Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Biện pháp tăng cường dạy tiếng anh qua hoạt động ngoài giờ lên lớp cho học sinh lớp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 30 trang )

I. Phần mở đầu:
1. Lý do chọn đề tài.
Việt Nam đã và đang vươn mình phát triển để bắt kịp với nền văn minh của
thế giới, của nhân loại. Chính vì vậy mà yêu cầu đặt ra trước mắt phải là trình độ và
năng lực của các thế hệ, đặc biệt là thế hệ trẻ. Để mở rộng tầm mắt và giao lưu với
các nước trên thế giới thì điều cần lưu tâm đầu tiên phải là trình độ ngôn ngữ. Mà
ngôn ngữ để các nước có thể giao tiếp thông dụng với nhau hiện nay là tiếng Anh,
hay nói cách khác tiếng Anh là một ngôn ngữ quốc tế. Từ trong quan hệ kinh tế,
trong các văn bản khoa học, ... hiện nay đa phần là sử dụng tiếng Anh.
Vậy mà các thế hệ từ cán bộ công chức, sinh viên, học sinh và các tầng lớp
khác trong xã hội còn rất nhiều lúng túng trong việc sử dụng tiếng Anh. Khả năng
sử dụng tiếng Anh trong công việc cũng như trong giao tiếp với người nước ngoài
còn rất hạn chế. Đối với việc có chứng chỉ ngoại ngữ chỉ là vấn đề đối phó, hình
thức, chưa thực sự có năng lực và bản thân mỗi cá nhân chưa thực sự ý thức được
tầm quan trọng của việc học ngoại ngữ. Đối với học sinh còn học ngoại ngữ nặng
nề theo chương trình sách giáo khoa nên dễ dàng bị nhàm chán dẫn đến hiệu quả
học tập không cao. Gần đây thì nhận thức của người dân về tầm quan trọng của
tiếng Anh đã được cải thiện phần nào, nhưng từ phía người dạy vẫn còn nhiều lúng
túng trong cách tổ chức giảng dạy. Chưa có sự bức phá, chưa thực sự dám nghĩ và
dám đưa những phương pháp dạy học mới và hiện đại vào, và đặc biệt hơn là vẫn
chưa có sự chỉ đạo nhiệt tình của cấp trên cho môn học này.
Tuy nhiên, việc dạy học cho các em thế nào để đem lại hiệu quả cao mới là
vấn đề đáng được quan tâm. Đối với học sinh Tiểu học thì phải làm như thế nào để
truyền đạt kiến thức một cách đơn giản, dễ hiểu và dễ nhớ nhất. Không thể dạy theo
phương pháp cổ điển là hướng dẫn cho học sinh đọc từ và dạy ngữ pháp theo cách
đưa ra công thức để học sinh tự lắp ráp. Đối với nhận thức của học sinh Tiểu học thì
việc học theo mô hình, theo công thức là không hiệu quả, mà phải dạy học theo
1


cách “học mà chơi, chơi mà học”. Nhưng chơi như thế nào để việc học đạt hiệu quả


cao thì lại phải tùy thuộc vào hình thức tổ chức của người dạy. Cũng như việc dạy
Toán và tiếng Việt, tiếng Anh dành cho học sinh Tiểu học rất cần phải có sự gây
hứng thú cho các em trong các giờ học để khắc sâu kiến thức cho các em, giúp các
em nhớ bài lâu hơn. Đã có rất nhiều hình thức tổ chức trò chơi dạy học, nhưng
thường chỉ là những trò chơi ngắn trong các tiết dạy nhằm lồng ghép vào chương
trình học của các em để củng cố bài học. Đã từ lâu bản thân tôi trăn trở và nghĩ đến
việc tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp môn tiếng Anh bổ ích cho học sinh
Tiểu học nhằm làm tăng thêm hứng thú cho học sinh trong việc học môn tiếng Anh.
Những năm trước, Vụ Giáo dục Tiểu học chủ trì, phối hợp với Nhà xuất bản
Giáo dục Việt Nam đã tổ chức sân chơi Olympic tiếng Anh Tiểu học. Sân chơi bổ
ích là động lực thúc đẩy việc dạy và học tiếng Anh của giáo viên và học sinh. Để
tham gia tốt các sân chơi có tầm cỡ, có tổ chức lớn như vậy thì bản thân giáo viên ở
mỗi trường cần phải có khả năng tự tổ chức cho học sinh của mình những sân chơi
tương tự như vậy. Đêt phù hợp với điều kiện thực tế của đơn vị và từng đối tượng
học sinh mà vẫn mang giá trị thiết thực, tôi đã có sáng kiến tăng cường dạy tiếng
Anh qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, qua vận dụng và khảo nghiệm thấy
rất hiệu quả nên tôi mạnh dạn xây dựng đề tài “Biện pháp tăng cường dạy tiếng
Anh qua hoạt động ngoài giờ lên lớp cho học sinh lớp 3”.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.
a. Mục tiêu:
Để góp phần đổi mới phương pháp dạy học môn Tiếng Anh Tiểu học theo
phương hướng phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh, tăng cường
hoạt động cá thể phối hợp với học tập giao lưu . Hình thành và rèn luyện kỹ năng
vận dụng kiến thức vào thực hiện quá trình giao tiếp .
Tạo hứng thú học tập môn Tiếng Anh cho học sinh, một môn học được coi là
mới mẻ và khó khăn thì việc đưa ra trò chơi giao tiếp, các hoạt động tập thể để vận
2


dụng các từ tiếng Anh đã học nhằm mục đích để các em không chán nản môn học

này, có cảm giác học mà chơi, chơi mà học. Trò chơi và các hoạt động khác ngoài
giờ học không những chỉ giúp các em lĩnh hội được kiến thức, từ ngữ mà còn giúp
các em củng cố, khắc sâu kiến thức, tự tin, tích cực, chủ động tiếp nhận tri thức,
hình thành kỹ năng, phát triển nhân cách, phát triển năng lực giao tiếp, bồi dưỡng
các phẩm chất và năng lực chung khác bằng chính cách của mình dưới sự giúp đỡ
của giáo viên.
b. Nhiệm vụ
- Phân tích thực trạng việc dạy tiếng Anh trước khi vận dụng đề tài.
- Đề ra những biện pháp tăng cường dạy tiếng Anh qua hoạt động ngoài giờ lên
lớp cho học sinh lớp 3.
- Cách thực hiện những biện pháp.
- Khảo nghiệm, đánh giá hiệu quả.
3. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu là những biện pháp tăng cường dạy tiếng Anh qua hoạt
động ngoài giờ lên lớp. Cụ thể như sau:
Biện pháp 1: Các hoạt động hát, múa, thể dục nhịp điệu trong lúc chuyển tiết.
Biện pháp 2: Tổ chức các tiết học tập ngoài trời.
Biện pháp 3: Tổ chức các tiết học thư viện.
Biện pháp 4: Tổ chức các hoạt động câu lạc bộ tiếng Anh.
Biện pháp 5: Tổ chức các sân chơi tiếng Anh.
4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu.
- Phạm vi nghiên cứu: dạy các hoạt động ngoài giờ lên lớp, áp dụng cho khối
lớp 3, trường Tiểu học Lê Hồng Phong.
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 1 năm học 2016 – 2017 tới cuối tháng 4
năm học 2017 - 2018.
5. Phương pháp nghiên cứu.
a. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
- Phương pháp phân tích – tổng hợp tài liệu;
3



b. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra;
- Phương pháp quan sát khoa học;
- Phương pháp khảo nghiệm, thử nghiệm;
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục;
- Phương pháp nghiên cứu các sản phẩm hoạt động;
c. Phương pháp thống kê toán học
II. Phần nội dung
1. Cơ sở lí luận
Khoản 2, Điều 28 Luật Giáo dục năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009 quy
định “phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy
sáng tạo của người học, bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực
hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên.”
Với mục tiêu giáo dục phổ thông là “ Giúp học sinh phát triển toàn diện về
đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá
nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam Xã hội
chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp
tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc”.
Chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo quyết định số 16/2006/QĐ –
BGDĐT ngày 05/05/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã nêu: “
Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh , phù hợp với
đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện từng lớp học, bồi dưỡng
cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác, rèn luyện kỹ năng vận dụng
kiến thức vào thực tế, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách
nhiệm học tập cho học sinh.
Việc tổ chức các sân chơi cho các em theo chủ đề, chủ điểm, câu lạc bộ, …
vừa giúp các em giải tỏa những áp lực sau những giờ học căng thẳng vừa đem đến
4



những bài học bổ ích và lí thú mà lại tạo cho các em động lực học tập và giáo viên
nâng cao nghiệp vụ chuyên môn.
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu.
* Ưu điểm của vấn đề khi chưa áp dụng giải pháp:
- Môn Tiếng Anh là môn học mới được áp dụng đối với học sinh Tiểu học
trong những năm gần đây. Vì vậy một số học sinh cảm thấy có hứng thú, hoặc yêu
thích với môn học còn mới mẻ này, nên mỗi khi lên lớp đa số học sinh rất tích cực.
- Trường có tương đối đầy đủ về thiết bị, đồ dùng dạy học như : băng đài,
đĩa, máy chiếu, bảng tương tác, đồ dùng học tập... phục vụ cho việc dạy và học. Có
cơ sở vật chất và xây dựng phòng học, đóng bàn ghế theo chuẩn.
- Có được sự hợp tác tốt giữa giáo viên và học sinh.
- Đặc biệt là việc triển khai sinh hoạt chuyên môn liên trường cho các giáo
viên tiếng Anh mang lại hiệu quả rất lớn cho việc giảng dạy.
- Qua quá trình học tập, tìm hiểu qua sách báo, tài liệu cũng như quá trình
giảng dạy đã giúp cho tôi có những kinh nghiệm thiết thực trong khi thực hiện.
* Tồn tại khi chưa áp dụng giải pháp:
Bên cạnh những thuận lợi nêu trên thì vẫn còn một số khó khăn còn gặp phải:
- Hầu hết học sinh ở đây đều là con em thuần nông, con em dân tộc thiểu số
nên điều kiện đầu tư cho các em còn hạn chế, điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến
tinh thần học tập của các em.
- Do điều kiện và hoàn cảnh, phụ huynh chưa hiểu rõ được tầm quan trọng
của môn Tiếng Anh, nên chưa quan tâm, đốc thúc các em học môn học này, dẫn
đến một số em không có điều kiện mua sách vở đầy đủ.
- Do điều kiện phát triển về mọi mặt còn hạn chế, điều kiện để các em học
sinh tiểu học được tiếp xúc với các thông tin đại chúng, các chương trình giải trí sử
dụng Tiếng Anh còn ít. Dẫn đến khả năng giao tiếp của các em còn hạn chế.

5



- Bên cạnh một số em học hành nghiêm túc, có không ít học sinh khả năng
tiếp thu còn hạn chế, các em chưa thực sự có kinh nghiệm trong việc tự học và
củng cố kiến thức khi ở nhà. Bởi vì là môn ngoại ngữ, không phải phụ huynh nào
cũng biết.
Từ thực trạng mà tôi vừa nêu ra trên đây đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất
lượng dạy và học môn tiếng Anh của học sinh Tiểu học. Một số học sinh khi được
hỏi đã rất sợ học môn tiếng Anh vì môn này khó nhớ, khó học và khó viết. Ngoài
ra, một số giáo viên cũng chưa có những biện pháp tích cực để bồi dưỡng đối tượng
này nên dẫn đến việc giáo viên chưa thực sự yêu nghề, kết quả học tập của học sinh
còn chưa cao.
Sau đây là kết quả kiểm tra khảo sát đầu năm học 2017 – 2018 của học sinh
lớp 3B và 3C khi chưa thực hiện các hoạt động dạy học mới vào giảng dạy:
STT Lớp
1
2

3B
3C

Tổng số
HS
24
23

Hoàn thành tốt

Hoàn thành

2

2

20
20

Chưa hoàn
thành
2
1

Nhìn vào bảng thống kê kết quả khảo sát đầu năm học của hai lớp 3B và 3C,
ta thấy chất lượng học của các em còn chưa cao, còn có nhiều học sinh hoàn thành
và chưa hoàn thành, số lượng học sinh hoàn thành tốt còn khiêm tốn.
* Các nguyên nhân khách quan, chủ quan và yếu tố tác động.
Trong năm học vừa qua, tôi được phân công giảng dạy môn Tiếng Anh tại
trường TH Lê Hồng Phong, tôi thấy tình hình học môn tiếng Anh của các em chưa
sôi nổi, chưa yêu thích môn học, rất nhiều học sinh ở đây là người dân tộc thiểu số,
các em còn nhút nhát, rụt rè chưa mạnh dạn, một số học sinh không có đầy đủ sách
vở nên các em không đủ tự tin khi vào tiết học, những điều này ảnh hưởng rất lớn
đến việc học môn tiếng Anh.

6


Như chúng ta đã biết học sinh lớp 3 - các em còn nhỏ nên việc truyền đạt
kiến thức và kĩ năng đến các em hết sức khó khăn nên tôi đã dùng nhiều phương
pháp khác nhau để gây hứng thú, tạo đồ dùng trực quan, trò chơi học tập, hướng
dẫn cụ thể, dùng ngân hàng tranh ảnh, tài liệu nghe có liên quan cho các em được
quan sát, luyện nghe để các em có thể tiếp cận bài học một cách nhẹ nhàng và hứng
thú nhất. Ngoài ra, tôi còn tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp như dạy hát,

múa, nhịp điệu, tiết hoạt động ngoài trời, tiết đọc thư viện, câu lạc bộ và sân chơi
tiếng Anh cho học sinh, tạo cho các em sự mạnh dạn, tự tin khi thể hiện năng khiếu
của mình.
Bậc Tiểu học là bậc học góp phần quan trọng trong việc đặt nền móng cho
việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Môn tiếng Anh ở bậc Tiểu học
cũng như những môn học khác cung cấp những tri thức ban đầu và những nhận
thức về việc sử dụng ngôn ngữ nước ngoài.
Môn tiếng Anh ở bậc tiểu học là một môn học độc lập, chiếm không ít thời
gian trong chương trình học của học sinh. Bởi đặc thù của môn học nó không giống
như các môn học khác là ngoài giờ học trên lớp, các em không thể nhận được sự
kèm cặp hay giúp đỡ nào từ phía gia đình. Nhất là vùng nông thôn của chúng tôi,
hầu hết các bậc phụ huynh chỉ có rất ít kiến thức về môn tiếng Anh.
Môn tiếng Anh có tầm quan trọng to lớn trong thời kỳ đổi mới hiện nay của
đất nước, trong xu thế hội nhập toàn cầu hoá, cả thế giới là một ngôi nhà chung. Vì
vậy, Tiếng Anh nó là môn học ngôn ngữ giao tiếp chung và được xem là ngôn ngữ
quốc tế . Ở Việt Nam, những năm gần đây môn tiếng Anh cũng được bắt đầu đưa
vào học ở chương trình học của bậc tiểu học, nên cần phải có từ ngữ đơn giản, gần
gũi, phù hợp với hoạt động nhận thức của học sinh.
Môn tiếng Anh cũng có khả năng giáo dục rất lớn trong việc rèn luyện tính
kiên trì và ghi nhớ, từ các thao tác tư duy cần thiết cho việc tiếp cận và hình thành
ngôn ngữ mới.
7


Ở lứa tuổi tiểu học cơ thể của học sinh đang trong thời kỳ thay đổi hay nói cụ
thể là các hệ cơ quan chưa hoàn thiện. Vì thế, sức dẻo dai của cơ thể còn thấp nên
các em không thể làm lâu một cử động đơn điệu, dễ nhàm chán làm cho các em học
sinh không tập trung được và không muốn học.
Học sinh tiểu học rất hào hứng và thích tiếp xúc với một sự vật, một hiện
tượng nào đó, nhất là những hình ảnh gây cảm xúc mạnh.

Học sinh Tiểu học thường hiếu động, ham hiểu biết cái mới, xong các em lại
chóng chán . Do vậy, trong dạy học giáo viên phải sử dụng nhiều đồ dùng dạy học,
tăng cường thực hành, tổ chức các trò chơi, hoạt động ngoài giờ lên lớp xen kẽ, ...
để củng cố khắc sâu kiến thức.
3. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp.
a. Mục tiêu của giải pháp.
Khi tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp, các em tham gia đều có cơ hội
học hỏi lẫn nhau rất nhiều. Mỗi cá nhân khi giới thiệu về mình sẽ thêm tự tin hơn
khi giao tiếp bằng tiếng Anh, các em có cơ hội va chạm, tiếp xúc với môi trường
nói tiếng Anh. Còn các em tham dự sẽ được nghe các bạn nói, bổ sung được những
kiến thức còn thiếu sót của mình. Các em được ôn lại các từ, câu, câu hỏi và câu trả
lời, phản xạ tốt hơn với tiếng Anh. Khi các em tham gia hát múa bằng tiếng Anh sẽ
tạo cho tinh thần thêm phấn chấn, càng thêm yêu thích môn học này hơn. Giáo viên
tổ chức được nhiều sân chơi như vậy là đã tạo cho các em môi trường học tiếng
Anh cực kì bổ ích và lí thú, hiệu quả học tập sẽ tăng lên rất nhiều lần.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp.
* Các biện pháp thực hiện các hoạt động ngoài giờ lên lớp môn tiếng Anh.
Biện pháp 1: Các hoạt động hát, múa, thể dục nhịp điệu trong lúc chuyển tiết.
Biện pháp 2: Tổ chức các tiết học tập ngoài trời.
Biện pháp 3: Tổ chức các tiết học thư viện.
Biện pháp 4: Tổ chức các hoạt động câu lạc bộ tiếng Anh.
Biện pháp 5: Tổ chức các sân chơi tiếng Anh.
* Các thực hiện các biện pháp.
8


Biện pháp 1: Các hoạt động hát, múa, thể dục nhịp điệu trong lúc chuyển
tiết.
Trong các tiết học liên tiếp, lúc chuyển tiết tiếp theo, học sinh vẫn phải tiếp tục
bài học khác. Tránh sự nhàm chán ấy, tôi đã thêm vào các hoạt động như các bài hát,

múa tiếng Anh theo chủ điểm tháng, tập bài thể dục ngắn hay ra các câu lệnh bằng tiếng
Anh cho học sinh. Qua đó, đã giúp học sinh khắc sâu hơn các từ vựng, các câu, phản xạ
tốt hơn với các hoạt động.
Đây cũng chính là phương pháp dạy học TPR (Total Physical Response). Cụ thể
như sau:
• Bài hát: “Follow me”

(Nguồn youtube, tên bài hát: Follow me)
- Lời bài hát:
Follow me. Follow me. It’s as easy as can be.
Follow me. Follow me. 1, 2, 3, …
Clap your hands.
Spin around.
Bend your knees.
Touch the ground.
Follow me. Follow me. It’s as easy as can be.
Follow me. Follow me. 1, 2, 3, …
Wiggle your fingers.
Tippy toe.
Stretch up high.
9


Wave hello.
Follow me. Follow me. It’s as easy as can be.
Follow me. Follow me. 1, 2, 3, …
Flap your arms.
Stomp your feet.
Pat your back.
Take your seat.

- Lời bài hát dịch sang tiếng Việt:
Làm theo tôi. Làm theo tôi. Nó thật dễ dàng để có thể làm được.
Làm theo tôi. Làm theo tôi. 1, 2, 3, …
Vỗ tay.
Xoay quanh.
Khuỵu đầu gối.
Chạm đất.
Làm theo tôi. Làm theo tôi. Nó thật dễ dàng để có thể làm được.
Làm theo tôi. Làm theo tôi. 1, 2, 3, …
Ngọ nguậy ngón tay.
Nhón chân.
Nhướng người lên cao.
Vẫy chào.
Làm theo tôi. Làm theo tôi. Nó thật dễ dàng để có thể làm được.
Làm theo tôi. Làm theo tôi. 1, 2, 3, …
Lắc cánh tay.
Dậm chân.
Vỗ nhẹ cái lung.
10


Ngồi xuống đi.
- Cách thực hiện: Học sinh vừa hát vừa làm theo động tác.
- Mục đích: Các em được hoạt động sôi nổi qua nhạc và lời bài hát múa giúp
giảm sự căng thẳng của tiết học trước, tạo không khí hào hứng cho tiết học sau. Đồng
thời giúp cho các bộ phận tay, chân, gối linh hoạt hơn, tránh mỏi. Đặc biệt hơn là giúp
học sinh ghi nhớ và khắc sâu các cụm từ chỉ hoạt động như: clap your hands, spin
around,
bend your knees, touch the ground, wiggle your fingers, tippy toe, stretch
up high, wave hello, flap your arms, stomp your feet, pat your back, take your seat.

• Bài hát: “Head, shoulders, knees and toes”

(Nguồn youtube, tên bài hát: Head Shoulders Knees & Toes)
- Lời bát hát:
(Lời 1) Head, shoulders, knees and toes, knees and toes.
Head, shoulders, knees and toes, knees and toes.
Eyes, and ears, and mouth, and nose.
Head, shoulders, knees and toes, knees and toes.
Let’s try a little faster.
(Lời 2) Head, shoulders, knees and toes, knees and toes.
Head, shoulders, knees and toes, knees and toes.
Eyes, and ears, and mouth, and nose.
Head, shoulders, knees and toes, knees and toes.
Faster
(Lặp lại lời 2 thêm 2 lần nữa)
- Lời bài hát dịch sang tiếng Việt:
Đầu, vai, đầu gối và ngón chân, đầu gối và ngón chân.
Đầu, vai, đầu gối và ngón chân, đầu gối và ngón chân.
Mắt, và tai, và miệng, và mũi.
Đầu, vai, đầu gối và ngón chân, đầu gối và ngón chân.
Hãy thử làm nhanh hơn tí nào.
11


Đầu, vai, đầu gối và ngón chân, đầu gối và ngón chân.
Đầu, vai, đầu gối và ngón chân, đầu gối và ngón chân.
Mắt, và tai, và miệng, và mũi.
Đầu, vai, đầu gối và ngón chân, đầu gối và ngón chân.
Nhanh lên nữa.
- Cách thực hiện: Học sinh vừa hát vừa làm theo động tác.

- Mục đích: Khi hát đồng thời các em chạm tay vào các bộ phận cơ thể của mình
mỗi lúc 1 nhanh hơn. Việc này giúp các em thêm nhanh nhẹn, giảm căng thẳng và mệt
mỏi sau tiết học trước đồng thời giúp các em ôn lại các từ vựng về chủ đề các bộ phận
cơ thể: head, shoulders, knees, toes, eyes, ears, mouth, nose.
• Bài hát: “Do it the way I do”

(Nguồn youtube, tên bài hát: Bài hát tiếng anh: Do it the way I do)
- Lời bát hát:
Clap your hands high above. Do it the way I do.
Clap your hands down below. Do it the way I do.
Wave your hands to the right. Do it the way I do.
Wave your hands to the left. Do it the way I do.
Roll your hands high above. Do it the way I do.
Roll your hands down below. Do it the way I do.
Point your hand to the right. Do it the way I do.
Point your hand to the left. Do it the way I do.
- Lời bài hát dịch sang tiếng Việt:
Giơ tay lên cao và vỗ tay. Hãy làm theo cách mà tôi làm.
Đưa tay xuống thấp và vỗ tay. Hãy làm theo cách mà tôi làm.
12


Vẫy tay sang phải. Hãy làm theo cách mà tôi làm.
Vẫy tay sang trái. Hãy làm theo cách mà tôi làm.
Cuộn tròn tay lên cao. Hãy làm theo cách mà tôi làm.
Cuộn tròn tay xuống thấp. Hãy làm theo cách mà tôi làm.
Chỉ tay về bên phải. Hãy làm theo cách mà tôi làm.
Chỉ tay về bên trái. Hãy làm theo cách mà tôi làm.
- Cách thực hiện: Học sinh vừa hát vừa làm theo động tác.
- Mục đích: Khi hát đồng thời các em hoạt động theo ngôn ngữ bài hát. Việc này

giúp các em giảm căng thẳng và mệt mỏi sau tiết học trước và có tinh thần thoải mái cho
tiết học sau. Đồng thời giúp các em ôn lại các cụm từ chỉ hoạt động và phương hướng:
clap hands, wave hands, roll hands, point hand, left, right, high above, down below.
Biện pháp 2: Tổ chức các tiết học tập ngoài trời.
Học sinh rất thích tham gia các hoạt động và từ những hoạt động đó chúng ta cho
học sinh trải nghiệm thực tế tiếng Anh. Mục đích dạy cho học sinh một số từ chỉ các
hoạt động không chỉ dừng lại ở việc dạy đọc mà còn phải cho các em hoạt động thực sự
thì hiệu quả của bài dạy mới cao.
Ví dụ các câu mệnh lệnh cho học sinh xếp hàng, tạo thành vòng tròn, đứng lên,
ngồi xuống, quay trái, quay phải, chạy, nhảy, … (trong những tiết học thể dục hoặc các
hoạt động Đội, sao Nhi đồng) tạo hoạt động vừa học vừa chơi.

Make a line.

Make two lines.

13


Make a circle.

Make two circles.

Stand up.

Sit down.

Turn right.

Turn left.


Run slow.

Run fast.

Jump.

Sing.

Cách tổ chức các hoạt động: Theo phương pháp MAT (Model  Action  Talk).
Giáo viên làm mẫu, hô các câu mệnh lệnh và học sinh làm theo mệnh lệnh. Sau đó giáo
viên tổ chức cho các học sinh ra lệnh cho nhau hoạt động. Có thể bố trí theo nhiều hình
thức, luôn thay đổi cách thức tổ chức các trò chơi để khỏi nhàm chán, qua mỗi hoạt
động trò chơi, các bài tập thể dục, học sinh lĩnh hội được một số kiến thức ngôn ngữ
14


nhất định. Học sinh vừa được nói vừa được nghe bạn nói và hoạt động. Có thể đan xen
cả các hoạt động hát, múa tiếng Anh như hoạt động thể dục thể thao. (aerobic, dân vũ)
Ví dụ 1: Sau khi dạy xong Unit 4: How old are you? (Sách Tiếng Anh 3 tập 1),
học sinh đã được học các số đếm, ta có thể áp dụng hình thức điểm danh sĩ số từ một
đến hết. Giáo viên cho học sinh xếp thành 2 đến 3 hàng và cho học sinh điểm số.
- Make two/ three lines!

(Học sinh xếp thành 2 hoặc 3 hàng)

- Let’s count from one to …
(Học sinh hô to các số đếm theo trình tự từ một đến …)
- One (Một)
- Two (Hai)

- Three (Ba)
- Four (Bốn)

Sau khi điểm số, có thể hát lại bài hát: “Let’s count from one to ten” (Sách Tiếng
Anh 3 tập 1) và làm động tác theo lời đã học.
Ví dụ 2: Sau khi dạy xong Unit 6: Stand up (Sách Tiếng Anh 3 tập 1), học sinh đã
nắm được cách yêu cầu người khác đứng lên (Stand up!), ngồi xuống (Sit down!), ta có
thể mở rộng dạy thêm một số câu mệnh lệnh khác như: Make a line, make two lines,
make a circle, make two circles, make a big circle, make a small circle, turn right, turn
left, …. Khi gần hết tiết học, khoảng 5 phút, giáo viên có thể củng cố lại kiến thức bằng
cách cho học sinh ra sân, giáo viên làm mẫu, hô to các câu mệnh lệnh đơn giản và
những lần sau có thể để cho lớp trưởng (chủ tịch hội đồng tự quản) hô cho các bạn làm.
Mục đích: Hoạt động này giúp các em có cơ hội trải nghiệm thực tế, các em được
thực hành nói các câu mệnh lệnh đồng thời có hoạt động tương tác. Qua hoạt động vui
chơi ngoài trời, các em ôn lại và mở rộng thêm các từ cần thiết tùy theo từng hoạt động
và từng bài mà giáo viên vận dụng sao cho hợp lí.
Biện pháp 3: Tổ chức các tiết học thư viện.
Tiết học thư viện là một hình thức mà thư viện trường TH Lê Hồng Phong đã
mạnh dạn phối hợp cùng giáo viên để giúp học sinh và giáo viên sử dụng tốt những
phương tiện mà thư viện mang lại nhằm góp phần nâng cao chất lượng học tập.
15


Tiết học thư viện nhằm khơi gợi, mở rộng và củng cố kiến thức của học sinh
qua nguồn tài nguyên sẵn có bên ngoài sách giáo khoa.
Có thể tổ chức lớp học theo các hình thức sau:
• Tổ chức hoạt động đọc: Có thể chia HS theo nhóm, cùng trao đổi về các chủ
đề đa dạng, khuyến khích thể hiện cảm nhận về tác phẩm, truyện tranh theo từng
chủ đề phù hợp với từng bài học bằng nhiều cách khác nhau như đọc, viết, vẽ, kể
chuyện, diễn kịch ... và cổ vũ sự thi đua giữa các nhóm.

Một số truyện tranh tiếng Anh như:

16


• Tổ chức nghe, xem băng đĩa theo chủ đề.

(Nguồn youtube)
• Tổ chức hoạt động khai thác thông tin qua mạng Internet, đặc biệt là những
đề tài mà tài liệu sách còn ít.
Ví dụ: Cách phát âm 44 âm IPA trong tiếng Anh, quy tắc nhấn trọng âm và
ngữ điệu tiếng Anh, cách đọc nối âm và nuốt âm trong tiếng Anh, ...
Biện pháp 4: Tổ chức các hoạt động câu lạc bộ tiếng Anh
Mục đích của việc tổ chức câu lạc bộ tiếng Anh:
- Tạo động lực, khơi dậy niềm đam mê môn học tiếng Anh.
- Tạo một một trường giao tiếp lí tưởng.
- Lĩnh hội, bồi dưỡng, thực hành và nâng cao những kiến thức, kỹ năng, kinh
nghiệm.
- Giao lưu, kết bạn với những người bạn mới.
17


Cách tổ chức: Ta có thể tổ chức theo các chủ đề, chủ điểm sinh hoạt theo tuần,
theo tháng hoặc theo quý. Học sinh có thể tham gia theo lớp hoặc các khối lớp. Mỗi
tháng ta có một chủ đề để học sinh khai thác và nắm bắt. Các chủ đề, chủ điểm có thể
đan xen nhau và tự giáo viên bố trí sao cho phù hợp. Sau đây là một số ví dụ:
Ví dụ 1: Tháng thứ nhất, ta cho học sinh thi nhau học tập theo chủ đề:
“Alphabet”. Ta có thể đặt cho mỗi nhóm học tập một cái tên tương ứng với tên một chữ
cái để các em tự nhớ tên chủ đề của mình và của các bạn trong lớp. Hết tháng, ta lại tiếp
tục đặt tên cho các em theo chủ đề khác “school objects”, “colour”, “family members”,

… Mỗi khi hoạt động các trò chơi thì chúng ta gọi tên các em theo tên chủ đề và các học
sinh cũng phải nhớ tên chủ đề của bạn. Làm như vậy, các em mới thực sự hào hứng
trong việc thi đua học tập và khắc sâu từ vựng, kiến thức đã học hơn. Câu lạc bộ tiếng
Anh có thể thu hút các em học sinh Tiểu học tham gia nhiều nhất là ta dạy các bài hát
tiếng Anh theo chủ điểm của tháng. Mỗi một chủ điểm, ta vận dụng để dạy cho các em
một hoặc hai bài hát tiếng Anh.
Ví dụ 2: Đây là một buổi sinh hoạt câu lạc bộ tiếng Anh trong thời gian khoảng
40 phút. Sau khi học xong Unit 2: What’s your name? (Sách Tiếng Anh 3 tập 1), học
sinh đã biết đọc các chữ cái tiếng Anh từ A đến Z, ta đặt tên mỗi học sinh bằng một chữ
cái và học sinh đó tự giới thiệu tên mình (I’m A/ I’m B/ …) và các học sinh khác nhớ
tên bạn mình.
Sau đó, cho các em hát lại bài hát “Alphabet Song”: thi hát theo nhóm, hát cá
nhân bài hát. Khi học sinh đã nắm vững các chữ cái, giáo viên cho các em chơi trò chơi
“Apple pass”.
Học sinh xếp thành một vòng tròn. Giáo viên hô: “Let’s sing”. Học sinh hát bài
hát “Alphabet Song”. Trong khi hát học sinh truyền tay nhau 1 quả táo. Khi giáo viên
hô: “Stop!”. Học sinh dừng hát. Lời bài hát dừng khi quả táo ấy vào tay học sinh nào thì
học sinh ấy phải tự giới thiệu bản thân: “Hello. I’m H. Nice to meet you!”, những học
sinh còn lại sẽ hô to: “Nice to meet you, too.”
Cuối cùng các em chơi trò chơi “Ask and answer”. Một em học sinh lên, các em
học sinh khác có thể nói bất kì câu nói hay câu hỏi nào đã học để cho học sinh đấy trả
lời.
Ví dụ: (Học sinh lên bảng là S, các học sinh khác là A, B, C, D, …)
A: Hi. How are you?
S: I’m fine, thank you.
18


B: Hi. I’m B.
S: Hello. I’m S.

C: Nice to meet you.
S: Nice to meet you, too.
D: Goodbye.
S: Bye. See you later.
Ta cho các em thay nhau lên bảng để đáp lại câu nói của các bạn. Khi học nhiều
nội dung hơn, có nhiều câu hỏi hơn, học sinh càng có nhiều câu để đối thoại. Đối với
mỗi bài, ta lại có thêm câu hỏi và trả lời về các chủ đề khác nhau như: tên, tuổi, thời tiết,
gia đình, …
Ví dụ 3: Khi học sinh học xong chủ đề về đồ dùng học tập (school objects) Unit
8: This is my pen (Tiếng Anh 3 tập 1), giáo viên tổ chức cho các em chơi trò chơi “Go to
the bookshop”. Học sinh sẽ được đặt tên theo các từ chỉ đồ dùng học tập: book, pencil,
pen, ruler, eraser. Gồm có 5 nhóm, mỗi nhóm khoảng 4 đến 5 em. Mỗi nhóm được đặt
tên lần lượt theo tên các đồ dùng học tập nói trên, khi các em đã được đặt tên thì mỗi em
phải nhớ đúng tên mình. Giáo viên nêu luật chơi và làm mẫu một lần, sau đó cho học
sinh chơi còn giáo viên quan sát, làm trọng tài, em nào không được gọi tên mà đến hoặc
em nào được gọi tên mà không đến sẽ phải nhảy lò cò xung quanh lớp học.
Giáo viên muốn mua một quyển sách thì sẽ hô: “I want a book.”. Học sinh có tên
gọi là “book” sẽ chạy lại vị trí cạnh giáo viên. Giáo viên muốn mua 2 cây thước thì sẽ
hô: “I want two rulers.”. Hai em học sinh có tên là “ruler” sẽ chạy lại chỗ giáo viên. Sau
khi giáo viên hô hết các từ chỉ đồ dùng học tập thì học sinh sẽ thay giáo viên để “Go to
the bookshop”. Học sinh đó sẽ hô các câu “I want …” để các bạn khác làm theo ý mình.
Mục đích: Cứ như vậy, học sinh thay nhau đóng vai người đi mua đồ dùng học
tập “Go to the bookshop” và được gọi tên các từ chỉ các đồ dùng học tập. Còn các học
sinh được đặt tên theo các đồ dùng học tập được nghe và phản xạ với các từ nghe được.
Điều này tạo cho các em khắc sâu hơn các từ đã học và nói thành thạo hơn các từ chỉ đồ
dùng học tập.
Biện pháp 5: Tổ chức các sân chơi tiếng Anh.
Đối với mỗi trường, mỗi năm ít nhất cũng nên tổ chức giao lưu tiếng Anh cấp
trường một hoặc hai lần cho học sinh. Có thể tổ chức theo khối hoặc theo trường để học
sinh các lớp, các khối lớp có cơ hội giao lưu, vui chơi, học hỏi lẫn nhau.

Học sinh sẽ tham gia thi các phần thi tìm hiểu kiến thức tiếng Anh bằng cách trả
lời các câu hỏi giống như các chương trình giải trí trên truyền hình: Chiếc nón kì diệu,
19


Ai là triệu phú, Tam sao thất bản, Đường lên đỉnh Olympia, Rung chuông vàng, Hộp
quà bí ẩn…
Ngoài các đội tham gia thi, các thành viên tham gia thi còn có phần tham gia của
khán giả, việc này khích lệ các em quan tâm và tham gia học tập, khắc sâu hơn những
kiến thức đã học, bổ sung những kiến thức còn thiếu sót.
Lồng ghép vào chương trình không thể thiếu được phần thi năng khiếu gồm các
năng khiếu: hát, múa, ngâm thơ, diễn kịch, … bằng tiếng Anh. Mục đích là làm cho học
sinh mạnh dạn hơn khi giao tiếp bằng tiếng Anh. Học sinh hòa mình vào môi trường nói
tiếng Anh để không bị lung túng khi thực hành giao tiếp tiếng Anh.
Sau đây là minh họa chương trình Giao lưu tiếng Anh cho học sinh khối 3
vào dịp kỉ niệm ngày 26/3 – ngày thành lập Đoàn TNCS HCM. Thời gian tổ chức
là 60 phút.
Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị nội dung chương trình, các câu hỏi đáp án,
chuẩn bị về thiết bị: loa, đài, máy chiếu, hệ thống các câu hỏi và đáp án trình chiếu.
Chuẩn bị phần thưởng để khích lệ học sinh. Học sinh tham gia ôn lại những kiến
thức đã học, tập hát các bài hát đã học hoặc những bài hát gần với chương trình.
Học sinh gồm có 6 em, chia làm 2 đội chơi.
Bước 1: Thi cá nhân (mỗi em có 5 phút cho phần thi này)
- Từng em học sinh sẽ giới thiệu về mình (màn chào hỏi: Hello, My name’s
… . I’m in class … . I’m … years old, …)
- Sau đó các em sẽ thi hát các bài hát tiếng Anh, có thể múa minh họa.
- Mỗi học sinh sẽ bóc thăm trả lời các câu hỏi bằng cách chọn số trên màn
hình. Các câu hỏi cõ thể đưa ra như sau (phần này ta có thể đặt câu hỏi dựa theo
cách thức của chương trình “Ai là triệu phú”)
Câu hỏi 1: Em đáp lại thế nào bằng tiếng Anh khi có một người chào em

bằng câu: “Good morning!”?
A. Good evening!

B. Good morning!
20


C. Goodbye!

D. Good afternoon!

Câu hỏi 2: Em hãy yêu cầu bạn em “gấp sách lại” bằng tiếng Anh?
A. Close your book, please.

B. Open your book, please.

C. Sit down, please.

D. Stand up, please.

Câu hỏi 3: Em hỏi thế nào mà bạn đáp lại câu: “I’m eight years old.”?
A. What’s your name?

B. How are you?

C. How old are you?

C. What is this?



Bước 2: Dành cho khán giả.
Giáo viên đưa hình ảnh lên máy chiếu và yêu cầu học sinh đọc bằng tiếng
Anh các từ chỉ hình ảnh đó, rồi đánh vần các con chữ. Nếu đọc đúng từ và đánh vần
đúng các con chữ trong từ đấy thì nhận được phần quà. Thời gian dành cho phần
này khoảng 10 phút. Các từ đưa ra cho học sinh phải phù hợp với mọi đối tượng
học sinh tham gia, không thách đố các em nhiều. Các hình ảnh đưa ra là các hình
ảnh theo các chủ đề như: đồ dùng học tập (book, pen, ruler, eraser, pencil, …), màu
sắc (red, pink, white, black, green, blue, …), các thành viên trong gia đình (father,
mother, grandmother, grandfather, sister, brother, …), đồ chơi (car, yo-yo, doll,
teddy bear, ship, plane, …), … . Giáo viên đưa ra hình ảnh, có các câu hỏi gợi ý, số
chữ cái trong từ, theo cách chơi của chương trình “Chiếc nón kì diệu”.
Ví dụ:
Câu 1: Đây là một từ gồm có 3 chữ cái, là một đồ dùng học tập.

P
E
N
Câu 2: Đây là một từ gồm có 4 chữ cái, là từ chỉ màu sắc.

21


B
L
A
C
K
Câu 3: Đây là một từ gồm có 5 chữ cái, là một loại đồ chơi.

R


O

B

O

T


Sau khi học sinh đưa ra câu trả lời, giáo viên đưa ra đáp án cụ thể và sẽ có
phần quà cho khán giả nếu như có câu trả lời đúng. Tùy từng tình huống mà giáo
viên có thể chọn một số câu hỏi theo các chủ đề. Phần này càng có nhiều câu hỏi và
có nhiều học sinh tham gia càng tốt.
Bước 3: Thi đồng đội.
Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị mỗi đội chơi 1 bảng viết bút dạ, 1 cái hộp,
trong hộp có các đồ dùng học tập: bút mực, bút chì, thước kẻ, sách, tẩy, các đồ
chơi: rô bốt, thuyền, ô tô, búp bê, quả bóng.
Cách chơi: Phần này mỗi đội có thời gian là 10 phút, chơi giống một phần
trong trò chơi “Tam sao thất bản”. Mỗi đội có một em được cử làm thư ký ghi lại
các từ bạn mình đọc, một em là người sờ tay vào trong chiếc hộp và nhặt lần lượt
các đồ có trong hộp rồi đọc tên các đồ vật mình sờ được (không được nhìn): pen,
ruler, book, pencil, eraser, robot, car, ship, doll, ball. Còn một em khác sẽ là người
hỗ trợ, để những vật đã được đọc tên vào vị trí đúng sai. Cứ như vậy, hết 10 phút
các em sẽ thi xem đội nào nhặt và gọi đúng tên nhiều đồ vật hơn, viết đúng nhiều từ
hơn.
Ví dụ:
- Đội thứ nhất:

22



Một em sờ tay vào hộp đựng đồ có chứa các vật như: pen, book, ruler, robot,
car, ball, ship, eraser.
Khi em học sinh này sờ vào cây bút mực và cầm lên (mắt không được nhìn
vào vật) và hô to: pen. Em học sinh được cử làm thư kí phải viết lại đúng từ pen.
Nếu như em học sinh đọc sai hay viết sai thì thứ đồ vật nhặt được đó phải để vào
giỏ có tên là Wrong, ngược lại nếu cả đọc và viết đúng thì được để ở giỏ có tên là
Right. Cứ như vậy cho đến khi đến khi hết các đồ vật.
- Đội thứ hai:
Gồm có các vật trong hộp: car, doll, eraser, ship, ruler, pen, pencil, ball.
Hình thức chơi cũng tương tự như đội thứ nhất, chỉ thay đổi một vài thứ
trong hộp cho khác đội bạn.
Sau khi cả hai đội đã hoàn thành phần thi này thì cho các em cùng đếm các
đồ vật mà các em gọi đúng tên và viết đúng từ tiếng Anh:
Right: One, two, three, …
Wrong: One, …
Sau mỗi phần chơi giáo viên cho điểm và tổng hợp, cuối buổi nên phân công
giải cá nhân và giải đồng đội luôn, trao quà để động viên tinh thần học tập của các
em.
Việc áp dụng cho từng bài, từng phần dạy cụ thể hay từng đối tượng học sinh
còn phụ thuộc rất nhiều vào kế hoạch và cách tổ chức của người giáo viên sao cho
phù hợp với từng chủ điểm, chủ đề bài dạy.
c. Mối quan hệ giữa các biện pháp.
Các biện pháp có mối quan hệ khăng khít, chặt chẽ, bổ trợ và tác động qua
lại với nhau. Nếu giải pháp đưa ra thì phải có biện pháp cụ thể phù hợp với từng đối
tượng học sinh, phù hợp với điều kiện và cơ sở vật chất của trường, lớp, năng lực
của giáo viên, khả năng tiếp thu kiến thức của học sinh. Nếu giải pháp đưa ra mà
không có biện pháp cụ thể thì kết quả thu được sẽ không hiệu quả.
23



Xây dựng môi trường giàu ngôn ngữ hay cho học sinh cơ hội học hỏi, giao
lưu và học tập đều làm cho học sinh có điều kiện trải nghiệm, thực hành giao tiếp
nhiều hơn, tất cả nhằm đi đến mục tiêu chất lượng học môn tiếng Anh sé ngày một
tốt hơn.
d. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu, phạm vi
hiệu quả ứng dụng.
Qua thời gian áp dụng những hình thức tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp
môn tiếng Anh cho học sinh lớp 3, tôi đã tổ chức kiểm tra đánh giá và đối chiếu kết
quả học tập của học sinh giữa học kì I và giữa học kì II cao hơn rất nhiều. Số lượng
học sinh hoàn thành tốt và hoàn thành tăng đáng kể, không còn học sinh chưa hoàn
thành chương trình.
Dưới đây là bảng thống kê kết quả khảo nghiệm bài kiểm tra đánh giá giữa
học tập giữa học kì II của học sinh lớp 3B và 3C năm học 2017 – 2018 như sau:
STT Lớp

Tổng số

1

3B

HS
24

2

3C


23

Chưa hoàn

Hoàn thành tốt

Hoàn thành

7

17

thành
0

6

17

0

Từ việc so sánh, đối chiếu kết quả cùng với việc theo dõi quá trình học tập
của học sinh trên lớp và hoạt động ngoài giờ lên lớp, tôi nhận thấy có một số ưu
điểm và nhược điểm như:
* Ưu điểm:
- Một số HS có thể phát huy khả năng ngôn ngữ của mình, đặc biệt là ngôn
ngữ Anh.
- Thông qua các bài hát, múa, bài thể dục, các câu chuyện tiếng Anh giúp cho
HS tự tin hơn trong các kỹ năng đặc biệt là giao tiếp (ngữ âm và ngữ điệu), dịch
24



thuật (từ bài hát tiếng Anh sang nội dung tiếng Việt) và khả năng âm nhạc của
mình.
- HS nhanh nhẹn hơn, không bị gò bó một chỗ mà còn có thể vận động tay
chân, được vui chơi và thực hành cũng như được nâng cao năng lực làm việc tập
thể, năng lực cá nhân.
- Ngoài việc dạy và học trên lớp, HS tích cực tham gia các hoạt động ngoại
khóa, ngoài trời theo các chủ đề, chủ điểm: thiên nhiên, con người và cuộc sống
xung quanh, ... nhằm củng cố và khắc sâu hơn các nội dung, kiến thức tiếng Anh đã
học.
- Học sinh có cơ hội được tiếp xúc, trải nghiệm và thực hành nhiều hơn với
môi trường tiếng Anh.
- Một vài HS hướng nội có chiều hướng cởi mở hơn, mạnh dạn hơn trong
giao tiếp song ngữ (cả tiếng Anh lẫn tiếng Việt) từ đó khắc phục được những
khuyết điểm của bản thân.
* Nhược điểm:
- GV phải đầu tư rất nhiều thời gian, công sức và trí tuệ cho việc xây dựng kế
hoạch hoạt động ngoài giờ lên lớp.
- GV có thể rơi vào tình trạng lạm dụng quá nhiều, không xác định được
trọng tâm chính của bài dạy, gây xao nhãng nội dung bài học trên lớp.
III. Phần kết luận và kiến nghị.
1. Kết luận.
Qua thực tế giảng dạy Ngoại ngữ tại trường Tiểu học Lê Hồng Phong, tôi có
thể nói rằng việc nâng cao chất lượng dạy và học tiếng Anh cho học sinh là vô
cùng quan trọng vì: Nếu như các em có được hứng thú đối với môn học thì các em
mới nỗ lực phấn đấu hết mình để đạt được kết quả cao trong học tập. Vì vậy tôi
luôn cố gắng trau dồi thêm kiến thức, làm mới phong cách dạy của mình để thu hút
25



×