Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

mon lịch sử tư tưởng chính trị Tư tưởng chính trị của trần quốc tuấn tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.82 KB, 34 trang )

ĐỀ TÀI

Tư tưởng chính trị của Trần Quốc Tuấn và
ý nghĩa của nó đối với công cuộc xây dựng
đất nước ta hiện nay

1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Lịch sử tư tưởng chính trị là môn khoa học chuyên nghành chính trị
học, có nhiệm vụ cung cấp những tri thức cơ bản về quá trình hình thành phát
triển và thay thế lẫn nhau của những quan điểm, tư tưởng và học thuyết chính
trị diễn ra trong lịch sử.
Tư tưởng chính trị là một hình thức cơ bản của ý thức xã hội, thuộc
thượng tầng kiến trúc xã hội - là hệ thống những quan niệm, quan điểm, học
thuyết phản ánh mối quan hệ chính trị - xã hội đặc biệt giữa các giai cấp, các dân
tộc, các quốc gia - dân tộc xoay quanh vấn đề giành, giữ, tổ chức và thực thi
quyền lực chính trị mà tập trung là quyền lực nhà nước qua các thời đại, lịch sử.
Qua đó lịch sử tư tưởng chính trị góp phần làm sáng tỏ nội dung, ý nghĩa của
thực tiễn đấu tranh chính trị, đúc rút những bài học kinh nghiệm phong phú,
đồng thời trang bị cho người học hệ thống chi thức, khả năng nhìn nhận và đánh
giá đúng đắn những hiện tượng, quá trình chính trị ở hiện tại và tương lai.
Tư tưởng chính trị Việt Nam với tư cách là một bộ phận cấu thành nên
hệ thống tư tưởng thế giới, nó góp phần làm phong phú đa dạng và hoàn thiện
hơn hệ thống tư tưởng nhân loại. Được hình thành và phát triển qua chiều dài
hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, chống thiên tai và địch hoạ. Những tư
tưởng đó là khởi nguồn của những chiến công oanh liệt, thắng lợi vẻ vang
chống giặc ngoại xâm, là nền tảng cố kết cộng đồng, nâng cao ý thức dân tộc
để tạo nên sức mạnh trong xây dựng đất nước, bảo vệ nền độc lập dân tộc và


chủ quyền quốc gia. Do đó, nghiên cứu những tư tưởng chính trị Việt Nam
được hình thành và phát triển trong lịch sử nhằm làm rõ nguồn gốc, nguyên
nhân, nội dung và ý nghĩa to lớn của những tư tưởng đó đối với thực tiễn lịch
sử dân tộc, đặc biệt trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay. Ngoài ra
việc nghiên cứu lịch sử tư tưởng còn là yêu cầu khách quan để nắm bắt tri
thức chuyên nghành đối với sinh viên chính trị học.
2


Qua thời gian học tập, tìm hiểu về lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam,
em thấy tư tưởng chính trị tư tưởng của Trần Quốc Tuấn có vị trí vai trò quan
trọng và được coi là “Kế sách giữ nước” của dân tộc. Cho nên sau này tư
tưởng của ông đã được nhiều nhà tư tưởng tiếp thu và phát triển lên tầm cao
mới như Nguyễn Trãi, Lê Lợi, Lê Thánh Tông, Hồ Chí Minh... Xuất phát từ
những suy nghĩ trên, em chọn: Tư tưởng chính trị của Trần Quốc Tuấn và
ý nghĩa của nó đối với công cuộc xây dựng đất nước hiện nay, làm đề tài
tiểu luận của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Tư tưởng chính trị của Trần Quốc Tuấn có một giá trị vô cùng to lớn,
nên thu hút được sự quan tâm, chú ý của nhiều nhà nghiên cứu. Trên cơ sở đó
đã xuất hiện nhiều công trình, bài viết, bình luận, đánh giá về tư tưởng của
ông. Có thể kể tên một số công trình như sau:
- Lịch sử tư tưởng Việt Nam của Trung tâm khoa học xã hội và nhân
văn Quốc Gia, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2004. Tác phẩm trình bày một cách khái
quát về tư tưởng chính trị của các nhà tư tưởng tiêu biểu và trích tuyển các tác
phẩm nổi bật của họ. Trong đó có đề cập một cách khái quát đến tư tưởng
chính trị của Trần Quốc Tuấn.
- Lịch sử tưởng chính trị của Khoa Chính Trị học - Phân viện Báo chí
và Tuyên truyền, Nxb, CTQG, Hà Nội, 2001. Đây là giáo trình môn học trình
bày một cách hệ thống về các học thuyết tư tưởng chính trị tiêu biểu trên thế

giới và Việt Nam. Trong đó đề cập đến tư tưởng chính trị của Trần Quốc Tuấn.
- Trần Hưng Đạo - Nhà quân sự thiên tài của Bộ Quốc phòng - viện
lịch sử quân sự Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội,2001. Tác phẩm đã tập hợp
những tư liệu lịch sử về dòng họ, quê hương, gia đình và cuộc đời hoạt động
chính trị của ông.
- Bài viết của Trương Hữu Quỳnh: Trần Hưng Đạo - Người anh hùng
dân tộc vĩ đại với nhân cách trong sáng, đăng trên tạp chí Nghiên cứu lịch

3


sử, trang 11, số 5 - 2000. Bài viết đã đề cập đến nhân cách, phẩm chất, tài
năng của Trần Quốc Tuấn.
Ngoài ra còn một số tác phẩm, bài viết cũng đề cập đến cuộc đời, sự
nghiệp và tư tưởng chính trị của Trần Quốc Tuấn.
Nhìn chung, các công trình trên đã đề cập đến tư tưởng chính trị của
Trần Quốc Tuấn trên nhiều phương diện. Vì vậy trong tiểu luận này em chỉ đi
tìm hiểu tổng kết một cách hệ thống về tư tưởng chính trị của Trần Quốc Tuấn.
3. Mục tiêu - nhiệm vụ của tiểu luận
Mục tiêu của tiểu luận: Đề tài trình bày và luận giải làm rõ nội dung tư
tưởng chính trị của Trần Quốc Tuấn, nêu rõ những ý nghĩa tư tưởng đối với
công cuộc xây dựng đất nước hiện nay. Đồng thời cũng trên cơ sở nêu bật nội
dung tư tưởng chính trị của ông sẽ góp phần vào việc tìm hiểu và nhận thức
đầy đủ về vai trò, vị chí của Trần Quốc Tuấn trong thế kỷ XIII, cũng như
trong lịch sử dân tộc.
Nhiệm vụ của tiểu luận: Để thực hiện mục tiêu trên đề tài tập trung làm
sáng tỏ những vấn đề sau đây:
- Điều kiện chính trị, kinh tế - xã hội nhà Trần đầu thế kỷ XIII, cuối thế
kỷ XIV và nhân thế - sự nghiệp Trần Quốc Tuấn.
- Những nội dung tư tưởng cốt lõi của Trần Quốc Tuấn.

- Ý nghĩa tư tưởng chính trị Trần Quốc Tuấn trong công cuộc xây dựng
đất nước ta hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Đề tài sự dụng phương pháp luận Mácxít là chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Phương pháp dụng: lôgíc lịch sử, phân tích hệ thống.
Ngoài ra đề tài còn sử dụng các phương pháp cụ thể như: phân tích
tổng hợp, đánh giá, so sánh…

4


5. Phạm vi nghiên cứu
Do tính chất khái quát của tiểu luận và hạn chế của bản thân, nên ở tiểu
luận này người viết chỉ đi tìm hiểu, tổng kết hai tư tưởng chính trị cơ bản, cốt
lõi của Trần Quốc Tuấn đó là tư tưởng kể về “Khoan thư sức dân” và “Đoàn
kết toàn dân”. Qua đó có thể thấy và làm rõ hơn nội dung của tư tưởng đồng
thời nêu bật ý nghĩa tư tưởng chính trị của Trần Quốc Tuấn đối với công cuộc
xây dựng đất nước hiện nay.
6. Kết cấu của đề tài
Tiểu luận được kết cấu gồm những phần sau đây:
A. Mở đầu
B. Nội dung
I. Điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội nhà Trần và thân thế sự nghiệp
của Trần Quốc Tuấn.
II. Nội dung tư tưởng chính trị của Trần Quốc Tuấn.
III. Ý nghĩa tư tưởng chính trị tư tưởng của Trần Quốc Tuấn đối với
công cuộc xây dựng đất nước hiện nay.
C. Kết luận


5


B. NỘI DUNG
I. ĐIỀU KIỆN KINH TẾ - CHÍNH TRỊ NHÀ TRẦN VÀ THÂN THẾ SỰ
NGHIỆP CỦA TRẦN QUỐC TUẤN.
1. Điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội nhà trần
- Kinh tế: Thời kỳ này kinh tế nông nghiệp vẫn chiếm vị chí rất quan
trọng. Nhà Trần “coi việc nông là gốc rễ của nước nhà”, nên triều đình đã ban
hành nhiều chính sách trọng nông, khuyến khích nông nghiệp phát triển như
chính sách “ngụ binh ư nông” - nhằm gắn việc binh với sản xuất nông nghiệp;
áp dụng chính sách thuế khoá không quá nặng nề, giảm tô, miễn thuế (khi đói
kém mất mùa): triều đình còn cho xây dựng các công trình thuỷ lợi (đắp đê, đào
mương) phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Đặc biệt triều đình còn khuyến khích
tầng lớp quý tộc, nhân dân khai khẩn đất hoang mở rộng diện tích canh tác.
Kinh tế hàng hoá thời kỳ này cũng phát triển. Triều đình cho đúc tiền để
lưu thông buôn bán. Mạng lưới các chợ rộng khắp họp luân phiên đều kỳ ở các
làng, xã cũng như đô thị. Việc lưu thông buôn bán hàng hoá làm xuất hiện một
số trung tâm kinh tế lớn như: Thăng Long, cảng Vân Đồn, Phố Hiến… Một số
ngành thủ công nghiệp cũng phát triển như: dệt, luyện kim, gốm, khai khoáng…
- Chính trị: Nhà Trần xây dựng nhà nước phong kiến quân chủ chuyên
chế, quan liêu, dòng họ. Các chức vụ chủ chốt trong triều đình đều do người
trong tông tộc nắm giữ. Đứng đầu nhà nước là Vua - có quyền lực tối cao
được coi là “thiên tử” (thay trời hành đạo). Bên cạnh đó nhà Trần còn áp dụng
chế độ Thái thượng hoàng - với tư cách cố vấn cho vua, duy trì sự ổn định trật
tự, chống tranh giành ngôi báu.
Về bộ máy hành chính: ở triều đình có thượng thư Sảnh gồm có 6 bộ:
Lễ, Lại, Hộ, Binh, Hình, Công - có nhiệm vụ quản lý cômg việc; tổ chức bộ
máy hành chính, ngoại giao tín ngưỡng, kinh tế, quân sự, pháp luật và xây
dựng cơ bản. Đứng đầu Sảnh là Hành Khiển, dưới Hành Khiển là thượng thư

Hữu Bật và các chức Thị lang. Về ngạch võ các chức: Phiêu kị tướng quân,
6


Quốc công tiết chế. Bên cạnh đó nhà Trần còn có các chức quan chuyên môn:
Bí thư Sảnh (phụ trách văn thư, thư lục), Quốc tử giám (phụ trách giáo dục),
có các chức quan kinh tế như: Chuyển vận sứ, Hà đê sứ, Đồn điền sứ… Còn ở
địa phương ở nhà Trần tổ chức chính quyền thành ba cấp: phủ lộ (nhà Trần
chia đất nước thành 12 lộ), dưới lộ là huyện châu, hương xã.
- Xã hội: Thời kỳ này đã có sự phân chia tầng lớp trong xã hội khá rõ
rệt. Đứng đầu là tầng lớp quý tộc nắm quyền thống trị xã hội. Tầng lớp tăng
lữ, nho sĩ có vai trò quan trọng trong việc duy trì, ổn định và củng cố quyền
lực trong triều đình. Tầng lớp dưới gồm nông dân, nông nô, nô tì, thợ thủ
công, những người buôn bán nhỏ còn ít.
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ này là sau ba thập kỷ thành lập, nhà Trần
và đất nước chưa đủ thời gian để vươn lên giai đoạn phát triển ổn định đã phải
đứng trước nguy cơ của sự sống còn. Trong vòng 30 năm (1258 - 1288) nhà
Trần và nhân dân Đại Việt đã ba lần phải đương đầu với cuộc tiến quân xâm
lược Nguyên - Mông (vào các năm 1258, 1285, 1288) - một chế độ hung hãn,
thiện chiến nhất lúc bấy giờ, đã làm mưa, làm gió ở nhiều nước Âu - Á. Đặc
biệt là hai lần sau (1285 - 1288) khi mà kẻ xâm lược đã diệt song nhà Tống và
trở hành người chủ của vùng đất Trung Hoa rộng lớn, tiếp giáp biên giới phía
bắc Đại Việt, làm bàn đạp tấn công nước ta - phục vụ cho tư tưởng bá quyền
của bọn chúng.
Đứng trước vận mệnh “nguy cấp” của nước nhà, đòi hỏi phải có những
“con người vĩ đại” - có thể đưa ra đường lối, chính sách đúng đắn lãnh đạo
nhân dân Đại Việt vượt qua cơn “hoạn nạn” này. Chính thực tiễn đó “đã sáng
tạo ra con con người như thế” - đó là Trần Quốc Tuấn. Bằng chí tuệ uyên
thâm, siêu việt, bằng nhãn quan sắc bén của nhà chính trị tài ba, ông đã đề ra
được đường lối đúng đắn, lãnh đạo nhân dân ta đánh bại quân xâm lược

Nguyên - Mông.

7


2. Thân thế - sự nghiệp Trần Quốc Tuấn.
a - Thân thế:
Trần Quốc Tuấn sinh năm 1228, trong một gia đình quý tộc tôn nhất.
Bố là An Sinh Vương Trần Liễu, mẹ là Thuận Thiên công chúa - cháu gái gọi
Trần Thái Tông bằng chú, dòng đích trưởng họ Trần. Ông là người hương Tức
Mặc, phủ Thiên Trường, được phong ấp ở Vạn Kiếp - Chí Linh (Hải Dương
hiện nay). Vốn xuất thân trong dòng họ đánh cá hùng mạnh ở cuối sông Hồng
ven biển Đông, nên Trần Quốc Tuấn đã mang trong mình dòng máu thượng võ
của cha ông, rất giỏi nghề sông nước và thạo thuỷ chiến. Từ nhỏ ông đã có
tướng mạo phi thường, thông minh hơn người, ai cũng khên ông là bậc kỳ tài,
ngày sau ắt kinh bang tế thế. Lớn lên ông lại được cha tạo điều kiện rèn luyện,
tìm thày dạy dỗ để con trở thành người văn võ toàn tài. Vì vậy, ông càng tỏ ra
thông minh vừa giỏi văn võ, vừa hiểu thấu “lục thao tam lược”.
Năm 1251, ông lập gia đình lấy Thánh Thiên công chúa trở thành con
rể Thượng hoàng Trần Thừa, em rể của Trần Thái Tông.
Năm 1257, khi quân Mông Cổ chuẩn bị sang xâm lược nước ta lần thứ
nhất, Trần Quốc Tuấn tham gia cuộc kháng chiến và được cử chỉ huy các
tướng lĩnh điều quân thuỷ bộ bảo vệ vùng biên giới Tây Bắc.
Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông lần 2 và
lần 3 (1285 - 1288), Trần Quốc Tuấn được cử làm Quốc công tiết chế thống
lĩnh toàn quân đánh giặc giữ nước.
Năm 1289 - tiến phong Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn làm Hưng
Đạo Đại Vương.
Mùa thu tháng tám, ngày 20 năm Canh Tý (1300) “Bình Bắc Đại
Nguyên Soái ” Hưng Đạo Vương qua đời tại phủ Vạn Kiếp - Chí Linh, Hải

Dương. Theo lời dặn, thi hài của ngài được hoả táng thu vào bình đồng và
chôn trong vườn An Lạc, gần cánh rừng An Sinh, không xây lăng mộ, đất san
phẳng, trồng cây như cũ. Do công lao vô cùng to lớn của Ngài, vua Trần Anh
Tông truy tặng ngài là: Thái sư thượng Phụ Quốc Công Nhân Vũ Hưng Đạo
8


Vương. Nhân dân ta lập đền thờ ở nhiều nơi để tưởng nhớ công lao to lớn của
Hưng Đạo Đại Vương và suy tôn ngài là Đức thánh Trần rồi Đức Thánh Cha.
b. Sự nghiệp
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là vị tổng chỉ huy quân đội nhà Trần
trong kháng chiến chống quân Nguyên, là anh hùng kiệt xuất của dân tộc.
Ngoài tài thao lược quân sự, ông còn là nhà tư tưởng lớn. Ông để lại cho đời
sau nhiều tác phẩm có giá trị như: Binh thư yếu lược, Vạn kiếp tông bí
truyền thư, Hịch tướng sĩ. Đây là những áng văn chắt lọc, đúc kết từ chính
cuộc đời chiến đấu của ông, là cống hiến vĩ đại vào binh pháp đường lối quân
sự nước nhà.
Tư tưởng chính trị của Trần Quốc Tuấn xuất phát từ lập trường dân tộc
vì chủ quyền quốc gia. Ngoài ra tư tưởng chính trị của ông còn thể hiện qua
đường lối chiến lược, chiến thuật dựng nước và qua hoạt động thực tiễn.
Nội dung tư tưởng chính trị của Trần Quốc Tuấn
* Khoan dân là tư tưởng nổi bật cốt lõi của Trần Quốc Tuấn.
Trần Quốc Tuấn nhận thấy vai trò quyết định của nhân dân trong sự
nghiệp dựng nước và giữ nước.
Khoan dân là thân dân, sử dụng hợp lý sức dân.
Khoan dân là dưỡng dân, sử dụng hợp lý sức dân.
Khoan dân là có khả năng huy động sức dân bằng nhân tâm, công tâm
trong xây dựng và bảo vệ đất nước.
Khoan dân là biết lắng nghe tâm tư nguyện vọng của dân.
Khoan dân là biết kết hợp hài hoà quyền lợi của dân với quyền lợi của

giai cấp phong kiến.
* Tư tưởng đoàn kết toàn dân đánh giặc giữ nước. Ông nêu bật chân lý
của chiến tranh giữ nước là phải đoàn kết toàn dân. “Vua tôi đồng lòng, anh
em hoà mục, cả nước góp sức…”

9


II NỘI DUNG TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA TRẦN QUỐC TUẤN.
1. Tư tưởng “khoan dân”
Trong lịch sử dù ở thời kỳ nào, triều đại nào, dù với một thể chế chính
trị nào đi nữa, vai trò của nhân dân vẫn là quyết định. Vì vậy giai cấp thống trị
bao giờ cũng tìm mọi cách khai thác nguồn sức mạnh ấy để phục vụ quyền lợi
của mình.
Trần Quốc Tuấn là anh hùng giải phóng dân tộc đã nhận thức được điều
đó, ông cho rằng phải “Khoan thư sức dân để làm kế sâu dễ bền gốc, là
thượng sách giữ nước”. Tư tưởng đó dựa trên các cơ sở sau:
* truyền thống dân tộc:
Ở nước ta, tư tưởng lấy “dân”, “dựa vào dân” đã từng có trong lịch sử
lâu đời, nó xuất phát từ truyền thống gắn bó giữa thủ lĩnh và quần chúng, từ
nền móng của các nhà tư tưởng thời phong kiến thường coi “ý dân”, “lòng
dân” là điều đáng quan tâm bậc nhất trong sự nghiệp trính trị. Đối với họ
“lòng dân” cùng với “ý trời” là cơ sở để thiết lập vương quyền hoặc là căn cứ
của những chính sách lớn, những hoạt động chính trị của triều đình như việc
dời đô, kế vị ngôi báu, phát động chiến tranh…
Ví như sự kiện Lý Công Uẩn lên ngôi thiên tử thay thế vị trí của Ngoạ
triều hoàng đế được coi là “thuận lẽ trời hợp lòng dân” Đào Can Mộc một đại
thần trong triều đã nói với Công Uẩn rằng: “Thân vệ sao chẳng nhân lúc này,
theo dấu Thăng Võ ngày xưa noi gương Dương Lê mới rồi, trên thuận lòng trời,
dưới thuận dân mong, mà cứ khư khư giữ tiểu tiết ấy hay sao”, nay trăm họ mệt

mỏi, dân không chịu nổi mệnh lệnh. Nếu thân vệ lấy ân đức mà vỗ về ắt trăm họ
sẽ vui vẻ mà nghe theo, cũng như nước chảy chỗ trũng, ai mà ngăn chặn được.
Sau khi lên ngôi, Lý Công Uẩn “Chiếu dời đô” đã khẳng định: “Trên
vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, thấy thuận tiện thì đổi dời vận nước lâu dài,
phong tục giầu thịnh”.
Đối với nhà vua “ý trời lòng dân” trở thành lý do định vị, tuy nhiên một
khi đã lên ngôi thì quyền lực của nhà vua là toàn năng và tối thượng, mà lại
10


được coi là “thiên tử” (con trời) “thế thiên hành đạo”, và là cha mẹ của muôn
dân. Lý Thái Tông “yêu dân như con”. Lý Thánh Tông từng nói: “ta yêu con
ta như lòng ta làm cha mẹ dân”. Vua Trần Anh Tông có lần khẳng định:
“Trẫm là cha mẹ dân, nếu thấy dân lầm than thì phải cứu giúp ngay, há lên so
đo khó dễ lợi hại”.
Trong “Lộ bố văn”, Lý Thường Kiệt khẳng định “trời sinh ra dân
chúng, mà hiền ắt hoà mục. Đạo làm chủ cốt ở muôn dân”.
Năm 1267, vua Lý Cao Tông đã hạ chiếu rằng: “Trẫm còn bé mà phải
gánh vác việc lớn ở tận nơi Cửu trùng không biết cảnh khó khăn của dân
chúng, nghe theo bọn tiểu nhân mà gây oán với kẻ dưới. Dân đã oán thì trẫm
biết cậy vào ai, nay trẫm sẽ sửa lỗi cùng dân đổi mới”. Bằng sự học rộng hiểu
nhiều, sự tìm hiểu nghiên cứu lịch sử dân tộc. Trần Quốc Tuấn đã sớm nhận
định được vai trò của quần chúng nhân dân trong việc đấu tranh giữ nước. Đó
chính là cơ sở đầu tiên hình thành tư tưởng khoan dân của ông.
Tư tưởng “Khoan dân” của Trần Quốc Tuấn còn bắt nguồn từ tư tưởng
gốc của học thuyết Nhân chính tức dùng “Nhân trị” và “Đức trị” theo tinh
thần Khổng - Mạnh. Trong học thuyết của mình Khổng Tử và Mạnh Tử rất
coi trọng khái niệm “dân”. Khổng Tử nói “dân vi bang bản” (dân là cái gốc
của nước). Mạnh Tử từng nói “Dân vi quý xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (dân
là quan trọng nhất trong quan hệ với quốc gia xã tắc và triều đình, nó là yếu tố

thứ nhất). Dân là đối tượng triều đình sai khiến: đi lính, phu phen, tạp dịch khi
nước nhà cần. Vì thế mà Khổng Tử nói “Sử dân dĩ thời” (sử dụng dân theo
thời và lúc nông nhàn) và “Sử dân dĩ kế” (sai khiến dân có mức độ chứ không
tuỳ ý). Tuy nhiên về cơ bản lập trường của các nhà tư tưởng phong kiến Trung
Quốc vẫn bảo vệ chế độ đẳng cấp, phong kiến về quyền lợi của giai cấp thống
trị và làm thế nào để “Sử” (Sai khiến) dân có hiệu quả mà thôi.
Trần Quốc Tuấn học Nho giáo, tiếp thu Nho giáo nhưng có sự cải biên
sáng tạo, phù hợp với văn hoá, tình cảm, tín ngưỡng và tâm lý của dân tộc
Việt Nam.
11


Tóm lại: Từ sự kế thừa những truyền thống của dân tộc, luôn coi dân là
nhân tố cốt yếu của sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Từ sự tiếp theo quan niệm
về dân hết sức tiến bộ của Nho giáo. Bằng trí tuệ uyên thâm và lòng yêu nước sâu
sắc Trần Quốc Tuấn đã nhận thức được vai trò quyết định của quần chúng nhân
dân, qua đó Trần Quốc Tuấn đã chủ trương lập hẳn một chính sách giữ nước bằng
sức dân, mà trong lịch sử dân tộc chưa ai nghĩ đến và làm điều đó .
Ông cho rằng:
a. Trần Quốc Tuấn nhận thấy vai trò quyết định của quần chúng nhân
dân trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
Trần Quốc Tuấn khẳng định nhân dân được coi là cơ sở để tiến hành
cuộc chiến tranh giữ nước. Đồng thời ông cũng khẳng định: Cố kết lòng dân
là bức thành trì kiên cố nhất, việc tăng cường sức dân, tranh thủ sự đồng tình
của nhân dân là “sâu rễ bền gốc”, là điều kiện tiên quyết để chiến thắng quân
thù, gìn giữ độc lập dân tộc. Trần Quốc Tuấn nói; “Nhân dân cả nước sẽ cùng
với quân đội kết thành một toà thành kiên cố, cao như núi, dài như sông,
mạnh như nước lũ mùa thu cuốn phăng quân tướng giặc ra biển”.
Có thể nói, vai trò quyết định của nhân dân đối với sự sống còn của
một dân tộc là một chân lý mà những người có đầu óc sáng suốt đương thời

không thể nhận thấy được. Và cũng chính vì thế mà các quý tộc, quan lại thời
Trần đều vững tin vào sự nghiệp đánh giặc mỗi khi phát động được “cử quốc
nghênh địch” - toàn dân tham gia. Trước sự hăm doạ láo xược của vua
Nguyên rằng sẽ tiếp tục một lần nữa tấn công đập nát Thăng Long, thì sứ Việt
lúc đó Đào Tử Kỳ đã hiên ngang nói: “Thành Thăng Long kia chỉ là vật nhỏ
mọn đề phòng kẻ chộm cướp vặt, phá tan nó có khó khăn gì. Còn như để
chống lại kẻ thù từ bên ngoài đến trực ăn cướp nước chúng tôi thì chúng tôi
đã có toà thành vững vàng như núi không kẻ thù nào phá được, đó là sức
mạnh của nhân dân chúng tôi”.

12


Tư tưởng này sau được Nguyễn Trãi - một nhà chính trị tài ba đã khẳng
định và nâng nó lên một tầm cao mới: Dân như nước, giai cấp phong kiến như
thuyền, nước trở thuyền và nước cũng có thể lật thuyền.
Tới thế kỷ XIX, chủ nghĩa Mác cũng khẳng định vai trò của quần
chúng nhân dân trong lịch sử: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân
dân, quần chúng nhân dân là người làm nêm lịch sử. Đời sống thực tiễn của
quần chúng nhân dân đã tạo nên văn hoá, kinh tế, chính trị, quân sự cho loài
người, không có gì thể phủ nhận được vai trò của quần chúng nhân dân.
Đến thời đại của Hồ Chí Minh cũng khẳng định, khi tiến hành cách
mạng và xây dựng nhà nước phải “lấy dân làm gốc”, nhân dân là cơ sở để dẫn
tới mọi thắng lợi, mất dân là mất tất cả. Chính vì lẽ đó trong giai đoạn quá độ
lên Chủ nghĩa xã hội. Đảng và nhà nước luôn quán triệt tư tưởng “lấy dân làm
gốc”, từ đó phấn đấu xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Bên cạnh đó Trần Quốc Tuấn còn nhận thức được vai trò của quần
chúng với sự phát triển tài năng của những vĩ nhân. Ông khẳng định điều này
khi Yết Kiêu - một tướng chỉ huy quân đánh thuỷ tài giỏi đã giúp ông rút lui
khỏi vòng vây của giặc an toàn. Ông nói: “Chim hồng hộc muốn bay cao phải

nhờ ở sáu trụ cánh. Nếu không có sáu trụ cánh ấy chỉ là chim thường thôi.”
Theo ông, sở dĩ những vị anh hùng xuất chúng làm nên nghiệp lớn là nhờ vào
sự giúp đỡ và ủng hộ của quần chúng. Nếu thiếu sự giúp đỡ và ủng hộ của quần
chúng thì không có được những con người anh hùng xuất chúng như ông.
Tóm lại, Trần Quốc Tuấn đã có quan điểm tư tưởng tiến bộ về dân,
nhận thức đúng và đánh giá cao vai trò của sức dân trong sự nghiệp chung của
cả nước. Đó là nhận thức sâu sắc của nhà chính trị tài ba Trần Quốc Tuấn. Bởi
ông đã khuyên vua Trần Anh Tông “Khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc,
đó là thượng sách giữ nước ”.
b. Khoan dân là phải thân dân, dựa vào dân để đánh giặc giữ nước .
Năm 1300, lúc Trần Quốc Tuấn ốm nặng, vua Trần Anh Tông đến hỏi
thăm và ông hỏi về kế sách giữ nước: Khi ông mất “chẳng may chết giặc Bắc
13


lại xâm lấn thì làm thế nào”. Trần Quốc Tuấn đã nêu ra những nhận định có
tính chất tổng kết kinh nghiệm rồi vạch ra quy luật của những cuộc chiến
tranh giữ nước suốt thời kỳ Bắc thuộc cho đến cuộc kháng chiến chống quân
Nguyên - Mông :
“Ngày xưa Triệu Võ Đế …đại khái nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản
binh. Dùng đoản chế trường là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân
nó kéo đến như lửa, như gió thì dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như cách tằm
ăn, không cần thắng chống thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét như quyền
biến như đánh cờ vây, tuỳ thời tạo thế, có được đội quân lòng như cha con thì
mới dùng được. Vả lại khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là
thượng sách giữ nước vậy”.
Điều quan trọng hàng đầu trong những nhận định đúng đắn trên của Trần
Quốc Tuấn là chủ trương dựa vào dân để đánh giặc giữ nước. Làm cho mỗi
người dân chở thành một chiến sĩ tham gia vào cuộc chiến đó chống quân xâm
lược. Nếu không trù liệu trước là có tội với non sông gấm vóc, với nhân dân.

Trần Quốc Tuấn nghĩ về một thế trận rộng lớn để có thể đánh thắng
được quân giặc hùng mạnh. Muốn vậy, “phải tạo ra cho dân tộc một sức mạnh
như nước đổ từ thế cao nghìn nhẫn ấy? Quân giỏi, tướng giỏi, vua tôi đoàn
kết, trên dưới thuận hoà ư? Như thế là không đủ để có thể chiến thắng được
kẻ thù xâm lược hung bạo”. Vì lẽ đó bằng kinh nghiệm cuộc đời chiến trận và
kiến thức uyên thâm bao năm nghiền ngẫm, suy nghĩ ông sớm tìm ra nguồn
gốc của sức mạnh ấy. Theo ông, để tạo cho thế nước thế cao muôn trượng, đủ
sức mạnh đè bẹp quân Nguyên - Mông hùng mạnh ấy, cốt yếu là phải quy tụ
được trăm họ về một mối. Trăm họ chính là gốc rễ cội nguồn của cái đỉnh cao
muôn trượng ấy, phải lấy trăm họ làm binh, cổ vũ cả nước đấu sức lại mà
đánh, phải xem sức trăm họ là sức mạnh của khí thiêng sông núi, chỉ có sức
mạnh ấy mới thắng được giặc, giữ được nước.
Khi Trần Quốc Tuấn cùng Trần Quang Khải bàn về đánh giặc Trần
Quốc Tuấn đã nói: “Giặc tuy mạnh nhưng lại kém thuỷ trận. Biết đánh thì vẫn
14


thắng. Vả chăng đối với giặc dữ muốn thắng chúng, chẳng những ta cần có
tướng giỏi mà quan trọng hơn là huy động được cả nước vào trận, ý chí trăm
họ bao giờ cũng là cội nguồn của chiến tuyến dân tộc”.
Tóm lại nhân dân, dựa vào dân là tư tưởng thể hiện tầm nhìn bao quát,
sắc bén, mang tính chất chính trị rộng lớn tầm cỡ quốc tế và dân tộc của Trần
Quốc Tuấn.
c. Khoan dân là dưỡng dân, sử dụng hợp lý sức dân vì đó là kế sâu rễ
bền gốc, là thượng sách giữ nước.
Thời Trần kinh tế nông nghiệp vẫn giữ vai chủ đạo mặc dù đã xuất hiện
một số đô thị, một số trung tâm buôn bán, song hầu hết cư dân vẫn sống ở các
làng xã. Trong cấu trúc xã hội thời đó, thiết chế làng xã đóng vai trò rất quan
trọng. Có thể coi đây là những tế bào cơ sở nuôi dưỡng cả cơ thể dân tộc đã
được phát huy cao độ trong những dịp thử thách, trở thành lực lượng quan

trọng đánh tan giặc ngoại xâm. Nông nghiệp, nông thôn, và nông dân vì thế
được coi là những nhân tố cơ bản, chủ yếu trong đời sống xã hội. Dân giàu,
nước mạnh lúc đó vẫn dựa trên cơ sở nông nghiệp phát triển, mùa màng
phong đăng, lương thực nhiều, cuộc sống nhân dân no đủ. Vì vậy, để động
viên được nhân lực, vật lực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, để
có sức mạnh “cả nước góp sức”, nhà Trần biết dựa nông thôn, nông dân. Để
làm được điều đó, cần phải chăm lo sức dân, nâng cao sức dân, nâng cao đời
sống vật chất của nhân dân bằng nhiều biện pháp, trước hết là tạo điều kiện
cho kinh tế nông nghiệp phát triển, coi “việc nông là gốc rễ của nước nhà”.
Trước tiên phải làm cho dân đủ no, vì vậy nhà Trần thi hành chính sách
“ngụ binh ư nông” - nghĩa là trong thời chiến tất cả binh lính đều tham gia
đánh giặc, còn thời bình cho một số quân nhất định về tăng gia sản xuất nhằm
gắn liền giữa việc binh với việc nông, đảm bảo lương thực trong cả nước. Nhà
vua còn có những biện pháp tích cực và kiên quyết ngăn chặn giết châu bò
bảo vệ sức kéo cho nông nghiệp. Triều đình còn khuyến khích động viên quý
tộc, tầng lớp nhân dân tích cực khai khẩn đất hoang, mở rộng diện tích canh
15


tác (điểm tiến bộ, tích cực nhất của nhà Trần), đắp đê phòng lụt, khắc phục
tình trạng phiêu tán nhằm ổn định dân cư, phát triển nông nghiệp, củng cố cơ
sở và xã hội làm cho dân giàu nước mạnh, quốc phú binh cường. Bên cạnh đó
nhà nước còn áp dụng chế độ thuế khoá không quá nặng nề, khi mất mùa có
thể giảm tô, miễn thuế. Chính bởi vậy mà nền nông nghiệp nhà Trần hết sức
phát triển, lương thực ổn định, nhân dân no đủ, cả nước giàu mạnh.
Khoan dân là sử dụng hợp lý sức dân: Cuộc đời Trần Quốc Tuấn gắn
với ba lần chống quân Nguyên - Mông, nên ông hiểu và thông cảm với dân
tình, biết được công lao to lớn của nhân dân đối với sự nghiệp mà ông được
trao giữ trọng trách, Chính bởi vậy, theo ông sau khi chiến tranh kết thúc, việc
trước hết triều đình cần làm là phải miễn giảm thuế để dưỡng dân, củng cố

sức dân. Sau chiến thắng quân Nguyên - Mông vua Trần Anh Tông có ý định
xây lại thành Thăng Long cho nguy nga, lộng lẫy hơn, Trần Quốc Tuấn đã can
ngăn vua và nói: “Việc sửa chữa thành không cần thiết lắm, việc cần kíp của
triều đình phải làm ngay không chậm trễ là uý lao cho dân. Hơn bốn năm qua,
giặc sang đánh phá từ nơi rừng núi đến nơi ruộng đồng bị tàn phá hầu hết.
Vậy mà nhân dân vẫn một lòng hướng về triều đình, xuất tài, xuất lực đi lính
đóng thuế tạo nên một lực lượng mạnh cho triều đình chống giặc giữ nước.
Nay nhà vua trở về yên ổn, việc phải làm trước hết là phải chú ý ngay mà nơi
nào bị tàn phá, tình hình nặng nhẹ mà cứu tế, những nơi bị tàn phá nặng nề có
thể miễn thuế trong mấy năm, có như thế nhân dân mới nức lòng càng quy về
triều đình hơn nữa. Người xưa nói: “Chung chí thành thành” - ý chí của quần
chúng là bức thành kiên cố, đó mới là cái cần phải sửa chữa ngay. Xin vua xét
kỹ”.Vua Trần Nhân Tông cho là phải đã tạm đình chỉ xây thành Thăng Long
và ra lệnh miễn thuế cho dân trong vòng ba năm.
Bên cạnh việc chăm lo về đời sống vật chất nhà nước còn thi hành
những chính sách về xã hội: Tổ chức hội hè, vui chơi… thể hiện sự quan tâm
của Nhà nước đến mọi tầng lớp của nhân dân.

16


Để “an dân”, để có sự “công bằng dân chủ” nhà Trần ban hành các luật
lệ. Năm 1230, nhà Trần ban hành sách “Quốc triều thống chế” gồm hai quyển,
sau đó ban hành “Quốc triều hình luật”. Để luật pháp được công bằng nhà nước
còn thành lập cơ quan kiểm pháp – giải quyết các vụ kiện tụng, đảm bảo lợi ích
cho tất cả mọi người trong xã hội.
Ngoài việc dưỡng dân, sử dụng hợp lý sức dân, an dân nhà Trần còn
chú ý đến việc giáo dục thi cử, tuyển dụng những bậc hiền tài ra “phò vua
giúp nước”. Tiêu biểu như: Nguyễn Trung Ngạn, Phạm Sư Mạnh, Lê Quát,
Mạc Đĩnh Chi, Phạm Ngũ Lão, Dã Tượng, Yết Kiêu, Địa Lô… Thiếu phó

Mạc Đĩnh Chi sau được thờ trong Văn miếu Quốc Tử Giám. Phan Huy Chú
nhận xét: “Các bậc tể phụ thời Anh Tông thường là nhiều danh thần về dòng
tôn thất có người do công lao danh vọng vào làm tướng, về phía nho học có
người do văn chương học vấn làm chức tể, chỉ có tài là được cất đặt không
câu lệ về tư cách (xuất thân)”.
Dưỡng dân, sử dụng hợp lý sức dân là một chính sách hết sức tiến bộ và
đúng đắn. Trần Quốc Tuấn không chỉ nhận thức được sức mạnh của toàn dân
mà ông còn đưa ra được biện pháp để nuôi dưỡng dân cả về vật lực và trí lực.
Đó chính là cái hơn người của Trần Quốc Tuấn ít ai có thể làm được điều đó.
d. Khoan dân là biết lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân.
Tháng 12 năm 1284, trước khi năm mươi vạn quân xâm lược Nguyên Mông tấn công vào nước ta dưới sự chỉ huy của thái tử Thoát Hoan. Trần
Quốc Tuấn và nhà Trần đã tổ chức hội nghị Diên Hồng, nhằm triệu tập các bô
lão trong cả nước (các bô lão là những người cao tuổi nhất, đức sâu dầy nhất,
đại diện cho ý chí trăm họ trong cả nước) để hỏi ý kiến nhân dân về kế sách
đánh giặc “nên đánh hay nên hàng”. Tất cả nước đã đồng lòng hô vang thà
chết chứ không hàng “Đánh! Đánh! Đánh” toàn điện Diên Hồng đã rung lên
hai tiếng “Sát Thát” thể hiện hào khí “Đông A” đang hừng hực chảy trong
lồng ngực của muôn dân trăm họ yêu nước. Toàn dân, toàn quân đều thích vào
tay mình hai chữ “Sát Thát” - giết giặc Nguyên, thể hiện quyết tâm đánh giặc
17


giữ nước. Đứng trước quang cảnh đó nhà vua khẽ nhắm mắt lại “Cả lịch sử
oai hùng nghìn năm của dân tộc trở về thét vang trong tâm hồn Nhân Tông:
Trưng trắc thét: “Đánh”, Triệu Trinh Nương thét: “Đánh”, Lý Bí, Triệu Quang
Phụng thét: “Đánh”, Ngô Quyền rồi Lên Hoàn, Lý Thường Kiệt… biết bao
nhiêu anh hùng vụt ra lẫm liệt nghiêm nghị trước mắt Nhân Tông và vị nào
cũng thét “Đánh” ”.
Trần Quốc Tuấn từng nhận định: “Dựa vào các cụ bô lão ta có thể huy
động cả dân tộc ra trận, lòng dân chính là pháo đài kiên cố nhất, ý chí trăm họ

sẽ là toà thành vững chắc, bảo đảm cho chiến thắng hoàn toàn, giữ vững non
sông, xã tắc”. Qua đó ta thấy, đứng trước an nguy của vận mệnh đất nước,
Trần Quốc Tuấn và nhà Trần đã biết tập hợp nhân dân, hỏi dân, lắng nghe tâm
tư nguyện vọng của nhân dân. Việc hỏi ý kiến nhân dân thể hiện hình thức
“dân chủ” trong triều đình, đồng thời là huy động được chí tuệ của toàn dân
vào công việc giữ nước, đề cao vai trò quyết định của nhân dân.
Có thể nói, việc hỏi ý kiến dân vào đúng thời điểm quan trọng nhất của
vận mệnh đất nước, thể hiện được cái nhìn “tinh tường” của nhà chính trị tài
ba Trần Quốc Tuấn. Đó là việc làm hết sức khôn khéo của ông, nhằm tranh
thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân. Đồng thời nó còn thể hiện nhận thức
vượt trước thời đại của Trần Quốc Tuấn, nó đã vượt qua ý thức hệ của xã hội
phong kiến - chuyên quyền, độc đoán, quan liêu coi ý kiến của giai cấp thống
trị là trên hết, là tối thượng, là tất cả, không cần hỏi ý kiến kẻ dưới. Trần Quốc
Tuấn đã phá tan quan niệm “cổ hủ, lạc hậu’ đó, ông đã biết gắn họ với đất
nước, tranh thủ chí tuệ của nhân dân. Đó là một việc làm “quý” xưa nay chưa
từng có trong lịch sử.
e. Khoan dân là có khả năng huy động sức dân bằng nhân tâm, công
tâm trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ đất nước.
Là người chủ tướng đứng đầu, thống lĩnh ba quân. Trần Quốc Tuấn cho
rằng, muốn tập hợp được sức lực của nhân dân, muốn nhân dân đồng lòng
ủng hộ cho sự nghiệp chung của đất nước thì phải huy động họ bằng nhân
18


tâm, công tâm chứ không phải bằng “ép buộc vũ lực”. Để làm được điều đó,
là người đứng đầu quân đội. Ông cho rằng trước tiên mình phải “trung với
vua, hiếu với nước”, sẵn sàng hi sinh vì đất nước, vì dân có như thế nhân dân
mới noi theo, làm theo.
Khi quân Nguyên sang xâm lược nước ta lần II (1285) vua Trần Nhân
Tông hỏi Trần Quốc Tuấn “tranh đất để đánh nhau, giết người đầy đồng, nay

quân giặc thế lực mạnh như thế, hay ta xin hàng để cứu lấy muôn dân”. Quốc
Tuấn thưa “Bệ hạ nói lời ấy thật là lời nói của bậc nhân, nhưng còn tôn miếu xã
tắc thì sao? Thần xin trước hết hãy chém đầu thần đi trước rồi hẵng hàng”. Câu
nói ấy của ông không chỉ làm yên lòng vua, mà còn biểu thị tinh thần quyết
chiến đấu hy sinh vì độc lập của dân tộc. Trong Hịch tướng sĩ của ông viết “…
ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt nước mắt đìa, chỉ
giận không được ăn thịt, nằm da, nuốt gan, uống máu quân thù, dẫu trăm thân
phơi bày nội cỏ, nghìn xác ta bọc trong da ngựa ta cũng xin làm”.
Là tướng, ông quan niệm về đạo làm tướng là phải thương yêu chăm
sóc, lo lắng đùm bọc, coi họ như chân tay, anh em, cha con một nhà như thế
khiến họ quyên đi gian nan, vất vả, mới khiến họ xả thân vì nước, vì dân. Ông
nói, là người làm tướng: “Trong quân có người ốm, tướng phải thân hành đến
đem thuốc điều trị; quân có người chết tướng phải khóc thương, quân đi thú
xa, thì sai vợ con đến nhà thăm hỏi; phàm có khao thưởng thì chia đều cho
quan quân; khi có hành động thì phải họp cả tướng tá để bàn, mưu đã định rồi
sau mới đánh. Cho nên tướng với binh có cái ơn hoà rượu và hút máu. Cho
nên, quân sĩ có cuộc thui trâu bày rượu và cá khí ném đá; yêu mến như con
em theo cha anh, như chân tay đỡ đầu mắt không ai ngăn được. Nếu hà khắc
làm cho họ đau đớn, bắt làm việc nặng nề thì những tiếng oán nghe không
xiết! tướng suý coi quân sĩ như cỏ rác, thì quân sĩ coi tướng suý như cừu thù,
cần làm bộ hạ thì khó, còn mong gì họ gắng sức liều chết để đánh địch nữa”.
Có thể nói, bằng lòng trung quân ái quốc, bằng đạo làm tướng, ông đã
xây dựng được những đội quân “cha con”, sẵn sàng hi sinh vì nước vì dân.
19


Là tướng, Trần Quốc Tuấn đặc biệt quý trọng hiền tài.Ông yêu thương
trọng dụng họ mà không phân biệt tầng lớp xuất thân (ông quý năm nhân tài;
Nhân, trí, dũng, trung, tín). Ông đã tiến cử lên vua cả một lớp văn, võ tướng
đắc lực như Dã Tượng, Yết Kiêu, Địa Lô (xuất thân từ nô tỳ), Phạm Ngũ Lão

(vốn từ tầng lớp bình dân), rồi Đỗ Vĩ, Trương Hán Siêu…Họ đều trở thành
những vị tướng tài, có công lao vô cùng to lớn, góp phần làm nên những
chiến công hiển hách của nhà Trần. Họ chiến đấu hết mình không chỉ vì lòng
yêu nước, thương dân thuần tuý, mà họ còn chiến đấu để đáp lại lòng tin yêu,
tài năng, đức độ, nhân cách của vị chủ tướng Trần Quốc Tuấn.
Trần Quốc Tuấn còn hết sức coi trọng nhân tố chính trị tinh thần trong
quân đội. Trước lễ xuất quân, ông đã dùng toàn bộ tâm huyết và tấm lòng yêu
nước cháy bỏng để viết bài “Hịch tướng sĩ”. Lời hịch ông viết không phải
bằng lời văn khoa cử, miệt mài, gọt giũa mà bằng một giọng văn hừng hực
khí thế chiến đấu; ông viết “… Huống chi ta với các ngươi, sinh ra giữa cảnh
rối ren, lớn lên nhằm thời nguy cấp mắt thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang
ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà làm
nhục tể phụ…”. Bài hịch đã khơi dậy, kích thích lòng căm thù giặc sâu sắc,
đồng thời bài hịch cũng kêu gọi các tướng sĩ hãy đồng tâm nhất trí một lòng
trung quân ái quốc quyết tâm đánh giặc cứu nước. Ý chí chiến đấu quyết
chiến, quyết thắng, lòng trung nghĩa “dĩ thân tuẫn quốc” (hi sinh vì nước)
được bài hịch khích lệ đã từ các tướng sĩ truyền đến toàn quân, tạo một sức
mạnh tinh thần hết sức to lớn.
Ngoài ra, ông còn khơi dậy lòng yêu nước, động viên nhân dân khắp
nơi từ miền xuôi đến miền ngược đồng lòng chống giặc. Các đội dân binh ở
các địa phương được thành lập và có đóng góp to lớn trong cuộc kháng chiến
cứu nước (đội quân của Hà Chương, Hà Đặc…).
Bằng đức độ, tài năng, nhân cách của một vĩ nhân - Trần Quốc Tuấn đã
cảm phục, huy động được đông đảo nhân dân tham gia chiến đấu bảo vệ
giang sơn xã tắc. Một công việc hết sức khó khăn, đòi hỏi người phải có tầm
20


cỡ mới làm được. Vậy mà ở thế kỷ thứ XIII, Trần Quốc Tuấn đã làm được
điều đó - một việc làm thật phi thường.

f. Khoan dân là biết kết hợp hài hoà quyền lợi của dân với quyền lợi
của giai cấp phong kiến.
Muốn huy động được sức dân, đoàn kết toàn dân thì phải đặt quyền lợi
của nhân dân lên hàng đầu, đồng thời phải kết hợp hài hoà khéo léo với lợi ích
của giai cấp phong kiến. Đó là sự quan tâm tới các binh sĩ: “Các ngươi ở dưới
trướng ta đã lâu, không có áo thì ta cho mặc, không có cơm thì ta cho ăn,
quan còn nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ta tăng, đi thuỷ thì ta cho thuyền,
đi bộ thì ta cho ngựa, lúc hoạn nạn thì cùng nhau sống chết, lúc nhàn hạ thì
cùng nhau vui cười…”.
Nếu giặc đến thì: “Không những thái ấp của ta không còn mà bổng lộc
của các ngươi cũng mất, gia quyến ta bị tan mà vợ con ngươi cũng khốn.Vì
vậy tất cả các tướng sĩ phải cùng nhau đánh giặc giữ nước”.
Đó là một chính sách khôn khéo của Trần Quốc Tuấn và nhà Trần. Bởi
ông hiểu rằng nếu tách riêng quyền lợi của nhân dân với quyền lợi của giai cấp
phong kiến, sẽ gây ra tình trạng chia rẽ, không thống nhất về lý trí, mục đích
chiến đấu giữa vua và nhân dân đó chính là công tác giáo dục tư tưởng chính trị
trong quân đội đương thời. Một việc làm hết sức quan trọng, cần thiết. Bởi khi
được giáo dục quân dân thấy được quyền lợi cũng như trách nhiệm nghĩa vụ
của mình. Do đó, họ sẽ chiến đấu không phải cho vua mà cho chính mình.
2. Tư tưởng “đoàn kết” toàn dân tham gia vào công việc giữ nước.
Trần Quốc Tuấn nêu bật chân lý của chiến tranh giữ nước là phải “đoàn
kết toàn dân”. Đoàn kết toàn dân là cơ sở để xây dựng quân đội thường trực
và các đội quân dân binh. Trần Quốc Tuấn khẳng định, thời Đinh - Lê dùng
người tài giỏi, trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, còn thời Trần trong
kháng chiến chống Nguyên - Mông thì “vua tôi đồng tâm, anh em hoà mục,
nước nhà góp sức, giặc tự bị bắt”. Đoàn kết toàn dân chính là sức mạnh vô
địch, có thể đánh thắng được kẻ thù xâm lược. Để có được sự đoàn kết ấy,
21



theo ông không chỉ lo đoàn kết nhân dân mà trước hết phải lo đoàn kết trong
nội bộ quý tộc Trần.
Đoàn kết trong nội bộ quý tộc để làm nòng cốt, làm gương nhằm tiến
tới đoàn kết toàn dân, đoàn kết cả nước. Sách Đại Việt sử ký toàn thư đã chép
lời vua Trần Anh Tông nói với các vương thất rằng: “Thiên hạ là thiên hạ của
tổ tông, người nối nghiệp của tổ tông phải cùng hưởng phú quý với anh em
trong họ. Tuy bên ngoài có một người ở tôn, được cả thiên hạ phụng sự nhưng
bên trong thì ta với các Khanh là đồng bào ruột thịt, lo thì cùng lo, vui thì
cùng vui. Các Khanh nên truyền những điều này cho con cháu để chúng đừng
bao giờ quyên, thì đó là phúc muôn năm của tông miếu xã tắc”.
Để củng cố vương quyền, bảo vệ địa vị thống trị của dòng họ, nhà Trần
còn quy định những người trong hoàng tộc phải kết hôn với nhau. Sự cố kết
quan hệ trong họ hàng, tông tộc bằng những lợi ích chính trị và kinh tế có tác
dụng thắt chặt tình đoàn kết trong giai cấp thống trị. Đặc biệt, năm 1282, khi
có giặc ngoại xâm sang xâm lược, vua Trần Nhân Tông đã tổ chức hội nghị
Bình Than: “họp vương hầu và trăm quan, bàn kế công thủ và chia nhau đóng
giữ những nơi hiểm yếu”. Quả là “lo thì cùng lo, vui thì cùng vui” và đúng
như lời Trần Quốc Tuấn nói với các tướng sĩ: “lúc trận mạc thì cùng nhau
sống chết, khi ở nhà cùng nhau vui cười”. Và theo ông: “Vua tôi đồng tâm,
anh em hoà mục” luôn luôn là một nhân tố quan trọng, thành công trong quá
trình lãnh đạo của vương triều Trần trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
Không chỉ luôn luôn chú ý xây dựng khối đoàn kết đó màTrần Quốc
Tuấn còn là tấm gương sáng ngời cho mọi người noi theo. Trong một lần gia
biến, hai lần quốc nạn, ông luôn tỏ ra là một bậc hiền lương, anh hùng long
trung son sắc. Vì lợi ích dân tộc và xã tắc ông đã dẹp thù riêng với Trần
Quang Khải, bỏ thù nhà để vun trồng cho mối đoàn kết trong tông tộc, trong
triều đình khiến cho nó trở thành cội nguồn của mọi thắng lợi.
Bố của ông là Trần Liễu vẫn mang hận thù trong gia đình, quyết chí
nuôi dưỡng con và ký thác vào Trần Quốc Tuấn mối thù riêng ấy, trước khi
22



mất ông đã dặn: “Con mà không vì cha lấy được thiên hạ thì cha chết dưới
suối vàng cũng không nhắm mắt được”. Vì nghĩa lớn Trần Quốc Tuấn tuy có
để lời dặn của cha trong lòng nhưng không cho đó là phải, đã không thực hiện
lời trăn trối của cha. Ông không những không nghĩ đến việc “giành lấy thiên
hạ” mà còn căm giận đến chết cũng không muốn nhìn mặt người con đã đồng
tình với cha “Trần Liễu”. Trần Quốc Tuấn cảm kích mến phục đến rơi nước
mắt những người đã khuyên ông không nghe theo lời cha dặn: Yết Kiêu, Dã
Tượng và tiếp tục một lòng phò tá các vua Trần kế tiếp nhau xây dựng và bảo
vệ đất nước. Vậy thì gì thúc đẩy Trần Quốc Tuấn làm trái lời trăn trối của cha.
Phải chăng ông không đủ cam đảm, tài chí để giành thiên hạ?. Một người
đứng đầu toàn quân, nắm trong tay vận mệnh của dân tộc trong ba lần đánh
giặc Nguyên - Mông như ông hẳn là dư sức, dư tài để làm khuynh đảo thời
thế. Chỉ có thể nghĩ được rằng ông không cho lời cha dặn là phải vì nó trái với
đạo lý không phù hợp với phẩm chất của một vĩ nhân như Trần Quốc Tuấn.
Cũng vì nghiệp chung, dù biết chuyện gia đình Trần Quốc Tuấn nhưng
các vua vẫn tin tưởng quý trọng nhân cách, tài năng, đức độ của ông, vẫn tin
tưởng tuyệt đối và giao cho ông những trọng trách phong cho ông làm Quốc
Công tiết chế, nắm trong tay vận mệnh cả triều đình. Có thể nói sự đồng tâm,
hoà thuận trong hoàng tộc trong nội bộ chính quyền đã làm tăng thêm sức
mạnh của vương triều, là nhân tố để cố kết nhân tâm trong cả nước, nhất là
khi cần huy động nhân lực để đánh giặc giữ nước.
Bên cạnh đó Trần Quốc Tuấn và nhà Trần còn đặc biệt chú ý đến đội
ngũ các thủ lĩnh quân sự và các châu mục miền núi. Với chính sách mềm dẻo
triều đình đã tập hợp, lôi kéo được các tù trưởng, thổ ty, tộc trưởng vùng biên
giới, biến họ thành bề tôi trung thành của triều đình. Mối quan hệ vua tôi
được gắn bó bằng hôn nhân (nhà Trần gả công chúa cho các thủ lĩnh, tù
trưởng miền núi) bằng quyền lợi trên cơ sở lợi ích chung của cả nước. Chính
họ là những người quản giữ, huy động quân dân bản địa - một lực lượng


23


không thể thiếu để đánh giặc ở biên giới, chặn đầu khoá đuôi và truy đuổi
quân xâm lược khi chúng tiến quân hoặc chúng tháo chạy.
Nhưng Trần Quốc Tuấn cho rằng dù nhà nước có đồng tâm, nhất chí,
kiên quyết chống giặc cũng không thể giữ được một khi thiếu sự hưởng ứng,
tham gia đóng góp sức người, sức của dân quân khắp mọi miền đất nước. Nhận
thức được điều đó nên ông đã xây dựng đội quân một lòng như cha con. Đó sẽ
là đội quân có sức mạnh như vũ bão có thể đảm bảo thắng lợi. đè bẹp bất cứ kẻ
xâm lược nào, (nổi bật là đội quân “phụ tử chi binh” của Phạm Ngũ Lão).
Ông từng nói “tướng sĩ hoà mục”, “trên dưới đồng lòng, lòng dân
không lìa”, “vua tôi đồng tâm, anh em hoà mục, cả nước góp sức giặc tự bị
bắt”. Qua đó ta thấy, là một vị chủ tướng Trần Quốc Tuấn đã thấu hiểu được
sức mạnh của đoàn kết toàn dân, của những đội quân cha con - đó là sức
mạnh vô địch có thể đè bẹp bất cứ kẻ thù xâm lược hùng mạnh nào. Khi thực
hiện được “nước nhà góp sức”, “cử quốc nghênh địch” thì ta tất thắng, giặc tất
phải bó tay hàng “giặc tự bị bắt”. Phan Huy Chú viết về nhà Trần “trăm họ
đều là quân lính nên mới phá được giặc to, mạnh được thế nước”.
Đoàn kết quyết tâm giữ nước là một truyền thống quý báu của nhân dân
ta. Nhưng để phát huy được truyền thống, tạo được thế “cả nước góp
sức”hoàn toàn không dễ dàng Trước và sau thời Trần, lịch sử dân tộc đã phải
chứng kiến những lần thất bại và mất nước do những người lãnh đạo không
huy động được sức mạnh cả nước, chung sức đánh giặc. Đó là thời An Dương
Vương - Thục Phán chống quân Triệu (179 trước công nguyên); đó là thời nhà
Hồ - Hồ Quý Ly đánh quân Minh(1407); đó là triều Nguyễn chống thực dân
Pháp xâm lược (1858). Trong ba cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông, sức người, sức của trong dân được huy động ở mức độ cao nhất, vì thế
vương triều Trần đã giành được thắng lợi. Đó không phải là kết quả của quá
trình một sớm một chiều, một năm hay một tháng, hay không phải đợi đến khi

có giặc mới phát lời kêu gọi. Vì vậy, ông cho rằng trong thời bình phải
“Khoan thư sức dân” - khoan dân là dưỡng dân, chăm lo đời sống vật chất,
24


tinh thần cho nhân dân, biết tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân. Đó
là điều kiện để huy động được sức dân.
Đến thời đại Hồ Chí Minh, tư tưởng đoàn kết dân đã được nâng lên một
tầm cao mới, hoàn chỉnh hơn. Bác nói: Đoàn kết toàn dân, không phân biệt
tầng lớp, giai cấp, thành phần dân tộc, già trẻ, gái trai đều có thể tập trung
dưới một mặt trận. Bác không chỉ nêu cao đoàn kết dân tộc mà Người còn nêu
cao tinh thần đoàn kết quốc tế: “Đoàn kết quốc tế giữa các dân tộc bị bóc lột,
áp bức, đoàn kết giai cấp vô sản toàn thế giới để đấu tranh chống lại kẻ thù
chung đó là Chủ nghĩa Đế Quốc”. Và tư tưởng đoàn kết đó trở thành chân lý:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”.
Tóm lại: Đoàn kết toàn dân là tư tưởng hết sức của tiến bộ thể hiện cái
nhìn sắc bén, chính xác, vượt trước thời đại của nhà chính trị tài ba Trần Quốc
Tuấn. Đồng thời còn phản ánh được truyền thống của dân tộc Đại Việt ta.
* Những hạn chế trong tư tưởng chính trị Trần Quốc Tuấn.
Bên cạnh những điểm tích cực, tiến bộ đó thì tư tưởng chính trị Trần
Quốc Tuấn cũng có những hạn chế do điều kiện lịch sử quy định.
Đó là ông đề ra và thực hiện chính sách “Khoan dân”, “đoàn kết toàn
dân” chủ yếu để huy động quần chúng nhân dân tham gia đấu tranh bảo vệ
quyền lợi địa vị của giai cấp quý tộc thống trị chứ chưa đề cao đấu tranh vì
quyền lợi của đông đảo quần chúng nhân dân lao động.
Thứ hai, ông quá đề cao chủ nghĩa yêu nước mà quên đi lòng tự hào
dân tộc. Lòng tự hào dân tộc là sức mạnh nội lực tiềm ẩn trong lòng mỗi
người dân. Dân tộc ta có bề dày lịch sử, từ thuở các vua Hùng dựng nước cho
đến 1000 năm Bắc thuộc, nhân dân ta đã phải sống trong cảnh lầm than, đau

thương tang tóc, sống kiếp sống nô lệ. Vậy mà nhân dân ta vẫn đứng vững,
vẫn vùng dậy đấu tranh không mệt mỏi để đòi độc lập tự do, không bị đồng
hoá, khẳng định chủ quyền của dân tộc. Điều đó chính là nhờ một phần vào

25


×