Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (645.31 KB, 20 trang )
iên, mặc dù kim ngạch xuất khẩu cho cả hai
nhóm hàng trên là 20,5 tỷ USD nhưng giá trị nhập khẩu điện tử, máy
309
tính, linh kiện và các yếu tố đầu vào khoảng 13,1 tỷ USD (so với 7,2 tỷ
năm 2011, tăng 67%) khiến giá trị gia tăng xuất khẩu của các nhóm hàng
này không lớn. Đây là vấn đề không mới tại Việt Nam, với đặc thù tập
trung vào các mặt hàng gia công và phải nhập khẩu phần lớn đầu vào sản
xuất do cơ cấu trong nước mất cân đối và thiếu tính bền vững, đặc biệt là
sự thiếu vắng và yếu kém của các ngành công nghiệp hỗ trợ.
Trong tám tháng đầu năm 2013, xu hướng nêu trên vẫn tiếp diễn.
Trong khi xuất khẩu khu vực kinh tế trong nước đạt 28,7 tỷ USD, chỉ
tăng 3,1% thì khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt
56,1 tỷ USD, tăng 21,6% so với cùng kỳ năm ngoái. Tương tự, nếu như
nhập khẩu khu vực kinh tế trong nước đạt 37,1 tỷ USD, chỉ tăng 4% thì
khu vực FDI đạt 48,3 tỷ USD, tăng 25,1%. Theo đó, khu vực kinh tế
trong nước nhập siêu 8,4 tỷ USD trong khi khu vực FDI xuất siêu 7,8
tỷ USD.
Cơ cấu thị trường xuất nhập khẩu
Xét theo đối tác xuất khẩu, trước những năm 2000 đối tác nhập
khẩu chính của Việt Nam chủ yếu là EU, ASEAN và Nhật Bản. Trong
những năm 1996-1999, giá trị xuất khẩu sang ba thị trường này luôn
đạt mức xấp xỉ 60% tổng giá trị xuất khẩu. Từ sau năm 2001, Hiệp định
thương mại Việt - Mỹ được ký kết và bắt đầu có hiệu lực, thương mại
giữa Việt Nam và Hoa Kỳ bắt đầu phát triển mạnh, giá trị xuất khẩu sang
Hoa Kỳ liên tục tăng nhanh qua các năm và dần trở thành thị trường
xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam sau EU. Năm 2012, xuất khẩu Việt
Nam tiếp tục phụ thuộc nhiều vào một nhóm các quốc gia, khu vực như
EU (chiếm tỷ trọng cao nhất 17,7%), Mỹ (17,2%), ASEAN (14,9%) và
Nhật Bản (11,4%), với kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường này