểu này, họ sẽ không được quyền thương
lượng lại các điều khoản, điều kiện trong đó. Nếu người tiêu dùng muốn mua hoặc sử
dụng hàng hóa, dịch vụ, họ buộc phải chấp nhận toàn bộ nội dung của hợp đồng mà
doanh nghiệp đã đưa ra.
Thứ hai, là về hình thức trình bày. Thông thường vì là hợp đồng theo mẫu, nên
các nội dung của hợp đồng thường rất tỉ mỉ, chi tiết và đôi khi là rất dài dòng để có thể
bao trùm được tất cả những nội dung mà doanh nghiệp muốn phản ánh, điều chỉnh
hoặc trong một số trường hợp chỉ là với mục đích của doanh nghiệp là làm phức tạp
thêm nội dung của hợp đồng để người đọc không thể hiểu hết nếu không phải chuyên
gia hoặc không có đủ thời gian hợp lý.
Thứ ba, là về chủ thể của hợp đồng theo mẫu. Đối với các hợp đồng thông
thường, sự chênh lệch về địa vị của các bên khi giao kết hợp đồng là không rõ ràng và
thường là ngang bằng nhau. Chính vì vậy, họ có đầy đủ cơ sở, điều kiện và khả năng
để thương lượng, thỏa thuận về từng điều kiện, điều khoản của hợp đồng để thỏa mãn
các yêu cầu mà mình đặt ra. Tuy nhiên, đối với hợp đồng theo mẫu, giữa các chủ thể
tham gia giao kết hợp đồng thường tồn tại một khoảng cách về địa vị, vị thế thương
lượng rất lớn. Thường thì bên đưa ra các điều khoản, điều kiện của hợp đồng là bên có
địa vị cao hơn, có khả năng về tài chính, về pháp lý và đặc biệt là có sự am hiểu, khả
năng và điều kiện tìm hiểu về sản phẩm hàng hóa, dịch vụ cũng như các vấn đề liên
quan đến việc cung ứng hàng hóa, dịch vụ đó cho người tiêu dùng. Ngược lại, trong
mối quan hệ này, bên phải chấp nhận vô điều kiện nội dung của hợp đồng mà bên kia
đã đưa ra lại có một vị thế thấp hơn hẳn. Họ không có đủ khả năng về cả tài chính,
Page | 12
chuyên môn và địa vị xã hội để có thể thương lượng về các vấn đề phát sinh từ hoặc
liên quan đến các nội dung mà họ đã đọc hoặc nhiều khi chỉ là được nghe nói lại. Cũng
có những trường hợp người tiêu dùng có đầy đủ những yếu tố trên nhưng do ảnh
hưởng của yếu tố tập quán, thói quen tiêu dùng nên họ đã tự từ bỏ quyền của mình khi
giao kết hợp đồng theo mẫu. [17]
Thứ tư, đó là các doanh nghiệp thường sử dụng hợp đồng này để áp dụng hàng
loạt cho khách hàng, người tiêu dùng. Doanh nghiệp soạn thảo ra loại hợp đồng này để
áp dụng cho tất cả khách hàng của mình. Đây là những điều khoản, điều kiện mang
tính mặc định và cố định dành cho bất kì ai mua hoặc sử dụng hàng hóa, dịch vụ của
doanh nghiệp. Khách hàng khi giao dịch với doanh nghiệp sẽ không được đàm phán
riêng lẻ về các nội dung của hợp đồng mà chỉ có thể chấp nhận toàn bộ hoặc không.
Như vậy, có thể khẳng định, bất kì hợp đồng nào mà doanh nghiệp chỉ sử dụng cho
một hoặc một nhóm khách hàng cụ thể và không được áp dụng lại nhiều lần cho các
đối tượng khác đều sẽ không được coi là hợp đồng theo mẫu.
Thứ năm, là về nội dung của hợp đồng theo mẫu. Thông thường, các hợp đồng
theo mẫu có nội dung rất dài, tỉ mỉ nhưng lại được trình bày với một ngôn ngữ chuyên
môn hết sức khó hiểu khiến cho người tiêu dùng dù đọc đi đọc lại đến vài lần vẫn
không hiểu hết được ý nghĩa của câu từ, nếu không muốn nói đến hiểu được mục đích
của người soạn thảo. Điều này khiến cho hợp đồng theo mẫu ít được đọc hoặc có được
đọc nhưng chỉ đối với một số điều khoản chính chứa đựng ba yếu tố trên và lờ đi các
điều khoản khác. Ngoài ra, các hợp đồng theo mẫu thường chứa đựng các điều khoản
hạn chế quyền tự định đoạt của người tiêu dùng. Các điều khoản này có thể tồn tại
dưới rất nhiều hình thức khác nhau, có thể là điều khoản hạn chế quyền khiếu nại hoặc
khởi kiện của người tiêu dùng, cũng có khi là điều khoản hạn chế quyền đổi hoặc trả
lại hàng hóa, thậm chí có thể là những điều khoản hạn chế quyền sử dụng và định đoạt
tài sản của chính khách hàng....
Phân loại:
Xét về hình thức, hợp đồng theo mẫu có thể phân chia thành các hợp đồng theo
mẫu bằng văn bản và các quy tắc thương mại chung. Theo đó, với hợp đồng theo mẫu
bằng văn bản, các nội dung của hợp đồng sẽ được soạn thảo và kết cấu vào một văn
bản thống nhất, chặt chẽ như các hợp đồng cung ứng điện, nước, hợp đồng tín dụng,
hợp đồng bảo hiểm hay như các vé xem phim, vé xe buýt... Các hợp đồng bằng văn
bản này sẽ đòi hỏi các khách hàng phải ký kết hoặc coi như đã ký kết khi khách hàng
đã nhận được một bản hợp đồng. Trong khi đó, các quy tắc thương mại chung thường
Page | 13
được soạn thảo thành các nội quy bán hàng hoặc được mặc định thành tập quán mua
sắm mà người tiêu dùng, khách hàng sẽ chỉ được phổ biến hoặc đọc qua hay thậm chí
là mặc nhiên phải hiểu và công nhận khi mua, sử dụng hàng hóa và dịch vụ.
Xét về nội dung và lĩnh vực điều chỉnh, hợp đồng theo mẫu có một số dạng chính
và phổ biến nhất, đó là: Hợp đồng/các điều khoản bảo hiểm; Hợp đồng tín dụng, hợp
đồng tiền gửi; Các loại vé xe, vé xem phim, vé tham quan... ; Hợp đồng điện, nước,
viễn thông, bưu điện; Xổ số, lô tô, trò chơi có thưởng; Hợp đồng xây dựng, hợp đồng
thuê nhà; Các điều khoản mua, sử dụng phần mềm, chương trình tin học.
Hợp đồng theo mẫu đã và đang ngày càng phổ biến và đóng vai trò quan trọng
trong đời sống kinh tế, xã hội và pháp lý của chúng ta. Bất kì ai trong chúng ta khi
tham gia bất kì giao dịch dân sự nào dù là đơn thuần nhất cũng đã có cơ hội để xác lập
và giao kết hợp đồng theo mẫu. Để bảo vệ được người dùng tránh khỏi các rủi ro pháp
lý mà các hợp đồng theo mẫu có thể gây ra thì vấn đề quan trọng và cần thiết nhất đó
là phải tìm hiểu xem trên thực tế hợp đồng theo mẫu thường được sử dụng như thế nào
và pháp luật đã có những biện pháp hay hình thức nào để bảo vệ quyền và lợi ích của
chúng ta – những người tiêu dùng chân chính.
1.2.Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật điều chỉnh về hợp đồng theo mẫu
trong thương mại.
1.2.1.Cơ sở ban hành.
a. Cơ sở về kinh tế
Nền kinh tế xã hội nước ta đang phát triển nay đang định hướng lên nền kinh tế
xã hội chủ nghĩa, trong đó tồn tại các hình thức xác lập quan hệ thương mại như mua
bán hàng hóa, sử dụng dịch vụ,… Vậy nên hợp đồng được sử rụng rất phổ biến và
rộng rãi, hợp đồng phát triển càng nhiều thì hình thức lại càng đa dạng. Để đáp ứng
được nhu cầu của người tiêu dùng cũng như các công ty thì hợp đồng theo mẫu ra đời
và ngày càng trở nên phổ biến.
Khi so sánh sự thỏa thuận trong hợp đồng thông thường với hợp đồng theo mẫu,
có thể thấy rằng, sự thỏa thuận trong hợp đồng theo mẫu đã bị rút ngắn do quá trình
đàm phán, thương lượng không được hình thành giữa thương nhân và người tiêu dùng,
hay nói một cách khác thì sự thỏa thuận chỉ mang tính lý thuyết. Điều này xuất phát từ
đặc trưng của hợp đồng theo mẫu là dạng hợp đồng đã được chuẩn hóa các điều kiện
và điều khoản để sử dụng thường xuyên cho một loại hàng hóa, dịch vụ nhất định và
được soạn thảo bởi một bên tham gia hợp đồng (thường là bên có vị thế mạnh như
người bán hàng, bên cung ứng dịch vụ, ngân hàng hay công ty bảo hiểm…) để giao
Page | 14
dịch với nhiều người (người tiêu dùng) và thường được cho là có hiệu lực miễn là nó
hợp lý và công bằng với bên còn lại. Mặc dù hầu như không có quyền đàm phán,
thương lượng về các điều kiện và điều khoản của hợp đồng theo mẫu do thương nhân
đưa ra nhưng người tiêu dùng có quyền chấp nhận hoặc không chấp nhận các điều kiện
và điều khoản đó. Việc ưng thuận của người tiêu dùng được thể hiện ra bên ngoài bằng
hành vi giao kết hợp đồng. Trong trường hợp này, sự tự do ý chí của người tiêu dùng
đã được thực hiện đầy đủ, do đó hợp đồng đã được giao kết sẽ có hiệu lực pháp luật, vì
không vi phạm quyền tự do ý chí trong giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, hợp đồng được
giao kết cũng có thể vô hiệu nếu vi phạm các quy định khác của pháp luật.
Từ những phân tích ở trên, chúng ta có thể thấy rằng, sự phát triển của khoa học,
kỹ thuật và kinh tế đã làm thay đổi bản chất truyền thống của hợp đồng thể hiện ở việc
loại hợp đồng theo mẫu xuất hiện và được giao kết ngày càng nhiều. Nếu như trước
đây, việc thiết lập hợp đồng được xây dựng chủ yếu thông qua việc đàm phán, thương
lượng riêng lẻ từng hợp đồng, thì ngày nay, trong một số lĩnh vực cung ứng hàng hóa,
dịch vụ thiết yếu của đời sống, thương nhân đơn phương dự thảo các mẫu hợp đồng
nhất định để giao dịch với nhiều người tiêu dùng khi họ có nhu cầu mua, sử dụng một
loại hàng hóa, dịch vụ nhất định. Từ đó hợp đồng mở rộng thành hợp đồng theo mẫu,
dạng hợp đồng này đã tạo một bước tiến lớn nhất khi ấy, đó là làm thay đổi nhận thức
về bản chất của hợp đồng kinh tế. Dạng hợp đồng lúc này không còn là công cụ để thể
hiện các chỉ tiêu, kế hoạch của nhà nước như trước mà nó là sự thỏa thuận của các bên
kí kết, vẫn dựa trên những đặc điểm cơ bản của hợp đồng về sự tự nguyện, lợi ích kinh
tế của các bên, đặc biệt đó là tính nhanh, hiệu quả của nó.
b. Cơ sở về xã hội
Cơ sở xã hội bao gồm một số các mặt chính đó là trình độ văn hóa, phong tục tập
quán, thói quen giao kết hợp đồng, và những khía cạnh này ảnh hưởng rất nhiều tới
quá trình hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật về hợp đồng theo mẫu trong
thương mại.
Văn hóa đã ra đời từ rất lâu và bao trùm lên mọi mặt của đời sống xã hội, có tính
phong phú, đa diện, là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần, là nền
tảng, cốt lõi của một dân tộc. Giữa văn hóa và pháp luật nói chung và pháp luật điều
chỉnh hợp đồng nói riêng có mối quan hệ rất mật thiết, sự dung hòa trong cách tư duy,
thế giới quan, cùng việc tôn trọng thứ bậc, trật tự (do ảnh hưởng Nho giáo) của người
dân Việt Nam đã góp phần hình thành tư duy về sự thống nhất - tư duy chủ đạo hình
thành nên cơ chế quản lý tập quyền, như quy định tại Hiến pháp, bên cạnh đó, sự ảnh
hưởng của Nho giáo và Phật giáo trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt là
Page | 15
rất lớn. Một trong những điều tích cực mà hai tôn giáo trên mang đến cho văn hóa nói
chung và pháp luật nói riêng là một xã hội ổn định, ít tranh chấp, xung đột. Điều này
vô hình chung giúp cho việc quản lý xã hội dễ dàng hơn và người dân có sự tôn trọng
pháp luật ở một chừng mực nhất định. Tư tưởng, nhiệm vụ, bổn phận được phát huy
đúng cũng giúp người dân có ý thức hơn về vai trò trách nhiệm của mình với gia đình,
Nhà nước và xã hội. Ngoài ra với văn hóa này còn ảnh hưởng tới pháp luật điều chỉnh
hợp đồng theo mẫu đó là doanh nghiệp và người tiêu dùng đều có những quan điểm
tích cực, mong muốn ít tranh chấp, xung đột nên trong hợp đồng theo mẫu đều đưa ra
các điều kiện phù hợp với quyền và lợi ích chung của cả hai phía và không trái với quy
định của pháp luật, đồng thời tiết kiệm thời gian cho cả hai bên trong quá trình thành
lập và ký kết hợp đồng theo mẫu trong thương mại.
Phong tục tập quán được thừa nhận gián tiếp thông qua nguyên tắc chung và áp
dụng tập quán tại Điều 5 Bộ Luật Dân sự 2015. Phong tục tập quán có chức năng điều
chỉnh hành vi bằng cách thông qua dư luận xã hội: ca ngợi, khuyến khích, cải thiện,…
trở thành công cụ trong điều chỉnh đạo đức. Khi đó con người sẽ thực hiện pháp luật
một cách tích cực. Đồng thời nó có tính răn dạy và khi sử dụng phong tục tập quán sẽ
góp phần khắc phục tình trạng thiếu pháp luật, khắc phục những lỗ hổng của pháp luật
một cách kịp thời, thêm vào đó nó có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình tố tụng và
đưa ra đường lối giải quyết các tranh chấp. Dựa vào đó pháp luật điều chỉnh hợp đồng
theo mẫu trong thương mại sẽ được doanh nghiệp và người tiêu dùng tuân theo một
cách nghiêm túc và hạn chế để xảy ra tranh chấp.
Khi xã hội và kinh tế chưa phát triển, hợp đồng thường được ký kết dưới hình
thức lời nói và hành động, đi liền với sự phát triển của pháp luật cũng như nhu cầu cá
nhân tăng cao, nhận thức cũng thay đổi, hình thức hợp đồng bằng văn bản ngày càng
nhiều thay thế hai hình thức trên. Dần dần giao kết hợp đồng bằng văn bản đóng vai
trò quan trọng và phổ biến nhất. Đứng đầu trong xu hướng nhanh, tiện lợi, phù hợp với
sự phát triển của xã hội cũng như đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp và người
tiêu dùng, hợp đồng theo mẫu ra đời và ngày càng phát triển. Theo đó là sự phát triển
của pháp luật điều chỉnh hợp đồng theo mẫu trong thương mại.
c. Cơ sở về pháp luật
Pháp luật đề cao nguyên tắc tự do kinh doanh của các chủ thể trong nền kinh tế
thị trường. Tại Điều 51 Luật hiến pháp năm 2013 đã thừa nhận quyền tự do kinh doanh
của mọi công dân, mọi cá nhân tổ chức khi có đủ tư cách chủ thể đều có quyền tham
gia giao kết bát kỳ hợp đồng dân sự nào, nếu học muốn và không ai có quyền ngăn
cản. Nhưng bên cạnh việc chú ý đến quyền lợi của mình, các chủ thể phải hướng tới
Page | 16
việc bảo đảm quyền lợi của những người khác cũng như lợi ích của toàn xã hội. Như
vậy tự do kinh doanh không phải tất cả mọi thứ đều có thể thực kiện mà phải đảm bảo
sự tuân thủ pháp luật. Mọi thành phần kinh tế trong xã hội đều bình đẳng trước pháp
luật, chịu sự quản lý của nhà nước.
Trong quá trình giao kết hợp đồng theo mẫu, để bảo vệ quyền lợi của mình và
của bên tham gia hợp đồng, doanh nghiệp phải cho vào những điều khoản mẫu với nội
dung không trái pháp luật và xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của bên còn lại, lợi
ích công cộng và lợi ích của toàn xã hội. Khi đó các bên phải nắm được khái niệm của
hợp đồng theo mẫu được quy định tại Điều 405 Bộ luật Dân sự 2015 và các nội dung
của hợp đồng theo mẫu được pháp luật điều chỉnh.
Để hạn chế sự tự do thái quá của các chủ thể khi tham gia các quá trình giao kết
thực hiện hợp đồng theo mẫu thì cần thiết phải có sự điều chỉnh của pháp luật. Vì sự tự
do nào cũng phải cũng phải nằm trong khuôn khổ nhất định. Đối với hợp đồng theo
mẫu trong thương mại, nội dung đáng được quan tâm nhất đó là sự công bằng về
quyền lợi của người tiêu dùng, vậy nên các bên phải tìm hiểu các quy định của pháp
luật trong Luật bảo vệ người tiêu dùng 2010. Ví dụ Điều 12 Khoản 6 của Luật
BVNTD quy định nghĩa vụ của thương nhân, Điều 15 của Luật BVNTD 2010 quy
định vấn đề giải thích hợp đồng giao kết với người tiêu dùng,… Ngoài ra Nghị định
99/2011/NĐ-CP cỏn quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
BVNTD 2010. Đồng thời pháp luật Việt Nam còn quy định danh mục hàng hóa, dịch
vụ thiết yếu phải đăng ký hợp đồng theo mẫu đó là Quyết định số 02/2012/QĐ-TTg.
Hợp đồng theo mẫu là điển hình của sự bất cân xứng về thông tin, về khả năng
đàm phán, thương lượng giữa các bên bởi người tiêu dùng luôn ở thế yếu trong khi
thương nhân luôn ở thế mạnh bởi họ biết rõ hơn về hàng hóa, dịch vụ bán ra do đó, họ
thường soạn thảo hợp đồng với những điều kiện và điều khoản bất bình đẳng, đẩy
phần bất lợi cho người tiêu dùng. Trong bối cảnh đó, pháp luật cần phải xây dựng
những quy chế pháp lý đặc thù cho hợp đồng gia nhập để vừa không ảnh hưởng tới
quá trình thỏa thuận, vừa cân bằng được lợi ích hợp pháp của các bên, đồng thời vẫn
có thể bảo vệ tốt nhất quyền lợi của người tiêu dùng.
1.2.2. Nội dung pháp luật điều chỉnh về hợp đồng theo mẫu trong thương mại.
Thứ nhất về phạm vi đối tượng áp dụng hợp đồng theo mẫu. Phạm vi đối tượng
của hợp đồng theo mẫu trong thương mại là tất cả các doanh nghiệp, cá nhân tham gia
hoạt động mua bán hàng hóa, sử dụng dịch vụ,.. chủ thể được thiết lập các bên có thể
là thương nhân hoặc không, các chủ thể trở thành đối tượng tham gia hợp đồng khi có
Page | 17
hoạt động liên quan đến thương mại và sử dụng dạng hợp đồng này. Người tham gia
giao dịch có năng lực hành vi dân sự. Khi người tham gia giao dịch là thương nhân thì
việc xác định năng lực chủ thể có những đặc thù nhất định, ngoài điều kiện thành lập
hợp pháp thì nội dung đăng ký kinh doanh của thương nhân là thước đo năng lực thực
hiện hành vi kinh doanh của thương nhân, bởi vì Điều 9 Luật Doanh nghiệp quy định
là doanh nghiệp phải kinh doanh đúng ngành nghề đã đăng ký kinh doanh.
Thứ hai về nội dung của hợp đồng theo mẫu là những điều khoản một bên đưa ra
nhưng cũng dựa trên những lợi ích, sự công bằng của cả hai bên, các điều khoản này
xác định những quyền và nghĩa vụ dân sự cụ thể của các bên giao kết hợp đồng, mội
loại hợp đồng nói chung và hợp đồng theo mẫu nói riêng đều phải có những quy định
nhất định về các điều khoản cơ bản. Pháp luật đề cao sự thỏa thuận giữa các bên giao
kết, tuy nhiên nội dung của hợp đồng theo mẫu vẫn phải tuân thủ theo những quy định
của pháp luật hợp đồng nói chung, quy định tạo Bộ Luật Dân sự 2015. Loại trừ những
điều khoản của pháp luật có nội dung mang tính bắt buộc (ví dụ như đối tượng, chất
lượng, giá cả, phương thức thanh toán, thời hạn và địa điểm giao nhận hàng) bên
doanh nghiệp có thể đưa ra những nội dung khác với nội dung của pháp luật.
Thứ ba về hình thức thì hợp đồng theo mẫu trong thương mại được thiếp lập dưới
rất nhiều dạng, tùy theo nội dung của hợp đồng mà có dạng khác nhau, nhưng thường
là bằng văn bản. Trong một số trường hợp nhất định, hợp đồng phải được thiết lập
bằng văn bản khi nội dung của hợp đồng theo mẫu có giá trị cao và các bên muốn chắc
chắn hơn khi có tranh chấp xẩy ra. Hợp đồng theo mẫu cũng là một dạng của hợp đồng
mua bán hàng hóa, vậy nên pháp luật điều chỉnh của hợp đồng theo mẫu cũng gần như
tương tự với pháp luật điều chỉnh của hợp đồng thương mại nói chung. Theo Điều 24
Luật Thương mại 2005 đã quy định :” Hợp đồng mua bán hàng hóa được thể hiện
bằng lời nói, bằng văn bản hoặc xác định bằng hành vi cụ thể. Đối với các loại hợp
đồng mua bán hàng hóa mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải
tuân theo các quy định đó”. [9] Luật Thương mại năm 2005 cũng cho phép thay thế
hình thức văn bản bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương, bao gồm điện
báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu điện tử và các hình thức khác theo quy định của
pháp luật.
Thứ tư về đối tượng của hợp đồng thì đối tượng của hợp đồng theo mẫu trong
thương mại là hàng hóa. Theo nghĩa thông thường, hàng hóa được hiểu là những sản
phẩm lao động của con người, được tạo ra nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu của con
người. Dựa vào tính chất pháp lý, hàng hóa được chia thành nhiều loại khác nhau như
bất động sản, động sản, tài sản hữu hình, tài sản vô hình, các quyền về tài sản… Khoản
Page | 18
2 Điều 3 Luật thương mại năm 2005 quy định:“ Hàng hóa bao gồm: i) Tất cả các loại
động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai; ii) Những vật gắn liền với đất
đai”. [9] Như vậy, hàng hóa trong hợp đồng theo mẫu trong thương mại có thể là hàng
hóa đang tồn tại hoặc hàng hóa sẽ hình thành trong tương lai, có thể là động sản hoặc
bất động sản được phép lưu thông trong thương mại.
Thứ năm về mục đích của hợp đồng theo mẫu trong thương mại thì mục đích là
lợi nhuận. Xuất phát từ mục đích của hoạt động thương mại là nhằm sinh lợi nên khi
các thương nhân tham gia ký kết một hợp đồng theo mẫu trong thương mại suy cho
cùng cũng đều vì lợi ích lợi nhuận. Theo Khoản 3 Điều 1 Luật thương mại năm 2005
[9], đối với những hợp đồng giữa thương nhân với chủ thể không phải là thương nhân
và không nhằm mục đích sinh lợi, việc có áp dụng Luật thương mại để điều chỉnh
quan hệ hợp đồng này hay không là do bên không có mục đích lợi nhuận quyết định.
1.3. Nguyên tắc về pháp luật điều chỉnh vấn đề về hợp đồng theo mẫu trong
thương mại.
Thứ nhất nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật,
đạo đức xã hội. Tham gia quan hệ hợp đồng theo mẫu nói riêng và hợp đồng nói
chung, các chủ thể nhằm đạt được những lợi ích nhất định. Xuất phát từ lợi ích mà chủ
thể mong muốn được thỏa mãn, các chủ thể tham gia các hợp đồng dân sự khác nhau.
Pháp luật dân sự tôn trọng sự tự do giao kết hợp đồng của chủ thể và ghi nhận thành
nguyên tắc. Theo nguyên tắc này, các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng có sự tự do ý
chí trong việc lựa chọn hợp đồng mà mình giao kết, tự do lựa chọn chủ thể giao kết, tự
do lựa chọn các quyền và nghĩa vụ trong quá trình giao kết. Không một chủ thể nào
được phép can thiệp trái pháp luật vào sự tự do giao kết hợp đồng của các chủ thể
tham gia hợp đồng. Tuy nhiên, mặc dù pháp luật thừa nhận sự tự do giao kết hợp đồng
là một nguyên tắc nhưng trên tinh thần :” Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện,
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa
thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức
xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng”
( Khoản 2 Điều 3 Bộ luật Dân sự 2015) [1]. Điều này có nghĩa là các chủ thể tham gia
giao kết hợp đồng có sự tự do, nhưng sự tự do đó phải trong một khuôn khổ nhất định.
Thứ hai nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay
thẳng khi giao kết hợp đồng. Theo nguyên tắc này, khi tham gia giao kết hợp đồng, các
bên hoàn toàn tự nguyện. Khi giao kết hợp đồng, không bên nào được áp đặt, cấm
đoán, cưỡng ép, đe dọa, ngăn cản bên nào. Mọi hành vi tác động làm ảnh hưởng đến
sự tự nguyện của chủ thể có thể làm cho hợp đồng dân sự mà các chủ thể giao kết bị
Page | 19
vô hiệu.
Thứ ba nguyên tắc thiện chí, trung thực không chỉ là nguyên tắc được ghi nhận
cho các chủ thể khi tham gia quan hệ hợp đồng theo mẫu mà còn là nguyên tắc cơ bản
của luật dân sự (Điều 3, Bộ luật dân sự 2015) [1]. Khi các chủ thể tự nguyện giao kết
hợp đồng theo mẫu thì phải thể hiện sự thiện chí trước các chủ thể khác. Ngoài việc
thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ của mình thì cũng cần tạo điều kiện để bên kia
thực hiện các quyền và nghĩa vụ của họ. Ngoài ra, sự trung thực, ngay thẳng trong việc
giao kết hợp đồng theo mẫu cũng là yêu cầu mà pháp luật đặt ra đối với các chủ thể
tham gia giao kết hợp đồng. Trong việc tham gia giao kết hợp đồng thương mại, một
bên không được lừa dối bên kia, không được cố ý đưa ra các thông tin không đúng để
bên kia giao kết hợp đồng với mình.
Thứ tư nguyên tắc tự do khế ước, nguyên tắc này được pháp luật thừa nhận một
cách rõ ràng, được thể hiện trong Bộ luật Dân sự 2015 (BLDS) và Luật thương mại
2005 (LTM) với quyền tự do, tự nguyện cam kết , thỏa thuận . Như vậy, khi giao kết
hợp đồng theo mẫu với ai, với những điều kiện nào đều phụ thuộc vào sự tự do định
đoạt của người tham gia hoạt động kinh doanh. Khi một hợp đồng theo mẫu trong
thương mại được coi là hợp pháp, các bên tham gia giao kết hợp đồng buộc phải tuân
thủ.
Thứ năm nguyên tắc tự do lựa chọn luật áp dụng đối với hợp đồng có yêu tố nước
ngoài. Đối với hợp đồng theo mẫu có yếu tố nước ngoài, các bên có quyền lựa chọn
luật áp dụng cho hợp đồng ( có thể là pháp luật của quốc gia hoặc một công ước, một
tập quán quốc tế….)
Thứ sáu nguyên tắc không được ra những điều khoản chỉ có lợi về phía doanh
nghiệp, gây bất lợi, xâm phạm đến lợi ích của người tiêu dùng. Vì đặc trưng của hợp
đồng theo mẫu nên dạng hợp đồng này luôn phải tuân theo nguyên tắc này để bảo vệ
quyền lợi của khách hàng và tránh tính lạm dụng đặc quyền để chuộc lợi của doanh
nghiệp.
Page | 20
Chương 2
Thực trạng pháp luật điều chỉnh vấn đề về hợp đồng theo mẫu trong thương mại
2.1. Tổng quan tình hình và các nhân tố ảnh hưởng đến pháp luật về hợp
đồng theo mẫu trong thương mại.
2.1.1. Tổng quan tình hình
Trên thế giới, hợp đồng theo chỉ là một hình thức của những điều kiện thương
mại chung mà các doanh nghiệp thường sử dụng điều chỉnh mối quan hệ của doanh
nghiệp với tất cả khách hàng của mình. Điều kiện thương mại chung được hiểu là
những điều kiện hợp đồng, quy tắc bán hàng, chính sách khách hàng và các vấn đề
khác có liên quan do một bên (thường là doanh nghiệp) soạn thảo sẵn để áp dụng cho
tất cả những bên (thường là người tiêu dùng) tham gia giao dịch với mình. Hợp đồng
theo mẫu là một dạng của điều kiện thương mại chung trong đó bao gồm những điều
khoản liên quan đến đối tượng của từng giao dịch cụ thể nhưng do doanh nghiệp tự
soạn thảo và đưa ra để khách hàng trả lời trong một thời gian hợp lý; nếu khách hàng
trả lời chấp nhận thì coi như đã chấp thuận toàn bộ nội dung của hợp đồng. [15]
Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng ở nhiều nước trên thế giới quy định rất rõ về
các vấn đề liên quan đến điều kiện thương mại chung, đặc biệt là vấn đề hợp đồng theo
mẫu. Ở các quốc gia có hệ thống pháp luật tiên tiến, đồng bộ, vấn đề này được điều
chỉnh rất chặt chẽ. Theo đó, các quốc gia không chỉ dừng ở định nghĩa, đặc điểm và
các điều kiện phát sinh hiệu lực của các điều kiện thương mại chung, mà còn điều
chỉnh cả vấn đề hình thức thể hiện, việc đăng ký và kiểm soát cũng như vấn đề bảo vệ
người tiêu dùng trước các điều kiện thương mại chung, có thể kể đến như Liên minh
các quốc gia châu Âu (EU), các quốc gia độc lập trong EU, Canada, Đài Loan và Hàn
Quốc. [16]
Tại Việt Nam, hợp đồng theo mẫu cũng được sử dụng rất nhiều trong các giao
dịch dân sự, kinh tế, thương mại mà điển hình là các hợp đồng trong lĩnh vực tín dụng,
ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm,... Có thể thấy rõ các lĩnh vực thường sử dụng hợp
đồng theo mẫu tại Việt Nam là các lĩnh vực có tính chất chuyên môn cao, có số lượng
khách hàng lớn hoặc là các lĩnh vực mà các doanh nghiệp hoạt động trong đó có vị thế
độc quyền. Chính vì vậy, khi giao dịch với các doanh nghiệp trong các lĩnh vực nói
trên, người tiêu dùng thường không hiểu hết hoặc thậm chí là không biết về các quyền
lợi mà mình sẽ hoặc có thể được hưởng hoặc trường hợp khác là họ bắt buộc và mặc
nhiên chấp nhận toàn bộ những vấn đề mà doanh nghiệp đưa ra chỉ với mục đích cuối
Page | 21