Tải bản đầy đủ (.doc) (133 trang)

Quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non mới ở các trường mầm non trên địa bàn quận cầu giấy , thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (548.58 KB, 133 trang )

LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành, tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám đốc và
các thầy, cô giáo của Học viện Quản lý giáo dục, các thầy cô trực tiếp tham
gia giảng dạy và quản lý đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong quá
trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Nguyễn Công
Giáp đã tận tâm hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ tôi rất nhiều trong suốt quá trình
nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin cảm ơn lãnh đạo, các đồng chí chuyên viên Phòng Giáo dục
Quận Cầu Giấy, Ban giám hiệu, giáo viên và phụ huynh học sinh các trường
mầm non trên địa bàn Quận Cầu Giấy đã tham gia đóng góp ý kiến, cung cấp
thông tin cho tôi trong quá trình điều tra, nghiên cứu.
Nhân dịp này, tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn tới các đồng nghiệp, bạn
bè và những người thân yêu trong gia đình đã tạo điều kiện cho tôi được học tập,
nghiên cứu, giúp đỡ tôi hoàn thiện luận văn cũng như hoàn thành khóa học này.
Do năng lực nghiên cứu còn có phần hạn chế nên luận văn không tránh
khỏi những thiếu sót, kính mong nhận được sự quan tâm, chỉ bảo của các nhà
khoa học, các thầy giáo, cô giáo và bạn bè đồng nghiệp để kết quả nghiên cứu
được trọn vẹn hơn.
Hà Nội, tháng 11 năm 2016
Tác giả

Ninh Thị Thu


MỤC LỤC


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài


Thế kỷ XXI là thế kỷ của khoa học - công nghệ tiếp tục phát triển như
vũ bão, thúc đẩy mạnh mẽ quá trình toàn cầu hoá kinh tế, hội nhập kinh tế
quốc tế, phát triển kinh tế tri thức, cũng là thế kỷ mà vai trò của giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ có ý nghĩa quyết định hơn bao giờ hết đối với sự
phát triển toàn diện của mỗi quốc gia. Giáo dục phải thay đổi không ngừng để
thích ứng với những biến động của thế giới.
Nền kinh tế nước ta hiện nay đang trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế
quản lý kinh tế tập trung, bao cấp sang kinh tế thị trường, định hướng XHCN,
trong đó có nhiều hình thức và sở hữu thành phần kinh tế cùng tham gia cho
thị trường lao động được mở rộng. Nhu cầu học tập tăng nhanh nên đòi hỏi
giáo dục phải tiếp cận và đổi mới nhanh chóng thích nghi với cơ chế mới,
phải đi trước đón đầu sự phát triển kinh tế.
Đảng và Nhà nước ta luôn coi giáo dục, khoa học và công nghệ là quốc
sách hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, là nền tảng và động
lực của sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Xu thế toàn cầu hóa mạnh
mẽ đang diễn ra trên thế giới. Với sự phát triển nhảy vọt của khoa học và
công nghệ, kinh tế thế giới đang từng bước chuyển sang nền kinh tế tri thức.
Trong bối cảnh kinh tế đó, triết lý về Giáo dục cho thế kỷ 21 có những biến
đổi to lớn, đó là lấy: “Học thường xuyên suốt đời” làm nền móng hướng tới
xây dựng một xã hội học tập.
Đại hội XI của Đảng đã xác định mục tiêu tổng quát trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là xây dựng về cơ bản nền kinh tế, văn
hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày
càng phồn vinh. Việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục nước ta đang


2
đặt ra yêu cầu cấp thiết “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới
căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại
hóa, dân chủ và hội nhập quốc tế, trong đó đổi mới cơ chế quản lý là khâu
then chốt. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo coi trọng giáo dục

đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập nghiệp;
đổi mới cơ chế tài chính giáo dục. Thực hiện kiểm định giáo dục lành mạnh,
kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội”.
Ngày nay, ngành giáo dục đang được cả xã hội quan tâm sâu sắc, nhu
cầu đổi mới để nâng cao chất lượng dạy và học, đảm bảo việc học thật – dạy
thật – đánh giá thực chất đang là vấn đề cấp thiết.
Trong bối cảnh đó, mỗi nhà trường muốn phát triển bền vững phải có
những biện pháp quản lý phù hợp, hiệu quả. Để nâng cao chất lượng dạy và
học một cách thực sự thì mỗi thành viên trong nhà trường phải không ngừng
phấn đấu, nỗ lực trau dồi kiến thức cho bản thân. Nhưng khâu then chốt để
nâng cao chất lượng và hiệu quả chính là công tác quản lý, triển khai chương
trình sao cho phù hợp với xu thế phát triển của đất nước trong thời kỳ đổi
mới. Đây cũng chính là vấn đề mà các cấp quản lý, các nhà quản lý luôn quan
tâm, trăn trở.
Giáo dục mầm non là cấp học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc
dân, Giáo dục mầm non có nhiệm vụ quan trọng là hình thành ở trẻ những cơ
sở đầu tiên của nhân cách con người Việt Nam XHCN. Mục tiêu của giáo dục
mầm non là giúp trẻ phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, chuẩn
bị tâm thế sẵn sàng cho trẻ vào học lớp Một. Muốn thực hiện mục tiêu trên,
việc đầu tiên là cần phải chăm lo phát triển năng lực sư phạm cho đội ngũ
giáo viên, bởi vì giáo viên là chủ thể trực tiếp của quá trình chăm sóc và giáo
dục trẻ, là nhân tố quyết định trực tiếp đến sự hình thành phát triển nhân cách
trẻ. Điều đó đòi hỏi người Hiệu trưởng mầm non phải có kiến thức khoa học


3
quản lý trong việc quản lý, chỉ đạo thực hiện chương trình giáo dục mầm non,
có năng lực tổ chức, phối hợp với gia đình và các tổ chức xã hội thực hiện
mục tiêu giáo dục mầm non.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi lựa chọn đề tài:

“Quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non mới ở các trường
mầm non trên địa bàn Quận Cầu Giấy- Hà Nội ”
làm đề tài nghiên cứu với hy vọng sẽ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục mầm
non trên địa bàn thành phố Hà Nội.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng quản lý thực hiện chương
trình giáo dục ở các trường mầm non nhằm đề xuất một số biện pháp quản lý
của Hiệu trưởng trong việc quản lý chương trình giáo dục mầm non mới ở các
trường mầm non trên địa bàn Quận Cầu Giấy- Thành phố Hà Nội.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động quản lý của Hiệu trưởng ở một số trường Mầm non.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non mới của
Hiệu trưởng trường Mầm non.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Đề tài nghiên cứu các biện pháp quản lý thực hiện
chương trình giáo dục mầm non mới của Hiệu trưởng Trường Mầm non.
- Về địa bàn: Khảo sát và thử nghiệm đánh giá tại 04 trường mầm non
trên địa bàn Quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội.
+ Trường mầm non dân lập Lý Thái Tổ 1
+ Trường mầm non dân lập Lý Thái Tổ 2
+ Trường Little Havard


4
+ Trường mầm non Trung Hòa Nhân Chính
-Về đối tượng khảo sát:
+ Cán bộ quản lý (Đại diện Phòng GD&ĐT, Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng,
Tổ trưởng chuyên môn), giáo viên và cha mẹ học sinh.

- Về thời gian: Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 06/2016
5. Giả thuyết khoa học
Chất lượng giáo dục mầm non (GDMN) trên địa bàn Quận Cầu Giấy
thành phố Hà Nội trong những năm gần đây đã được nâng cao, tuy nhiên với yêu
cầu của chương trình GDMN mới hoạt động chuyên môn còn nhiều bất cập so
với yêu cầu phát triển giáo dục trong giai đoạn hiện nay. Nếu nghiên cứu và
đánh giá đúng thực trạng quản lý hoạt động chuyên môn ở các trường mầm non
trên địa bàn Quận Cầu Giấy thành phố Hà Nội thì có thể đề xuất được các biện
pháp mang tính khả thi và hiệu quả trong việc quản lý thực hiện chương trình
GGDM mới của Hiệu trưởng góp phần nâng cao chất lượng dạy học và giáo
dục, đáp ứng yêu cầu đổi mới GDMN hiện nay.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý thực hiện chương trình ở các
trường mầm non.
6.2. Khảo sát, đánh giá thực trạng thực hiện chương trình giáo dục mầm
non mới và quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non mới của Hiệu
trưởng trường Mầm non trên địa bàn Quận Cầu Giấy thành phố Hà Nội.
6.3. Đề xuất biện pháp và khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của
các biện pháp quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non mới của
người Hiệu trưởng trường mầm non trên địa bàn Quận Cầu Giấy thành phố Hà
Nội.


5
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa và khái quát hóa các tài liệu liên quan
đến vấn đề nghiên cứu; nghiên cứu các văn kiện của Đảng; nghiên cứu các
văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước; các bài báo đăng trên các tạp chí
chuyên ngành, các bài viết về đánh giá Hiệu trưởng.

7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra, khảo sát bằng phiếu hỏi: Nhằm mục đích thu
thập thông tin về thực trạng thực hiện chương trình và quản lý thực hiện
chương trình giáo dục mầm non mới ở các trường mầm non cũng như
kiểm chứng tính khả thi, cấp thiết của các biện pháp đề xuất trong đề tài
qua sử dụng các phiếu hỏi.
- Phương pháp phỏng vấn sâu đối với một số cán bộ quản lý, giáo viên và
cha mẹ học sinh.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Tổng kết kinh nghiệm của các cấp
quản lý trong thực hiện chương trình từ trước đến nay của người Hiệu trưởng
trường mầm non.
7.3. Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học
Sử dụng các công thức thống kê toán học như số điểm trung bình, hệ số
tương quan thứ bậc Spearman để xử lý (định lượng) kết quả nghiên cứu, rút ra
các nhận xét khoa học.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, nội dung chính của luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý thực hiện chương trình giáo dục
mầm nonmới ở các trường mầm non.


6
Chương 2: Thực trạng quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm
non mới ở các trường mầm non trên địa bàn Quận Cầu Giấy thành phố Hà Nội.
Chương 3: Biện pháp quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm
non mới ở các trường mầm non trên địa bàn Quận Cầu Giấy thành phố Hà Nội.


7

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH
GIÁO DỤC MẦM NON MỚI Ở CÁC TRƯỜNG MẦM NON
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Đầu thế kỷ XXI, cuộc cách mạng khoa học – công nghệ với những bước
tiến nhảy vọt, thế giới chuyển từ nền văn minh công nghiệp sang nền văn
minh trí tuệ. Hội nhập kinh tế quốc tế và quá trình toàn cầu hóa là xu thế tất
yếu ảnh hưởng sâu rộng đến sự phát triển của tất cả các quốc gia trên thế giới.
Ngày nay ở hầu hết mọi quốc gia, giáo dục đều đặt ở vị trí trung tâm trong các
chiến lược phát triển đất nước. Thậm chí ở một số nước, người ta quan niệm
vấn đề quan trọng nhất trong phát triển ngày nay là phát triển giáo dục, đây
thực sự là cuộc cách mạng trong các quan niệm, các cách tiếp cận, nó đòi hỏi
con người phải đổi mới cách nghĩ, cách làm để thích nghi và làm chủ sự phát
triển. Với tầm quan trọng đặc biệt của giáo dục trong nền kinh tế tri thức,
nhiều quốc gia trên thế giới đã nhạy bén tiến hành cải cách giáo dục.
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế xã hội, ngành giáo
dục Việt Nam trong những năm vừa qua đã có những bước tiến đáng kể. Tuy
nhiên, hàng loạt vấn đề còn tồn tại đòi hỏi phải có các giải pháp để hoàn thiện
như: Chương trình dạy và học, trang thiết bị, phương pháp giảng dạy - học
tập, nghiên cứu, quản lý trường học... Trong các giải pháp đó, vai trò lãnh đạo
và quản lý nhà trường là vấn đề quyết định cơ bản.
Để thực hiện có hiệu quả sự nghiệp giáo dục, Đảng và Nhà nước ta đã
có Chỉ thị số 40-CT/TW của Ban Bí thư về việc “Xây dựng, nâng cao chất
lượng đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục”, Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng
sản Việt Nam lần thứ X cũng đã nêu rõ: “... Coi trọng công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ công chức trước hết là cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý về


8
đường lối, chính sách, về kiến thức và kỹ năng quản lý hành chính Nhà nước,

quản lý kinh tế xã hội trong điều kiện cơ chế thị trường và Hội nhập kinh tế
Quốc tế” và “Xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự tiên phong gương mẫu, có
phẩm chất đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn
thành nhiệm vụ; kiên định lập trường giai cấp công nhân, phấn đấu cho mục
tiêu lý tưởng của Đảng, vững vàng trước mọi khó khăn thử thách; năng động,
sáng tạo góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa
hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN”.
Xuất phát từ quan điểm “Coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực
trực tiếp của sự phát triển, cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục là quốc
sách hàng đầu” Bộ GD&ĐT đã xây dựng chiến lược phát triển giáo dục 2011 2020, các giải pháp phát triển giáo dục được đưa ra có giải pháp “Đổi mới quản
lý giáo dục”, trong đó xác định “Đổi mới cơ chế và phương thức quản lý giáo
dục theo hướng phân cấp một cách hợp lý nhằm giải phóng và phát huy mạnh
mẽ tiềm năng, sức sáng tạo, tính chủ động và và tự chịu trách nhiệm của mỗi cấp
và mỗi cơ sở giáo dục, giải quyết một cách có hiệu quả những bất cập trong toàn
hệ thống trong quá trình phát triển.
Cụ thể là “ Xây dựng và chuẩn hóa đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục. Đào
tạo và bồi dưỡng thường xuyên đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục các cấp về kiến
thức, kỹ năng quản lý và rèn luyện phẩm chất đạo đức; đồng thời điều chỉnh sắp
xếp lại cán bộ theo yêu cầu mới phù hợp với năng lực và phẩm chất của từng
người”.
Ở nước ta đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về hoạt động
quản lý giáo dục như: “Những vấn đề cơ bản của Khoa học quản lý giáo dục”
và “Tiếp cận hiện đại trong quản lý giáo dục” của tác giả Trần Kiểm; “Kỹ
năng hỗ trợ đổi mới quản lý dành cho Hiệu trưởng và các cán bộ quản lý giáo
dục” của Nhà xuất bản lao động - 2008; “Phương pháp lãnh đạo và quản lý


9
nhà trường hiệu quả” của Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - 2004; “Những
khái niệm cơ bản về lý luận quản lý giáo dục” của tác giả Nguyễn Ngọc

Quang;... Các công trình khoa học đó đã đề cập đến vấn đề xây dựng, phát
triển đội ngũ quản lý, quản lý nội dung chương trình. Gần đây, có một số công
trình nghiên cứu của các tác giả: Phạm Minh Hạc, Nguyễn Ngọc Quang,
Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Quốc Chí, Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Trần Kiểm, Thái
Duy Tiên, Bùi Minh Hiền... đi sâu nghiên cứu về quản lý và lãnh đạo nhà
trường.
Triển khai các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đối với sự phát triển giáo
dục nói chung và phát triển giáo dục mầm non nói riêng, đã có nhiều tác giả
đi sâu nghiên cứu về lý luận quản lý giáo dục và công tác dạy học, giáo dục
cũng như công tác xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên.
Về quản lý giáo dục mầm non đã được các nhà khoa học, các nhà quản
lý quan tâm nghiên cứu. Như đề tài “Nghiên cứu khoa học cho việc nâng cao
chất lượng thực hiện chương trình chăm sóc - giáo dục trẻ 3 - 6 tuổi trong
trường mầm non” của tác giả Lê Thị Thu Phương (Viện khoa học giáo dục
Việt Nam), đề tài đã đề cập đến một số vấn đề về quan điểm và nguyên tắc
đổi mới thực hiện chương trình chăm sóc giáo dục trẻ nhằm nâng cao chất
lượng chăm sóc giáo dục trẻ, đưa ra một số định hướng đổi mới chương trình,
đề xuất xây dựng mô hình nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ.
Bên cạnh đó còn có một số luận văn Thạc sỹ khoa học quản lý giáo dục
cũng đề cập đến quản lý trường mầm non như: “Giải pháp bồi dưỡng chuẩn
hóa giáo viên mẫu giáo các tỉnh duyên hải miền Trung” của tác giả Nguyễn
Huy Thông; “Thực trạng công tác quản lý việc bồi dưỡng chuyên môn cho
giáo viên ở một số trường mầm non thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả
Nguyễn Hữu Lê Huyên, đã tiếp cận nghiên cứu về vấn đề bồi dưỡng chuyên
môn nhằm nâng cao năng lực chuyên môn cho đội ngũ giáo viên; đề tài “Biện


10
pháp quản lý hoạt động chuyên môn trong thực hiện chương trình giáo dục
mầm non mới ở các trường mầm non thành phố Hải Dương” của tác giả

Nguyễn Thị Thanh Xuân đã đề cập đến hoạt động chuyên môn trong việc thực
hiện chương trình giáo dục mầm non. Cho đến nay chưa có đề tài nào đi sâu
nghiên cứu về biện pháp quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non
mới trên địa bàn Quận Cầu Giấy thành phố Hà Nội.
Với vai trò là bậc học nền tảng, đặt tiền đề cho sự hình thành phát triển
nhân cách học sinh, nhằm thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục
mầm non đáp ứng được yêu cầu phát triển của sự nghiệp giáo dục. Do vậy
việc tìm ra các biện pháp quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non
mới ở các trường mầm non trên địa bàn Quận Cầu Giấy thành phố Hà Nội cần
được quan tâm nghiên cứu đặc biệt.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Khái niệm quản lý
Có nhiều cách hiểu khác nhau về quản lý tùy theo quan điểm và cách
tiếp cận. Theo những định nghĩa kinh điển nhất: Hoạt động quản lý là các tác
động có định hướng có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến
khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức
vận hành và đạt được mục đích của tổ chức.
Theo F.W.Taylo (1856- 1915) – được đánh giá là “Cha đẻ của thuyết
quản lý khoa học” đã định nghĩa: “Quản lý là biết chính xác điều bạn muốn
người khác làm và sau đó thấy được rằng họ đã hoàn thành công việc một
cách tốt nhất và rẻ nhất” [11, Tr.11-12]
Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu khoa học cũng có những định nghĩa
khác nhau về thuật ngữ “Quản lý” tùy theo cách tiếp cận khác nhau:
Theo tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc "Quản lý là
quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng tối đa các chức


11
năng kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra". [ 10 ]
Thuật ngữ “Quản lý” (Tiếng Việt gốc Hán) lột tả được bản chất của

hoạt động này trong thực tiễn, nó bao gồm hai quá trình tích hợp vào nhau,
quá trình “Quản” gồm coi sóc, giữ gìn, duy trì ở trạng thái “ổn định”, quá
trình “Lý” gồm sự sửa sang, sắp xếp, đổi mới hệ, đưa hệ vào thế “Phát triển”.
Nếu người đứng đầu tổ chức chỉ lấy việc “Quản” làm chính thì tổ chức dễ bị
trì trệ, ngược lại nếu chỉ quan tâm đến việc “Lý” thì sự phát triển của tổ chức
không bền vững. Do vậy người quản lý phải luôn xác định và phối hợp tốt,
sao cho trong “Quản” phải có “Lý” và trong “Lý” phải có “Quản”, làm cho
trạng thái của hệ thống mình quản lý luôn được ở trạng thái cân bằng động.
Khái niệm quản lý được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khoa học
và được tiếp cận tổng quát như sau:
- Quản lý tác động vừa có tính khoa học, vừa có tính nghệ thuật và có
hệ thống con người, nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế xã hội.
- Quản lý là một quá trình tác động có định hướng, có tổ chức dựa trên
các thông tin về tình trạng của đối tượng và môi trường nằm giữa cho sự vận
hành của đối tượng được ổn định và phát triển tới mục tiêu đã định.
- Hiểu một cách ngắn gọn thì quản lý là sự tác động có mục đích, có kế
hoạch của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý (tập thể những người lao
động) nhằm thực hiện mục tiêu của tổ chức đề ra.
Nói tới các chức năng chủ yếu của quản lý, hiện nay có nhiều quan điểm
khác nhau nhưng nhìn chung đa số các tác giả đều thống nhất ở bốn chức năng
cơ bản sau:
- Chức năng lập kế hoạch: Đây là chức năng cơ bản nhất trong các
chức năng quản lý. Kế hoạch hóa bao gồm việc xây dựng mục tiêu đối với
thành tựu tương lai của tổ chức, chương trình hành động và quyết định cách
thức, phương tiện cần thiết trong một thời gian nhất định của một hệ thống


12
quản lý để đạt được mục tiêu đó.
- Chức năng tổ chức: Tổ chức là việc chuyển hóa những ý tưởng trừu

tượng của kế hoạch thành hiện thực. Xét về mặt chức năng quản lý, tổ chức là
quá trình hình thành nên cấu trúc các quan hệ giữa các thành viên, giữa các bộ
phận trong tổ chức nhằm làm cho họ thực hiện thành công các kế hoạch và
đạt được mục tiêu tổng thể của tổ chức.
- Chức năng chỉ đạo: Đây là quá trình sử dụng quyền lực quản lý để tác
động đến đối tượng bị quản lý một cách có chủ đích nhằm phát huy hết tiềm
năng của họ hướng vào mục tiêu chung. Chỉ đạo là chức năng thể hiện năng
lực của người quản lý. Việc chỉ đạo không chỉ bắt đầu sau việc lập kế hoạch
và cơ cấu tổ chức đã hoàn tất, mà nó thấm vào và ảnh hưởng đến hai chức
năng kia.
- Chức năng kiểm tra: Đây là chức năng quan trọng và xuyên suốt quá
trình quản lý. Theo lý thuyết hệ thống, kiểm tra chính là thiết lập mối liên hệ
ngược trong quản lý. Mục đích của kiểm tra nhằm đảm bảo các kế hoạch
thành công, phát hiện kịp thời những sai lệch, tìm nguyên nhân và biện pháp
điều chỉnh các sai lệch nhằm làm cho toàn bộ hệ thống đạt mục tiêu đã định.
Kiểm tra là một quá trình bao gồm các bước: xây dựng các tiêu chuẩn, đo
lường việc thực hiện, đánh giá các tiêu chuẩn so với kế hoạch, điều chỉnh
những sai lệch.
Tất cả các chức năng trên đều cần đến yếu tố thông tin, thông tin đầy
đủ, kịp thời, chính xác là một căn cứ để hoạch định kế hoạch. Thông tin tạo
nên mối quan hệ giữa các bộ phận trong cơ cấu tổ chức. Nó giúp truyền tải
mệnh lệnh chỉ đạo và phản hồi hai chiều trong một tổ chức, giúp người quản
lý thực hiện các chức năng của mình nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức.
1.2.2. Quản lý giáo dục
Đã có nhiều tác giả nghiên cứu về lý thuyết quản lý giáo dục (QLGD)


13
và thực tế cho thấy cũng có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này, có thể
kể đến một số quan điểm chủ yếu sau:

Theo P.V. Khuđôminxki (nhà lý luận của Liên Xô trước đây) thì:
QLGD là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và có mục đích của
chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến các khâu của hệ thống giáo dục
nhằm mục đích bảo đảm việc giáo dục chủ nghĩa cộng sản cho thế hệ trẻ, đảm
bảo phát triển toàn diện và hài hòa cho thế hệ trẻ.
Theo nhà khoa học V.V. Xukhômlinxki cho rằng: QLGD là tác động có
hệ thống, có kế hoạch và có mục đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác
nhau đến tất cả các khâu khác nhau của hệ thống nhằm mục đích đảm bảo
việc giáo dục chủ nghĩa cộng sản cho thế hệ trẻ, đảm bảo sự phát triển toàn
diện, hoàn hảo.
Ở Việt Nam, QLGD cũng là một lĩnh vực được Đảng và Nhà nước đặc
biệt quan tâm. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa VIII khẳng định: "Quản lý giáo dục là sự tác động có ý thức của
chủ thể quản lý tới khách thể quản lý nhằm đưa ra hoạt động sư phạm của hệ
thống giáo dục đạt tới kết quả mong muốn bằng cách hiệu quả nhất". [ 5]
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo: “Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quan
là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công
tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển của xã hội” [ 1]
Quản lý giáo dục là quản lý con người nên đòi hỏi phải tuân theo những
nguyên tắc giáo dục. Nguyên tắc giáo dục là những yêu cầu, những tiêu
chuẩn, những luận điểm cơ bản chỉ đạo việc tổ chức của chủ thể quản lý giáo
dục, các cơ quan quản lý trong ngành giáo dục dù ở cấp nào, dù đảm nhận
chức năng nào đều phải tổ chức và phải hoạt động theo đúng nguyên tắc giáo
dục. Đó là tính khoa học và tính thực tiễn, tập trung và dân chủ, kết hợp nhà
nước và nhân dân.


14
1.2.3. Quản lý nhà trường
Nhà trường là một thể chế xã hội hoàn chỉnh, một cơ quan giáo dục

chuyên biệt thực hiện chức năng giáo dục đào tạo của Nhà nước, của cộng
đồng xã hội, chuẩn bị cho thế hệ trẻ bước vào cuộc sống. Quản lý nhà trường
là một phạm vi cụ thể của quản lý hệ thống giáo dục. Quản lý nhà trường thực
chất là quản lý hoạt động giáo dục trên tất cả các mặt, các khía cạnh liên quan
đến hoạt động giáo dục và đào tạo trong phạm vi một nhà trường.
Về mặt bản chất của công tác quản lý nhà trường là quá trình chỉ huy,
điều kiện vận động của các thành tố và mối quan hệ giữa các thành tố. Mối
quan hệ đó do quá trình sư phạm trong nhà trường quy định, thông qua các
văn bản pháp quy của nhà trường và của ngành.
Công tác quản lý trường học chính là những công việc của nhà trường
mà người CBQL trường học thực hiện những chức năng quản lý theo yêu cầu
và nhiệm vụ quy định. Đó là các hoạt động có ý thức, có kế hoạch và có định
hướng của chủ thể quản lý tác động tới các hoạt động của nhà trường nhằm
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ mà trung tâm đó là hoạt động dạy và học
trong nhà trường. Có thể nói: Công tác quản lý trường học bao gồm việc giải
quyết xử lý các quan hệ nội bộ trong nhà trường và các quan hệ giữa nhà
trường với các lực lượng khác trên địa bàn. Ở góc độ cụ thể thì quản lý trường
học đó là việc người CBQL tổ chức, chỉ đạo và điều hành mọi hoạt động của
nhà trường, trong đó mọi hoạt động đều hướng tới hiệu quả của hoạt động
trung tâm là dạy và học đáp ứng được mục tiêu giáo dục.
QLGD nói chung và quản lý trường học nói riêng là hệ thống những tác
động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho
hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện chính sách
của nhà trường XHCN Việt Nam, mà điểm hội tụ là quá trình dạy học - giáo dục


15
thế hệ trẻ, đưa hệ thống giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về
chất.
Quản lý nhà trường là quản lý giáo dục được thực hiện trong phạm vi

xác định của một đơn vị giáo dục nhà trường nhằm thực hiện nhiệm vụ giáo
dục thế hệ trẻ theo yêu cầu của xã hội.
Tác giả Đặng Quốc Bảo khi nghiên cứu về quản lý nhà trường đã quan
niệm: “Quản lý nhà trường là quản lý một thiết chế vừa có tính sư phạm, vừa
có tính kinh tế, trong đó phải xác định sứ mệnh là đào tạo học sinh trở thành
người lớn có trách nhiệm tự lập với ba giấy thông hành đi vào đời là: giấy
thông hành học vấn, giấy thông hành kỹ thuật nghề nghiệp và giấy thông hành
kinh doanh”.[ 4]
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: "Quản lý nhà trường ở Việt Nam là thực
hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm, đưa nhà
trường vận hành theo nguyên lý giáo dục, để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục
tiêu đào tạo đối với thế hệ trẻ và từng học sinh" [ 10]
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang cũng cho rằng: "Quản lý nhà trường là
tập hợp những tác động tối ưu (cộng tác, tham gia, hỗ trợ, phối hợp, huy
động, can thiệp) của chủ thể quản lý đến tập thể cán bộ giáo viên và học sinh
nhằm tận dụng nguồn lực dự trữ do nhà nước đầu tư, các lực lượng xã hội
đóng góp và do lao động xây dựng vốn tự có, hướng vào việc đẩy mạnh mọi
hoạt động của nhà trường và tiêu điểm hội tụ là đào tạo thế hệ trẻ, thực hiện
có chất lượng mục tiêu và kế hoạch đào tạo đưa nhà trường tiến lên một
trạng thái mới". [ 16]
Trong phạm vị nhà trường, mục tiêu của quản lý bao gồm:
- Đảm bảo kế hoạch giáo dục kế tiếp, tuyển sinh học sinh đúng số
lượng theo kế hoạch giáo dục hàng năm, đúng chất lượng theo quy định của
Bộ GD&ĐT. Duy trì sĩ số và hạn chế tối đa số học sinh lưu ban, bỏ học.


16
- Đảm bảo chất lượng, hiệu quả quá trình dạy học và giáo dục, tiến
hành các hoạt động giáo dục theo đúng chương trình, đảm bảo đạt yêu cầu
của các môn học và hoạt động giáo dục.

- Xây dựng đội ngũ giáo viên của nhà trường đồng bộ, đủ về số lượng và
chất lượng ngày càng cao. Xây dựng đội ngũ nhân viên phục vụ có nghiệp vụ
tương ứng thích hợp, am hiểu về đặc thù giáo dục trong công việc của mình.
- Từng bước hoàn thiện, nâng cao cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương
tiện - kỹ thuật phục vụ tốt các hoạt động dạy học và giáo dục.
- Xây dựng và hoàn thiện môi trường giáo dục lành mạnh thống nhất ở
địa phương.
- Thường xuyên cải tiến công tác quản lý trường học theo tinh thần dân
chủ hóa nhà trường.
Trong lý luận và thực tiễn khẳng định, quản lý nhà trường gồm hai loại:
- Quản lý các chủ thể bên ngoài nhà trường nhằm định hướng và tạo
điều kiện cho nhà trường hoạt động và phát triển.
- Quản lý các chủ thể bên trong nhà trường nhằm cụ thể hóa các chủ
trương đường lối, chính sách giáo dục... thành các kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo,
kiểm tra để đưa nhà trường đạt các mục tiêu đề ra.
Như vậy, ta có thể hiểu quản lý nhà trường chính là những công việc
mà người cán bộ quản lý trường học phải thực hiện những chức năng nhiệm
vụ của mình trong việc lãnh đạo, chỉ đạo nhà trường. Đó chính là những hoạt
động có ý thức, có kế hoạch và hướng đích của chủ thể quản lý tác động tới
các hoạt động của nhà trường nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của
nhà trường đề ra. Quản lý trường MN là quá trình tác động có mục đích, có kế
hoạch của chủ thể quản lý (Hiệu trưởng) đến tập thể cán bộ giáo viên để chính
họ tác động trực tiếp đến quá trình chăm sóc giáo dục trẻ nhằm thực hiện mục
tiêu giáo dục đối với từng độ tuổi và mục tiêu chung của bậc học.


17
1.3. Trường mầm non trong hệ thống giáo dục quốc dân và những
yêu cầu về chương trình giáo dục mầm non mới
1.3.1. Vị trí, mục tiêu, nhiệm vụ và quyền hạn của trường mầm non

* Vị trí của trường mầm non
Trường mầm non là đơn vị cơ sở của GDMN trong hệ thống giáo dục quốc
dân. Trường đảm nhận việc nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em nhằm giúp
trẻ em hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách; chuẩn bị cho trẻ em vào
lớp Một.
* Tính chất trường mầm non:
Nhà trẻ, trường mẫu giáo, trường mầm non nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam có ba tính chất sau đây:
- Chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục nhằm hình thành, phát triển nhân
cách trẻ em một cách toàn diện.
- Chăm sóc, giáo dục trẻ em mang tính chất giáo dục gia đình giữa cô
và trẻ là quan hệ tình cảm mẹ - con, trẻ học bằng chơi, chơi mà học.
- Tổ chức nhà trẻ, trường mẫu giáo, trường mầm non mang tính chất tự
nguyện, nhà nước và nhân dân cùng chăm lo.
* Nhiệm vụ và quyền hạn của trường mầm non:
Trường mầm non có những nhiệm vụ và quyền hạn như sau:
- Tiếp nhận và quản lý trẻ em trong độ tuổi.
- Tổ chức nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em theo chương trình
chăm sóc, giáo dục mầm non do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
- Quản lý giáo viên, nhân viên và trẻ em.


18
- Quản lý, sử dụng đất đai, trường sở, trang thiết bị và tài chính theo
quy địnhcủa pháp luật.
- Chủ động kết hợp với các bậc cha mẹ trong việc nuôi dưỡng, chăm
sóc, giáo dục trẻ em; kết hợp với các ban, ngành, đoàn thể, các tổ chức xã hội
nhằm tuyên truyền, phổ biến những kiến thức về khoa học nuôi dạy trẻ em
cho gia đình và cộng đồng.
- Tổ chức cho giáo viên, nhân viên và trẻ em của trường tham gia các

hoạt động xã hội trong phạm vi cộng đồng.
- Giúp đỡ các cơ sở giáo dục mầm non khác trong địa bàn.
- Thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
1.3.2. Mục tiêu và nội dung của giáo dục bậc học mầm non
* Mục tiêu giáo dục mầm non
Mục tiêu giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát triển hài hòa về thế
chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành các yếu tố đầu tiên của nhân cách,
chuẩn bị cho trẻ vào lớp Một, hình thành và phát triển ở trẻ em những chức
năng tâm sinh lý, năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng, những kỹ năng
sống cần thiết, phù hợp với lứa tuổi, khơi dậy và phát triển tối đa những khả
năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học tập ở các cấp học tiếp theo và cho
việc học tập suốt đời.
* Yêu cầu về nội dung giáo dục mầm non
Nội dung phải đảm bảo tính khoa học, tính vừa sức và nguyên tắc đồng
tâm phát triển từ dễ đến khó, đảm bảo tính liên thông giữa các độ tuổi giữa
nhà trẻ - mẫu giáo và cấp học tiểu học; thống nhất giữa các nội dung giáo dục
với cuộc sống hiện thực, gắn với cuộc sống và kinh nghiệm của trẻ, chuẩn bị
từng bước cho trẻ hòa nhập vào cuộc sống.


19
Nội dung giáo dục mầm non phải phù hợp với sự phát triển tâm sinh lý
của trẻ em, hài hòa giữa nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục, giúp trẻ phát triển
cơ thể cân đối, khỏe mạnh, nhanh nhẹn, cung cấp kỹ năng sống phù hợp với
lứa tuổi, giúp trẻ em biết kính trọng, yêu mến, lễ phép với ông bà, cha mẹ, cô
giáo, yêu quý anh chị, bạn bè, thật thà, mạnh dạn, tự tin và hồn nhiên, yêu
thích cái đẹp, thích đi học.
* Yêu cầu về phương pháp giáo dục mầm non
Đối với giáo dục nhà trẻ: Phương pháp giáo dục phải chú trọng giao
tiếp thường xuyên, thể hiện sự yêu thương và tạo sự gắn bó của người lớn đối

với trẻ, chú ý đặc điểm trẻ để lựa chọn phương pháp giáo dục phù hợp, tạo
cho trẻ cảm giác an toàn về thể chất và tinh thần, tạo điều kiện thuận lợi cho
trẻ được tích cực hoạt động giao lưu cảm xúc, hoạt động và vui chơi với đồ
vật, kích thích sự phát triển giác quan và các chức năng tâm - sinh lý, tạo môi
trường giáo dục gần gũi với khung cảnh gia đình, giúp trẻ thích nghi với nhà
trẻ.
Đối với giáo dục mẫu giáo: Phương pháp giáo dục phải tạo điều kiện
cho trẻ được trải nghiệm, tìm tòi, khám phá môi trường xung quanh dưới nhiều
hình thức đa dạng, đáp ứng nhu cầu, hứng thú của trẻ theo phương châm “Học
bằng chơi, chơi mà học”, chú trọng đổi mới tổ chức môi trường giáo dục nhằm
kích thích và tạo cơ hội cho trẻ tích cực khám phá, trải nghiệm và sáng tạo ở
các khu vực hoạt động một cách vui vẻ. Kết hợp hài hòa giữa giáo dục trẻ trong
nhóm bạn với giáo dục cá nhân, chú ý đặc điểm riêng của từng trẻ để có
phương pháp giáo dục phù hợp. Tổ chức hợp lý các hình thức hoạt động cá
nhân, theo nhóm nhỏ và cả lớp, phù hợp với độ tuổi của nhóm/lớp, với khả
năng của từng trẻ, nhu cầu và hứng thú của trẻ với điều kiện thực tế.


20
* Yêu cầu đánh giá sự phát triển của trẻ
Đánh giá sự phát triển của trẻ (bao gồm đánh giá trẻ hằng ngày và đánh
giá trẻ theo giai đoạn) nhằm theo dõi sự phát triển của trẻ, làm cơ sở cho việc
xây dựng kế hoạch và điều chỉnh kịp thời kế hoạch giáo dục cho phù hợp với
trẻ, với tình hình thực tế ở địa phương. Trong đánh giá phải có sự phối hợp
nhiều phương pháp, hình thức đánh giá, coi trọng đánh giá sự tiến bộ của từng
trẻ, đánh giá trẻ thường xuyên qua quan sát hoạt động hàng ngày.
1.3.3. Chương trình giáo dục mầm non mới ở trường mầm non
1.3.3.1. Khái niệm quản lý Chương trình giáo dục mầm non mới
Chương trình giáo dục:
Chương trình giáo dục là tài liệu để thực hiện mục tiêu giáo dục, quy

định chuẩn kiến thức, kỹ năng, phạm vi và cấu trúc của nội dung giáo dục,
phương pháp và hình thức tổ chức các hoạt động giáo dục, cách thức đánh giá
kết quả giáo dục đối với các môn học ở mỗi lớp, mỗi cấp hoặc trình độ đào
tạo.
Chương trình giáo dục mầm non mới:
Chương trình giáo dục mầm non mới là bản đề cương về kế hoạch hành
động sư phạm bao gồm những thành tố cơ bản cấu thành chương trình liên
quan chặt chẽ và ảnh hưởng lẫn nhau từ mục tiêu giáo dục đến đánh giá kết
quả chăm sóc giáo dục với các điều kiện cần và đủ để thực hiện chương trình.
Chương trình cung cấp những định hướng cho việc chăm sóc - giáo dục trẻ cơ
bản nhất cho giáo viên và những người thực hiện quản lý - chăm sóc giáo dục
trẻ.
Chương trình GDMN mới còn bao gồm cả nhiệm vụ chăm sóc, nuôi
dưỡng và những hoạt động diễn ra trong, ngoài lớp trong suốt thời gian trẻ ở
trường mầm non và sự phối hợp với gia đình trong việc chăm sóc - giáo dục
trẻ.


21
Chương trình GDMN mới vừa mang tính hoạch định theo kế hoạch của
người lớn vừa mang tính tự chọn theo nhu cầu và hứng thú của trẻ.
Chương trình giáo dục nhà trẻ nhằm giúp trẻ từ 3 tháng đến 3 tuổi phát
triển hài hòa về các mặt thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm - xã hội,
thẩm mỹ.
Chương trình giáo dục mẫu giáo nhằm giúp trẻ từ 3 - 6 tuổi phát triển
hài hòa về các mặt thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm, kỹ năng xã hội và
thẩm mỹ, chuẩn bị các điều kiện tốt nhất cho trẻ vào lớp Một.
Quản lý chương trình giáo dục mầm non mới
Quản lý chương trình giáo dục mầm non mới là một trong những nội
dung chủ yếu của hoạt động quản lý trong các trường mầm non. Quản lý

chương trình giáo dục mầm non mới thực chất là thực hiện các chức năng
quản lý như: lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra, đánh giá nhằm đảm
bảo việc thực hiện chương trình chăm sóc - giáo dục trẻ đúng quy định góp
phần vào việc nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường.
Quản lý chương trình giáo dục mầm non mới là nhằm giúp giáo viên
phát huy được tính chủ động, sáng tạo và tiểm năng có thể cống hiến hết mình
cho mục tiêu giáo dục.
Quản lý chương trình giáo dục mầm non mới vừa đáp ứng mục tiêu giáo
dục của Nhà nước, của Bộ, ngành chủ quản, đồng thời vừa đáp ứng yêu cầu
chăm sóc - giáo dục trẻ trước điều kiện thực tiễn của nhà trường, đó là điều
kiện cần thiết cho việc nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường.
Tóm lại: Quản lý chương trình giáo dục mầm non mới là quản lý giáo
viên trong hoạt động chuyên môn nhằm thực hiện đúng yêu cầu về chương
trình chăm sóc - giáo dục trẻ ở trường mầm non dựa trên các tiêu chí về năng
lực chuyên môn, năng lực sư phạm, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp của đội
ngũ giáo viên...


22
1.3.3.2. Những yêu cầu của việc thực hiện chương trình GDMN mới
Thực hiện nhiệm vụ đổi mới nội dung, chương trình GDMN mới được
tiến hành đồng bộ với đổi mới giáo dục phổ thông. Chương trình giáo dục mầm
non mới được xây dựng theo hướng đổi mới tích hợp góp phần nâng cao chất
lượng chăm sóc - giáo dục trẻ toàn diện trong trường mầm non. Kèm theo Quyết
định số 17/2009/QĐ-BGD&ĐT ngày 25/7/2009, Bộ Giáo dục và Đào tạo chính
thức ban hành bộ sách: Hướng dẫn thực hiện Chương trình giáo dục mầm non
mới và được triển khai trên toàn quốc. Bộ sách đưa ra những hướng dẫn cơ bản,
mang tính gợi mở nhằm giúp giáo viên chủ động, sáng tạo trong việc thực hiện
chương trình GDMN được ban hành. Những gợi mở cho các hoạt động cụ thể
trong bộ sách giúp giáo viên có thể linh hoạt lựa chọn những nội dung phù hợp

hoặc có thể thay thế các hoạt động cho phù hợp với từng chủ đề, đặc điểm của
trẻ, điều kiện thực tế của nhà trường và của từng địa phương.
Trong thực hiện chương trình GDMN các nội dung giáo dục được tổ chức
theo hướng tích hợp với các chủ đề thông qua các hoạt động gần gũi, đa dạng và
phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ và điều kiện thực tế của các nhà
trường. Nội dung giáo dục và các hoạt động giáo dục được lựa chọn và thiết kế
xoay quanh các chủ đề sẽ tạo thành sự gắn kết tác động và hỗ trợ cho nhau một
cách tự nhiên. Bên cạnh đó khi tổ chức các hoạt động giáo dục cho trẻ, giáo viên
có thể chủ động kết hợp các nội dung một cách hợp lý để giáo dục nhiều mặt
khác nhau cho trẻ mà không bị gượng ép, cứng nhắc.
Một trong những ưu điểm cơ bản của chương trình GDMN mới là tiếp thu
được những tinh hoa của chương trình GDMN trong và ngoài nước trước đây.
Những tư tưởng cốt lõi của chương trình GDMN mới được thể hiện một cách
nhất quán các quan điểm, các triết lý mới về giáo dục như mục tiêu giáo dục
mầm non trong giai đoạn tới phải làm sao cho trẻ được phát triển toàn diện hài
hòa; tiếp cận hoạt động nhân cách và phát triển; giáo dục hướng vào trẻ, lấy trẻ


23
làm trung tâm theo quan điểm đổi mới phương pháp giáo dục. Như vậy,
chương trình GDMN mới được thiết kế đầy đủ các thành tố của quá trình giáo
dục từ mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục, các hình thức tổ chức hoạt
động đến cách thức đánh giá và các điều kiện thực hiện chương trình một cách
thống nhất, đảm bảo tính khoa học, phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất
nước.
1.4. Nội dung quản lý thực hiện chương trình giáo dục mầm non
mới của Hiệu trưởng trường mầm non
1.4.1. Vai trò, nhiệm vụ của Hiệu trưởng trong quản lý thực hiện
chương trình giáo dục ở trường mầm non
Hiệu trưởng nhà trường, nhà trẻ là người chịu trách nhiệm tổ chức,

quản lý các hoạt động và chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em
của nhà trường, nhà trẻ. Theo Quyết định số 14/2008/BGD&ĐT về việc ban
hành Điều lệ trường mầm non quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Hiệu
trưởng trường mầm non như sau:
Hiệu trưởng nhà trường, nhà trẻ phải đáp ứng các tiêu chuẩn:
- Có trình độ chuẩn được đào tạo là có bằng trung cấp sư phạm mầm
non, có ít nhất 5 năm công tác liên tục trong giáo dục mầm non. Trường hợp
do yêu cầu đặc biệt của công việc, người được bổ nhiệm hoặc công nhận là
Hiệu trưởng có thể có thời gian công tác trong giáo dục mầm non ít hơn theo
quy định;
- Đã hoàn thành chương trình bồi dưỡng cán bộ quản lý (CBQL); có uy
tín về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, chuyên môn, nghiệp vụ; có năng
lực tổ chức, quản lý nhà trường, nhà trẻ và có sức khoẻ.


×