Tải bản đầy đủ (.docx) (83 trang)

Đồ án KTXD PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ CỦA DỰ ÁN ĐẦU TƯ MUA SẮM MẤY MÓC THIẾT BỊ TRONG DOANH NGHIỆP XÂY DỰNG GIAO THÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (336.21 KB, 83 trang )

Mục lục


DANH MỤC BẢNG BIỂU


CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ VÀ ĐẦU
TƯ TRONG DOANH NGHIỆPXÂY DỰNG GIAO THÔNG.
1.1.Cơ sở lý luận chung về đầu tư
1.1.1. Khái niệm chung về đầu tư
1.1.1.1. Khái niệm của đầu tư.
a. Đầu tư
Đầu tư theo nghĩa rộng nhất nó có thể hiểu là một quá trình bỏ vốn ( bao
gồm tiền, nguồn lực, công nghệ) để đạt được mục đích hay tập hợp mục đích
nhất định nào đó. Mục tiêu cần đạt được của đầu tư có thể là mục tiêu chính trị,
văn hóa, kinh tế, xã hội hay cũng có thể là mục tiêu nhân tạo. Hiện nay có rất
nhiều khái niệm về đầu tư và mỗi quan điểm khác nhau, ở mỗi lĩnh vực khác
nhau lại có cách nhìn nhận khác nhau về đầu tư.
Trong hoạt động kinh tế đầu tư được biểu hiện cụ thể hơn mang tính chất
kinh tế hơn. Đó là quá trình bỏ vốn (tiền, nhân lực, nguyên vật liệu, công nghệ)
vào các hoạt động sản xuất kinh doanh và dịch vụ nhằm mục đích thu lợi nhuận.
Đây được coi là bản chất cơ bản của hoạt động đầu tư. Trong hoạt động kinh tế
không có khái niệm hoạt động đầu tư không có lợi nhuận. Như vậy có thể hiểu
đầu tư là đưa một lượng vốn nhất định vào quá trình hoạt động kinh tế nhằm thu
được một lượng lớn sau một khoảng thời gian nhất định.
Các hoạt động đầu tư có thể gọi chung là hoạt động sản xuất kinh doanh
(với hoạt động đầu tư bỏ vốn để nâng cao hiệu quả năng lực sản xuất về cả số
lượng và chất lượng).
Đầu tư có thể được biểu hiện bởi các khái niệm sau:



Theo quan điểm kinh tế: Đầu tư là việc bỏ vốn để tạo nên các tiềm lực và dự trư
cho sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt. Các tài sản cố định được tạo nên trong
quá trình đầu tư này tham gia vào nhiều chu kì sản xuất kế tiếp nhau, có khả
năng tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của một đối tượng nào đó.
3




Theo quan điểm tài chính: đầu tư là một chuỗi hành động chỉ tiêu của chủ đầu tư
và ngược lại chủ đầu tư sẽ nhận được một chuỗi thu tiền để đảm bảo hoàn vốn,

đủ trang trải các chi phí và có lãi.
 Theo góc độ quản lý: Đầu tư là quá trình quản lý tổng hợp kinh doanh, cơ cấu tài
sản nhằm mục đích sinh lời.
Tóm lại: Đầu tư là quá trình bỏ vốn vào hoạt động trong lĩnh vực kinh tế,
xã hội để thu được lợi ích dưới các hình thức khác nhau.
Hoạt động đầu tư thực hiện bằng cách tiến hành xây dựng các tài sản cố
định gọi là đầu tư xây dựng cơ bản. Ở đây xây dựng được coi là phương tiện để
đạt được mục đích đầu tư. Quá trình đầu tư cơ bản là toàn bộ các hoạt động của
chủ đầu tư từ khi bỏ vốn đến khi đưa vào hoạt động các tài sản cố đinh hay nói
cách khác là hoạt động chuyển toàn bộ vố đầu tư dưới dạng tiền tệ sang tài sản
phục vụ mục đích đầu tư. Mục đích của hoạt động xây dựng cơ bản là tạo ra
được các tài sản có năng lực sản xuất hoặc phục vụ phù hợp với mục đích đầu tư.
b. Dự án đầu tư.
Dự án đầu tư là một tập hợp nhưng đề xuất về việc bỏ vốn để tạo mới, mở
rộng hoặc cải tạo nhưng đối tượng nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số
lượng, cải tiến hoặc nâng cao chất lượng của sản phẩm hay dịch vụ nào đó trong
một khoảng thời gian nhất định.
Dự án đầu tư có thể xem xét từ nhiều góc độ:

Về hình thức: dự án đầu tư là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi
tiết và có hệ thống các hoạt động và chi phí theo một kế hoạch để đạt được
nhưng kết quả thực hiện nhất định trong tương lai.
Trên góc độ quản lý: dự án đầu tư là một công cụ quản lý việc sử dụng vốn,
vật tư, lao động để tạo ra các kết quả kinh tế tài chính trong một thời gian dài.
Trên góc độ kế hoạch hóa:dự án đầu tư là một công cụ để thể hiện kế
hoạch chi tiết một công cuộc đầu tư sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế
xã hội, làm tiền đề cho các quyết định đầu tư và tài trợ. Dự án đầu tư là một

4


hoạt động kinh tế riêng biệt, nhỏ nhất trong công tác kế hoạch hóa nền kinh
tế nói chung.
Về nội dung: dự án đầu tư là một tập hợp các hoạt động có liên quan với
nhau được kế hoạch hóa nhằm đạt được các mục tiêu đã định bằng việc tạo ra
các kết quả cụ thể trong một thời gian nhất định, thông qua việc sử dụng các
nguồn lực xác định.
Một dự án đầu tư thường bao gồm 4 thành phần chính:


Mục tiêu của dự án thể hiện ở hai mức: Mục tiêu phát triển là nhưng lợi ích kinh
tế xã hội do thực hiện dự án đem lại và mục tiêu trước mắt là các mục đích cụ

thể cần đạt được của việc thực hiện dự án
 Các kết quả: đó là nhưng kết quả cụ thể, có tính định lượng được tạo ra từ các
hoạt động khác nhau của dự án. Đây là điều kiện cần thiết để thực hiện được các
mục tiêu của dự án.
 Các hoạt động: là nhưng nhiệm vụ hoặc hành động được thực hiện trong dự án
để tạo ra các kết quả nhất định. Nhưng nhiệm vụ hoặc hành động này cùng với

một lịch biểu và trách nhiệm cụ thể của các bộ phận thực hiện sẽ tạo thành kế
hoạch làm việc của dự án.
 Các nguồn lực: về vật chất, tài chính và con người cần thiết để tiến hành các hoạt
động đầu tư của dự án. Giá trị hoặc chi phí của các nguồn lực này chính là vốn
đầu tư cho dự án.
Trong 4 thành phần trên thì các kết quả đạt được coi là cột mốc đánh dấu
tiến độ của dự án. Vì vậy trong quá trình thực hiện dự án phải thường xuyên theo
dõi các đánh giá kết quả đạt được. Nhưng hoạt động nào có liên quan trực tiếp
đối với việc tạo ra các kết quả được coi là hoạt động chủ yếu phải được đặc biệt
quan tâm.
1.1.1.2. Vai trò của đầu tư.
Trong quá trình phát triển của xã hội đòi hỏi phải mở rộng quy mô của sản
xuất nhằm thỏa mãn nhu cầu không ngừng tăng lên về vật chất và tinh thần. Để
đáp ứng được nhu cầu đó thì cơ sở vật chất kỹ thuật của các ngành kinh tế luôn
luôn cần sự bù đắp và hoàn thiện thông qua hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản.
5


Để hoạt động xây dựng cơ bản được diễn ra một cách thuận lợi thì đòi hỏi
việc đầu tư cho máy móc thiết bị phải phù hợp và đầy đủ.
1.1.1.3. Phân loại các hoạt động đầu tư.
Đầu tư có nhiều loại, để thuận tiện cho việc theo dõi, quản lý và đề ra các
biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư, có thể phân loại chúng theo một
số chỉ tiêu, tiêu thức sau:

-

Theo đối tượng đầu tư:
Đầu tư cho các đối tượng vật chất để khai thác cho sản xuất và kinh doanh cũng


như cho các lĩnh vực hoạt động khác
- Đầu tư tài chính (mua cổ phiếu, cho vay)
 Phân loại theo chủ đầu tư:
- Chủ đầu tư là Nhà nước (đầu tư cho các công trình cơ sở hạ tầng kinh tế và xã
-

hội do vốn của Nhà nước).
Chủ đầu tư là các doanh nghiệp (Các doanh nghiệp nhà nước, ngoài nhà nước,

độc lập và liên danh, trong nước và ngoài nước)
- Chủ đầu tư là các cá thể riêng lẻ.
 Phân loại theo nguồn vốn:
- Vốn ngân sách Nhà nước
- Vốn tín dụng do nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
-

nước.
Vốn hỗ trợ và phát triển chính thức (ODA)
Vốn tín dụng thương mại
Vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước.
Vốn hợp tác liên doanh với nước ngoài của các doanh nghiệp nhà nước.
Vốn đóng góp của nhân dân vào các công trình phúc lợi công cộng.
Vốn của các tổ chức ngoài quốc doanh và của dân.
Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài ( FDI)
Các nguồn vốn khác bao gồm cả vốn tư nhân hoặc sử dụng hỗ hợp nhiều nguồn

vốn.
 Phân loại theo cơ cấu đầu tư:
- Đầu tư theo các ngành kinh tế
- Đầu tư theo các vùng lãnh thổ

- Đầu tư theo các thành phần kinh tế
 Phân loại theo góc độ tái sản xuất tài sản cố định:
- Đầu tư mới (xây dựng, mua sắm tài sản cố định loại mới)
- Đầu tư lại (thay thế, cải tạo tài sản cố định hiện có)
 Phân loại theo trình độ kỹ thuật:
- Đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu
6


-

Đầu tư theo tỷ trọng vốn đầu tư cho các thành phần mua sắm thiết bị, xây lắp và

chi phí đầu tư khác.
 Phân loại theo thời đoạn kế hoạch:
- Đầu tư ngắn hạn
- Đầu tư trung hạn
- Đầu tư dài hạn
 Phân loại theo tính chất và quy mô của dự án: Bao gồm dự án quan trọng quốc
gia, các dự án còn lại được phân thành 3 nhóm A, B,C.
Đầu tư ở các doanh nghiệp xây dựng được xem xét theo các khía cạnh
như: theo đối tượng đầu tư, theo góc độ tái sản xuất tài sản cố định, theo nguồn
vốn đầu tư.
1.1.1.4. Mục tiêu của đầu tư.
Đầu tư vào các hoạt động kinh tế xã hội luôn được biểu hiện dưới các mục
tiêu kinh tế xã hội cụ thể. Xác định mục tiêu là nhân tố đảm bảo cho hoạt động đầu
tư có hiệu quả. Tuy nhiên ở mỗi khía cạnh thì quan điểm về hiệu quả lại không
giống nhau. Đối với doanh nghiệp thì hiệu quả là tối đa hóa lợi nhuận còn đối với
nhà nước thì muốn hiệu quả kinh tế phải gắn liền với hiệu quả xã hội. Cụ thể là:


-

Mục tiêu của nhà nước:
Đảm bảo phúc lợi công cộng dài hạn.
Đảm bảo sự phát triển về kỹ thuật, kinh tế trung và dài hạn của Nhà nước.
Đảm bảo cơ cấu phát triển kinh tế qua từng thời kỳ.
Đảm bảo các yêu cầu bảo vệ môi trường, tài nguyên của đất nước
Đảm bảo an ninh quốc phòng.
Đầu tư vào các lĩnh vực mà các doanh nghiệp riêng lẻ, tư nhân không thể đầu tư
do nhu cầu vốn quá lớn, độ rủi ro cao, mà các lĩnh vực này rất cần thiết với sự

-

phát triển chung của nhà nước và hết sức cần thiết đối với cuộc sống con người.
Nâng cao đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần và các lợi ích công cộng như:
phát triển nền giáo dục, tạo viêc làm, phân phối thu nhập.
Tóm lại: Mục tiêu của nhà nước là tăng trưởng kinh tế và thu nhập quốc
dân, mục tiêu phát triển và cải thiện, phân phối thu nhập quốc dân (mục tiêu
công bằng xã hội).


-

Mục tiêu đầu tư của doanh nghiệp
Cực tiểu chi phí và cực đại lợi nhuận
Cực đại số lượng hàng hóa bán ra trên thị trường
7


-


Cực đại giá trị tài sản của các cổ đông tính theo giá thị trường.
Đạt mức độ nhất định về hiệu quả tài chính của dự án
Duy trì sự tồn tại của doanh nghiệp trong cạnh tranh
Nâng cao uy tín, chất lượng sản phẩm để chiếm lĩnh thị trường.
Đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ.
Đầu tư để cải thiện điều kiện lao động của doanh nghiệp.
Đầu tư liên doanh, liên kết, hợp tác với nước ngoài nhằm tranh thủ công nghệ,
mở rộng thị trường.

1.1.2. Các hình thức đầu tư
1.1.2.1. Đầu tư gián tiếp
Là hình thức bỏ vốn vào hoạt động kinh tế nhằm đem lại hiệu quả cao cho
bản thân người có vốn cũng như cho xã hội. Nhưng người bỏ vốn không trực
tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư hay họ không biết đến mục tiêu đầu tư.
Trong đầu tư gián tiếp người bỏ vốn không biết nguồn vốn của mình được
sử dụng như thế nào. Hoạt động đầu tư gián tiếp thường được biểu hiện ở nhiều
hình thức khác nhau như cổ phiếu (nhưng chưa đến mức được tham gia quản lý),
tín phiếu, tín dụng
Đầu tư gián tiếp là một loại hình thức khá phổ biến hiện nay do chủ đầu tư
không đủ điều kiện hoặc khả năng tham gia đầu tư trực tiếp nên họ chọn hình
thức này. Mặt khác hình thức này thường ít rủi ro hơn.
1.1.2.2. Đầu tư trực tiếp
Là loại hình bỏ vốn đầu tư mà người có vốn tham gia trực tiếp vào hoạt
động và quản lý hoạt động đầu tư. Họ biết được mục tiêu cũng như phương thức
hoạt động kinh tế nguồn vốn họ bỏ ra. Hình thức đầu tư trực tiếp thường được
biểu hiện dưới hình thức sau: mua cổ phần, tham gia liên doanh.
Đầu tư trực tiếp có hai nhóm: đầu tư chuyển dịch và đầu tư phát triển.



Đầu tư chuyển dich: có nghĩa là sự chuyển dịch vốn đầu tư từ người này sang
người khác theo cơ chế thị trường của tài sản được chuyển dịch. Hay chính là
việc mua lại cổ phần của doanh nghiệp, xí nghiệp hay một công ty nào đó. Việc
chuyển dịch này không làm ảnh hưởng đến nguồn vốn của doanh nghiệp nhưng

8


có thể tạo ra được năng lực quản lý, sản xuất mới. Việc cổ phần hóa các doanh
nghiệp Nhà nước hiện nay là một hình thức đầu tư chuyển dịch.
 Đầu tư phát triển: là hình thức đầu tư quan trọng và chủ yếu. Người có vốn (cá
nhân, tập thể, nhà nước) gắn liền với hoạt động kinh tế của đầu tư. Hoạt động đầu
tư theo hình thức này nhằm nâng cao năng lực sản xuất của các cơ sở sản xuất hiện
có theo hướng số lượng và theo chất lượng nhằm tạo ra năng lực sản xuất mới.
Đây chính là hình thức tái sản xuất mở rộng và cũng như hình thức đầu tư quan
trọng tạo ra việc làm mới, sản phẩm mới và thúc đẩy kinh tế phát triển.
Các hình thức đầu tư có mối quan hệ qua lại với nhau. Đầu tư tài chính,
đầu tư gián tiếp và đầu tư chuyển dịch không tự nó vận động và tồn tại nếu
không có đầu tư phát triển. Còn đầu tư phát triển chỉ có thể đạt được quy mô lớn
nếu có sự tham gia của các hình thức đầu tư khác.
Ngày nay chính phủ không quy định và áp đặt bất kỳ một hình thức đầu tư
nào với mọi loại hình kinh tế. Nhưng phải có sự tham gia của nhà nước để đảm
bảo cho thị trường đầu tư phát triển phải phù hợp với sự tăng trưởng kinh tế.

1.1.3. Đối tượng tham gia dự án đầu tư
Đối tượng tham gia dự án đầu tư gồm:


Chủ đầu tư: là đối tượng tham gia thực hiện đầu tư, là chủ thể quan trọng nhất
đóng vai trò quyết định mọi vấn đề của đầu tư. Chủ đầu tư là người sở hưu vốn,

có thể là một tổ chức hoặc cá nhân, có thể bỏ một phần hay toàn bộ vốn và chịu
trách nhiệm thực hiện quá trình đầu tư theo đúng quy định của pháp luật. Nếu
vốn đầu tư của dự án chủ yếu thuộc sở hưu Nhà nước thì chủ đầu tư là người
được cung cấp quyết định đầu tư chỉ định ngay từ khi lập dự án đầu tư và giao
trách nhiệm trực tiếp quản lý sử dụng vốn. Chủ đầu tư có thể ủy nhiệm cho một





chủ nhiệm điều hành dự án thay mặt để thực hiện dự án.
Nhà thầu cung cấp máy móc thiết bị.
Tư vấn.
Quần chúng sử dụng dự án.

1.2. Đặc điểm, ý nghĩa và các giai đoạn đầu tư mua sắm MMTB trong
DNXD
9


1.2.1.Đặc điểm đầu tư của DNXD
Kế hoạch đầu tư ở các doanh nghiệp xây dựng thể hiện bằng các dự án
đầu tư. Do đặc điểm của sản xuất xây dựng nên đầu tư của các doanh nghiệp xây
dựng có các đặc điểm sau:
a.

Các trường hợp đầu tư của doanh nghiệp xây dựng thường được gắn liền

với các giai đoạn thời gian khác nhau như:
 Khi doanh nghiệp chưa có đối tượng xây dựng, chưa hướng vào một hợp đồng

xây dựng cụ thể.
 Khi doanh nghiệp tham gia đấu thầu, đã có định hướng cụ thể vào một đối tượng
xây dựng.
 Khi doanh nghiệp xây dựng đã thắng thầu, có hợp đồng xây dựng cụ thể.
b. Sản phẩm của dự án đầu tư sản xuất thi công xây lắp của các doanh
nghiệp xây dựng (các công trình xây dựng, hạng mục công trình xây dựng, các
khối lượng công việc xây dựng) là do chủ đầu tư (khách hàng) định trước cho
từng trường hợp cụ thể. Do đó khi lập dự án đầu tư thì các sản phẩm này chỉ do
dự án chủ quan của doanh nghiệp xây dựng mà có.
c. Thị trường của dự án đầu tư của doanh nghiệp xây dựng là nhu cầu đầu
tư của các chủ đầu tư, các thị trường cung cấp thiết bị và vật tư xây dựng cũng
như các dịch vụ khác cho tổ chức xây dựng.
d. Khi đầu tư mua sắm máy móc thiết bị, cần chú ý đến tính chất di động
từ công trường này sang công trường khác để thực hiện các nhiệm vụ xây dựng.
Việc tính đến các khoảng cách di chuyển của máy đến các công trường và khối
lượng công tác là các nhân tố ảnh hưởng lớn đến tính hiệu quả của dự án đầu tư.
Mặt khác việc tính toán dựa trên cơ sở dự toán hai yếu tố này làm cho dự án có
tính phỏng định cao.
e. Việc lập dự án đầu tư để thực hiện xây dựng cho một công trình sau khi
thắng thầu có một vai trò quan trọng trong kinh doanh xây dựng. Mà ở đây chủ
yếu là dự án đầu tư mua sắm và trang bị máy xây dựng. Có thể có nhưng trường
hợp sau:


Đầu tư mua sắm các máy móc riêng lẻ.
10







Đầu tư mua sắm tập hợp máy xây dựng.
So sánh phương án tự mua sắm máy và đi thuê máy.
Đầu tư mua sắm máy xây dựng để chuyên cho thuê.

1.2.2. Ý nghĩa của việc đầu tư mua sắm MMTB
Một đặc điểm của kinh tế thị trường trong xây dựng là khả năng tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp xây dựng phụ thuộc rất chặt chẽ vào khả năng thắng
thầu. Nếu doanh nghiệp xây dựng mua sắm quá nhiều máy móc xây dựng sẽ có
thể gặp phải nguy cơ các máy móc đứng không do không kiếm được hợp đồng
xây dựng. Do đó vấn đề mua sắm máy móc để trang bị cho doanh nghiệp xây
dựng phải được xem xét cho hai trường hợp được thực hiện ở hai giai đoạn thời
gian khác nhau:


Khi doanh nghiệp xây dựng chưa có đối tượng hợp đồng xây dựng cụ thể để thực

hiện.
 Khi doanh nghiệp xây dựng đã thắng thầu và có hợp đồng nhiệm vụ xây dựng cụ
thể.
Việc lập phương án mua sắm và trang bị máy xây dựng ở trường hợp thứ
nhất chỉ có thể thực hiên bằng cách lập các dự án đầu tư mua sắm máy móc xây
dựng dựa trên cơ sở dự báo nhu cầu của thị trường xây dựng với một mức độ rủi
ro nhất định.
Việc lập phương án trang bị máy xây dựng cho trường hợp thứ hai phải
dựa trên kết quả mua sắm máy của giai đoạn thứ nhất, nhưng phải kết hợp các
máy lại với nhau theo từng công trường xây dựng cụ thể và cho từng năm niên
lịch nhất định.
Từ đó ta thấy việc lập dự án đầu tư mua sắm máy xây dựng ở giai đoạn

thứ nhất tuy chưa có tính xác định cao nhưng vô cùng quan trọng, vì nó quyết
định việc lập phương án trang bị máy xây dựng ở giai đoạn hai.

1.2.3. Các giai đoạn của quá trình đầu tư mua sắm MMTB
11


1.2.3.1. Quá trình chuẩn bị
Bao gồm các công việc:


Điều tra nhu cầu của thị trường xây dựng về mọi mặt, điều tra thị trường cung
cấp máy xây dựng (bao gồm cả thị trường cho thuê máy xây dựng), khả năng

cung cấp vốn và các thuận lợi cũng như khó khăn trong dự án.
• Xây dựng chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp xây dựng, nhất là các vấn đề
có liên quan đến máy móc xây dựng.
• Lập dự án đầu tư mua sắm máy móc xây dựng (chỉ đối với các máy móc quá phức
tạp và có nhu cầu vốn đầu tư lớn phải qua bước lập dự án tiền khả thi)
1.2.3.2. Quá trình thực hiện mua sắm máy móc để thực hiện dự án
đầu tư
Bao gồm các công việc:


Ký kết hợp đồng mua sắm máy xây dựng với nơi cung cấp máy xây dựng. Với
các máy móc xây dựng phức tạp có thể áp dụng phương thức đấu thầu cung cấp

máy.
• Tiến hành nhận máy, vận chuyển về nơi sử dụng, kể cả việc lắp đặt và chạy thử
nếu có.

• Xây dựng các cơ sở vật chất để cất giư và bảo quản máy.
• Thiết lập tổ công nhân vận hành, bao gồm cả công việc đào tạo thợ và chuyển
giao công nghệ nếu cần.
• Xác định một số vốn lưu động cần thiết cho khâu vận hành máy (nhất là dự trư
chi tiết máy và nhiên liệu).
1.2.3.3. Quá trình vận hành và sử dụng máy
Bao gồm các công việc:


Quyết định sử dụng máy cho các công việc xây dựng cụ thể ở các công trường

máy móc một cách hợp lý.
• Tiến hành bảo dưỡng và lập kế hoạch sưa chưa máy một cách hợp lý.
• Tiến hành kiểm tra sự phù hợp giưa hiệu quả ở giai đoạn sử dụng máy cụ thể với
hiệu quả tính toán khi lập dự án đầu tư mua sắm máy ban đầu.
Ở đây cần nhận xét rằng ở giai đoạn lập dự án đầu tư mua sắm máy móc
ban đầu có nhiều điều kiện sử dụng máy cụ thể chưa biết nhất là các điều kiện về
12


quy mô khối lượng công việc được giao ở từng công trường, độ xa chuyên chở
máy đến công trường lúc ban đầu, nhu cầu về công trình tạm phục vụ máy), mà
việc có tính đến toàn trái ngược nhau. Do vậy việc kiểm tra lại hiệu quả khi lập
dự án đầu tư ban đầu là rất cần thiết.

1.3. Nội dung của DAĐT
1.3.1. Xác định sự cần thiết phải đầu tư
1.3.1.1. Xác định nhu cầu của thị trường có liên quan đến máy xây dựng

-


Nhu cầu thị trường xây dựng bao gồm:
Khối lượng đầu tư và xây dựng trong thời gian tới của các chủ đầu tư ở mọi lĩnh

-

vực và khu vực địa lý.
Các loại vật liệu xây dựng, kiểu nhà, công nghệ xây dựng có liên quan đến loại

-

máy đang định mua sắm.
Trình độ tập trung hóa và chuyên môn hóa của ngành xây dựng, nhất là quy mô

-

công trường và độ xa chuyên chở máy đến công trường.
Tình hình cạnh tranh giưa các doanh nghiệp xây dựng.
Số máy xây dựng định mua sắm còn thiếu trên thị trường, nếu ký hiệu chỉ tiêu
này là ta có:
= -(+ )+
Trong đó:
: số máy hiện đang xét cần có trong thị trường xây dựng theo xây dựng
máy móc có cho kỳ đang xét
: số máy hiện có trên thị trường xây dựng.
: số máy do các chủ thầu xây dựng nước ngoài nhập vào Việt Nam cho

kỳ đang xét.
: số máy cũ có thể bị đào thải dự báo ở kỳ đang xét.
 Khả năng cung cấp máy xây dựng của thị trường máy xây dựng bao gồm:

- Các nguồn cung cấp, mẫu mã máy.
- Trình độ kỹ thuật, đặc tính sử dụng và hiệu quả kinh tế, giá cả của các loại máy
-

đang cần mua.
Điều kiện mua bán và thanh toán.
1.3.1.2. Nhiệm vụ sản xuất-kinh doanh và khả năng của doanh nghiệp xây
dựng
Bao gồm các vấn đề như:

-

Khả năng thắng thầu và nhiệm vụ xây dựng của doanh nghiệp theo dự báo.
13


-

Chiến lược sản xuất- kinh doanh của doanh nghiệp xây dựng, nhất là vấn đề tăng
cường khả năng thắng thầu, phương hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa của

-

doanh nghiệp xây dựng.
Khả năng đáp ứng của doanh nghiệp về vốn, về trình độ công nhân vận hành
máy.
1.3.1.3. Các điều kiện thuận lợi và khó khăn
Bao gồm các vấn đề như:

-


Cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ máy hoạt động (đường giao thông, điện, chất đốt,

-

cơ sở sửa chưa, khả năng cung cấp phụ tùng thay thế,…)
Các điều kiện tự nhiên về thời tiết và khí hậu (nhất là khí hậu nhiệt đới), về địa
chất công trình, địa chất thủy văn, nhất là ở các công trường xây dựng dự kiến

-

cho máy thực hiện.
Các điều kiện về nguyên vật liệu xây dựng có liên quan đến xây dựng phải vận
chuyển và chế biến.

1.3.2. So sánh lựa chọn phương án mua máy.
Lựa chọn hình thức kinh doanh như hình thức vay vốn tiến hành liên
doanh để mua máy.




So sánh giưa phương án tự mua sắm và đi thuê máy
So sánh khả năng cải tạo máy hiện có (nếu có) với phương án mua sắm mới.
So sánh phương án mua sắm máy để tự làm công việc xây dựng hay đem máy

cho thuê, hay kết hợp cả hai khả năng
 So sánh giưa phương án mua máy nội địa hay nhập khẩu máy.

1.3.3. Lựa chọn loại máy đầu tư

1.3.3.1. Xác định công suất của máy
Căn cứ để xác định công suất của máy là: khối kượng công việc hàng năm
dự định phải thực hiện, khả năng cung cấp máy móc phù hợp với công suất định
chọn, khả năng về vốn của doanh nghiệp, tính toán hiệu quả kinh tế, trình độ tập
trung và quy mô của các công trường, độ xa chuyên chở máy đến các công
trường lúc ban đầu (nếu độ xa chuyên chở máy lớn, quy mô công trường nhỏ và
phân tán trên lãnh thổ thì máy có công suất lớn sẽ không có lợi).
14


Các loại công suất phải dự kiến: công suất thiết kế, công suất tính toán
cho dự án (có tính đến một độ an toàn nhất định), công suất tối thiểu đảm bảo
sản lượng hòa vốn và an toàn tài chính cho các năm sử dụng máy.
1.3.3.2. Xác định phương án sản phẩm của máy
Lựa chọn máy đa năng (thực hiện nhiều sản phẩm) hay máy chuyên dùng
(một sản phẩm)
Khả năng thực hiện các loại công việc xây dựng với một chất lượng sản
phẩm cho phép.
Công dụng của máy.
1.3.3.3. Xác định giải pháp kỹ thuật và công nghệ cho máy
Xác định trình độ kỹ thuật hiện đại của máy phù hợp.
Lựa chọn nguyên lý tác động kỹ thuật của máy (nguyên lý tĩnh hay chấn
động cơ cấu thủy lực hay cơ cấu cơ học bình thường, cơ cấu di chuyển bánh xích
hay bánh hơi, loại chất đốt, hoạt động liên tục hay chu kỳ)
Xác định công nghệ cho máy, bao gồm phần cứng (máy móc) và phần
mềm (con người với kỹ năng nhất định, thông tin và tổ chức thi công)
Xác định một số chỉ tiêu cơ bản như: mức độ tự động hóa, độ dài chu kỳ
công nghệ, hệ số sử dụng nguyên liệu xuất phát, thế hệ kỹ thuật, độ linh hoạt,
mức độ phế phẩm, an toàn và cải thiện lao động, bảo vệ môi trường, mức nhiệt
đới hóa, độ bền chắc và tin cậy.

Xác định nhu cầu về các máy móc và thiết bị phục vụ kèm theo khi tháo
lắp và chuyên chở.

CHƯƠNG II: PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ CỦA
DỰ ÁN ĐẦU TƯ TRONG DOANH NGHIỆP
15


XÂY DỰNG GIAO THÔNG.
2.1. Khái quát chung về phân tích đánh giá DAĐT
2.1.1. Khái niệm và mục đích phân tích đánh giá DAĐT
2.1.1.1. Khái niệm
Phân tích đánh giá dự án đầu tư là việc tổ chức xem xét một cách khách
quan, có khoa học và toàn diện các nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp tới tính
khả thi của một dự án, đề ra các quyết định đầu tư và cho phép đầu tư.
2.1.1.2. Mục đích
-

Giúp cho chủ đầu tư lựa chọn phương án tốt nhất để đầu tư.

-

Giúp cho các cơ quan hưu quan của nhà nước đánh giá được tính phù hợp của dự
án đối với quy hoạch phát triển chung của ngành, địa phương và của cả nước
trên các mặt, các mục tiêu, quy mô, quy hoạch và hiệu quả.

-

Thông qua đánh giá, nhà đầu tư xác định chính xác về cho vay hoặc tài trợ cho
các dự án đầu tư.


2.1.2. Khái niệm và phân loại hiệu quả DAĐT
2.1.2.1. Khái niệm
Hiệu quả dự án đầu tư là toàn bộ mục tiêu đề ra của dự án, được đặc trưng
bởi các chỉ tiêu định tính thể hiện ở các loại hiệu quả đạt được) và bằng các chỉ
tiêu định lượng (thể hiện quan hệ giưa chi phí bỏ ra của dự án và các kết quả đạt
được theo mục tiêu của dự án).
2.1.2.2. Phân loại hiệu quả của dự án
a. Phân loại về mặt định tính
Hiệu quả về mặt định tính chỉ rõ nó thuộc loại hiệu quả gì với nhưng tính
chất kèm theo nhất định. Theo quan điểm này hiệu quả của dự án đầu tư được
phân loại như sau:


Theo lĩnh vực hoạt động của xã hội hiệu quả có thể phân thành:

16


-

Hiệu quả kinh tế (với cấp doanh nghiệp thường gọi là hiệu quả tài chính), ví dụ
như tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp, tăng mức thu ngân sách cho nhà nước, đẩy
mạnh tốc độ phát triển kinh tế quốc dân.

-

Hiệu quả kỹ thuật: ví dụ việc đầu tư xây dựng để sản xuất các thiết bị tin học sẽ
góp phần đẩy mạnh tiến độ khoa học và công nghệ cho các ngành kinh tế quốc
dân khác.


-

Hiệu quả xã hội: ví dụ dự án đầu tư có thể góp phần nâng cao mức sống của
nhân dân, giải quyết nạn thất nghiệp, tăng cường giáo dục và y tế bảo vệ môi
trường….

-

Hiệu quả quốc phòng: ví dụ các dự án đầu tư thuộc lĩnh vực quốc phòng, hoặc
các dự án đầu tư vừa có thể phục vụ phát triển kinh tế trong thời bình, vừa có thể
sử dụng trong thời chiến.

-

Riêng hiệu quả kinh tế có thể nhận trực tiếp từ dự án đem lại nhưng cũng có thể
do hiệu quả xã hội đem lại (ví dụ như một dự án đầu tư để nâng cao sức khỏe
cho người lao động cũng có thể góp phần làm tăng năng suất lao động cho xã
hội).



Theo quan điểm lợi ích hiệu quả được phân thành;

-

Hiệu quả của doanh nghiệp

-


Hiệu quả đem lại cho Nhà nước và cộng đồng.



Theo phạm vi tác động, hiệu quả được phân thành:

-

Hiệu quả toàn cục, thể hiện lợi ích chung của một quốc gia, cộng đồng nào đó.
Nếu xét theo góc độ doanh nghiệp thì đó là hiệu quả của toàn doanh nghiệp.

-

Hiệu quả toàn cục và hiệu quả bộ phận có thể thống nhất với nhau nhưng cũng
có thể mấu thuẫn với nhau. Do vậy cần có sự quản lý của Nhà nước để điều hòa
mâu thuẫn này.



Theo phạm vi thời gian hiệu quả được phân thành:

-

Hiệu quả trước mắt và ngắn hạn, thể hiện sự đáp ứng lợi ích trước mắt của toàn
doanh nghiệp và cộng đồng. Hiệu quả này thường do các đầu tư ngắn hạn thực
hiện.
17


-


Hiệu quả lâu dài thể hiện sự đáp ứng lợi ích lâu dài và cho tương lai của quốc gia
của cộng đồng và của doanh nghiệp. Các dự án dài hạn thường đáp ứng các yêu
cầu này và thường là các dự án có trình độ khoa học-công nghệ cao của các
doanh nghiệp, các dự án đầu tư cho nghiên cứu khoa học-công nghệ đón đầu, các
dự án về đầu tư về giáo dục và đào tạo.



Theo mức độ phát sinh trực tiếp hay gián tiếp, hiệu quả có thể phân thành:

-

Hiệu quả phát sinh trực tiếp từ dự án đầu tư, ví dụ các hiệu quả về tăng lợi
nhuận, tăng sức đóng góp cho ngân sách Nhà nước, giải quyết việc làm cho
người lao động đem lại…

-

Hiệu quả phát sinh gián tiếp kéo theo ở các lĩnh vực lân cận đối với dự án đem
lại. Ví dụ dự án đầu tư cho thủy điện, ngoài hiệu quả kinh tế thu được trực tiếp từ
ngành điện đem lại còn thu được nhiều hiệu quả của các ngành khác như công
nghiệp, nông nghiệp, thủy sản và cho dân chúng…
b. Phân loại hiệu quả về mặt định lượng.
Hiệu quả về mặt định lượng chỉ rõ độ lớn của mỗi chỉ tiêu hiệu quả định
tính. Theo quan điểm này hiệu quả được phân loại như sau:



Theo cách tính toán hiệu quả được phân thành:


-

Hiệu quả được tính theo số tuyệt đối, ví dụ tổng hợp lợi nhuận thu được của dự
án, tổng mức đóng góp cho ngân sách Nhà nước hàng năm của dự án.

-

Hiệu quả được tính theo số tương đối, ví dụ mức doanh lợi của 1 đồng vốn đầu
tư, mức đóng góp cho ngân sách nhà nước tính cho một đồng vốn đầu tư, tỷ số
giưa lợi ích và chi phí, suất thu lợi nội tại…



Theo thời gian tính toán hiệu quả được phân thành:

-

Hiệu quả chưa đạt yêu cầu, khi trị số của hiệu quả của dự án được tính ra nhỏ
hơn một trị số hiệu quả định mức (hay còn gọi là ngưỡng hiệu quả). Trong
trường hợp này người ta còn gọi là phương án không đạt hiệu quả, không đáng
giá.

18


-

Hiệu quả đạt mức yêu cầu, khi trị số hiệu quả tính ra lớn hơn một trị số hiệu quả
định mức lớn hơn cho phép. Trong trường hợp này người ta gọi là phương án

đáng giá hay đạt hiệu quả.

-

Hiệu quả đạt trị số lớn nhất, khi trị số của nó lớn nhất trong các phương án được
so sánh. Hiệu quả lớn nhất có thể đáng giá hay không đáng giá.

-

Hiệu quả đạt trị số nhỏ nhất (có thể đáng giá hay không đáng giá).



Theo khả năng có thể tính toán thành số lượng có thể phân ra:

-

Hiệu quả có thể định lượng được như lợi nhuận, mức đóng góp cho ngân sách…

-

Hiệu quả khó tính toán biểu hiện thành số lượng, ví dụ hiệu quả xã hội về thẩm
mỹ của các công trình xây dựng của các dự án đầu tư, một số hiệu quả đầu tư
cho y tế, giáo dục.

2.1.3. Các quy định khi tính toán đánh giá phương án đầu tư
2.1.3.1. Các bước tính toán so sánh phương án.
Tính toán so sánh các phương án đầu tư phải được tiến hành ở bước
nghiên cứu khả thi và nghiên cứu tiền khả thi.
Ở bước nghiên cứu tiền khả thi các bước tính toán thường đơn giản và các

chỉ tiêu tính toán thường tính cho một năm đại diện. Ở bước nghiên cứu khả thi
việc tính toán so sánh các phương án thường theo trìnhh tự sau:
-

Xác định số lượng các phương án có thể đưa vào so sánh.

-

Xác định thời kỳ tính toán của phương án đầu tư.

-

Tính toán các chỉ tiêu thu, chi và hiệu số thu chi của dòng tiền tệ của phương án
qua các năm.

-

Xác định giá trị tương đương của tiền tệ theo thời gian.

-

Lựa chọn loại chỉ tiêu được dùng làm chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp.

-

Xác định hiệu quả hay tính đáng giá của các phương án được đem vào so sánh.

-

So sánh các phương án theo chỉ tiêu hiệu quả đó được lựa chọn.


-

Phân tích độ nhạy, độ an toàn và mức tin cậy của dự án.

19


-

Lựa chọn phương án tốt nhất có tính đến độ an toàn và tin cậy của kết quả tính
toán.
2.1.3.2. Phương án loại trừ nhau và phương án độc lập
a. Phương án loại trừ nhau.
Các phương án loại trừ nhau là các phương án, mà một khi ta đó chọn
trong đó một phương án nào đó thì các phương án còn lại phải bỏ đi.
Các phương án loại trừ nhau thường là các phương án có cùng một loại
sản phẩm; ví dụ các phương án đầu tư đều là để sản xuất ra máy thu hình, hoặc
các phương án đầu tư cho nhà máy điện.
Theo nghĩa rộng một phương án đầu tư có thể chỉ bao gồm một dự án
riêng lẻ (một cơ hội đầu tư) hoặc nhiều dự án riêng lẻ (nhiều cơ hội đầu tư). Nếu
có n dự án đầu tư riêng lẻ thì có thể lập thành 2n phương án đầu tư (kể cả
phương án không đầu tư). Tuy nhiên không nhất thiết là tất cả 2n phương án đầu
tư đều là loại trừ nhau.
b. Phương án độc lập
Phương án độc lập là phương án mà việc lựa chọn nó không dẫn đến việc
phải loại trừ các phương án khác.
Khi so sánh các phương án ta phải trải qua hai bước: xét sự đáng giá của
mỗi phương án và lựa chọn phương án đáng giá nhất trong các phương án đáng
giá. Ở bước thứ nhất các phương án còn lại mang tính chất độc lập, vì việc lựa

chọn một phương án nào đó có thể đưa vào so sánh không loại trừ việc lựa chọn
các phương án khác vào so sánh.
Phương án độc lập thường xảy ra khi sự so sánh phương án chỉ có thể có
tác dụng lựa chọn thứ tự ưu tiên thực hiện phương án trong trường hợp thiếu vốn
hay so sánh hiệu quả nào đó, nhất là khi so sánh các phương án đầu tư vào sản
xuất các loại sản phẩm khác nhau, mà các sản phẩm này đều cần thiết cho thị
trường nhưng với các mức độ hiệu quả khác nhau cho nhà sản xuất. Ví dụ: một
doanh nghiệp muốn đầu tư vào sản xuất hai loại sản phẩm khác nhau với mức
doanh lợi khác nhau, trong đó nếu dồn vốn vào một loại sản phẩm với mức
20


doanh lợi cao hơn sẽ có nguy cơ bị thừa ế do thị trường sẽ có nhiều loại sản
phẩm đó. Khi đó doanh ngiệp có thể tiến hành so sánh hai phương án đầu tư vào
hai loại sản phẩm khác nhau để xác định thứ tự ưu tiên về quy mô bỏ vốn và thời
gian thực hiện, trong đó lựa chọn một phương án để đầu tư trước không dẫn đến
việc loại bỏ phương án còn lại.
2.1.3.3. Xác định thời kỳ tính toán để so sánh phương án đầu tư.
a. Khái niệm
Khái niệm tính toán (còn gọi là dòng đời, tuổi thọ, thời kỳ tồn tại) của một
dự án đầu tư riêng lẻ là khoảng thời gian bị giới hạn bằng thời điểm khởi đầu và
thời điểm kết thúc của dòng tiền của toàn bộ dự án. Thời điểm khởi đầu thường
được đặc trưng bằng một khoản chi ban đầu và thời điểm kết thúc được đặc
trưng bằng một khoản thu từ giá trị thu hồi do thanh lý tài sản cố định và khoản
thu vốn lưu động đó bỏ ra ban đầu.
b. Các nhân tố ảnh hưởng đến thời kì tính toán
-

Ý đồ chiến lược kinh doanh của chủ đầu tư xuất phát từ hiệu quả tài chính đã


-

tính toán ra của dự án.
Thời hạn khấu hao tài sản cố định do cơ quan tài chính quy định.
Nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước (đối với các công

-

trình do Nhà nước bỏ vốn).
Tuổi thọ của các giải pháp kỹ thuật (nhà xưởng, máy móc) của các dự án đầu tư

-

áp dụng và tốc độ phát triển khoa học kỹ thuật.
Trư lượng tài nguyên mà dự án định khai thác (ví dụ mỏ dầu, mỏ đá)
Quy định pháp lý do Luật đầu tư quy định.
2.1.3.4. Một số nguyên tắc chủ yếu của phương án phân tích đánh giá dự án đầu tư.
a. Kết hợp phân tích định tính dựa trên phân tích và sử dụng các lý luận và
kinh nghiệm đó đúc kết, chưa đi sâu vào các tính toán định lượng. Phương pháp
này có ưu điểm:

-

Ngay từ đầu khi chưa có các tính toán tốn kém đã có thể xác định được tính chất
và định hướng của dự án.

21


-


Không phải tất cả các vấn đề kinh tế xã hội đều có thể tính toán thành số lượng
cụ thể được và các tính toán định lượng thường là rất tốn kém, cho nên phải dựa
vào phân tích định tính.
Tuy nhiên nếu chỉ dựa vào phân tích định tính thì các cơ sở khoa học của
quyết định chưa được toàn vẹn và chưa đảm bảo.

-

Trong nhiều trường hợp với tổng số nguồn lực như nhau, nhờ các phương pháp
tính toán phân tích định lượng sẽ giúp chúng ta tìm được phương án có hiệu quả

-

lớn nhất.
Các kết quả tính toán định lượng có khi làm thay đổi hẳn chủ trương đầu tư ban
đầu, ví dụ như tính toán định lượng phát hiện ra rằng với chủ trương ban đầu là
quá tốn kém vượt quá thực lực của chủ đầu tư.
Tuy nhiên việc tính toán định lượng đòi hỏi phải có các số liệu gốc đảm
bảo chính xác để tính toán ban đầu, nếu không đảm bảo yêu cầu này thì phương
pháp tính toán dù chính xác đến mấy vẫn không có ý nghĩa thậm chí còn có thể
gây nên nhưng tác động nguy hiểm.
b. Kết hợp các chỉ tiêu hiệu quả tính theo số tuyệt đối với các chỉ tiêu hiệu
quả tính theo số tương đối.
Nguyên tắc để lựa chọn phương án cuối cùng dựa trên việc kết hợp hai chỉ
tiêu hiệu quả tính theo số tuyệt đối và tính theo số tương đối là: phải ưu tiên lựa
chọn phương án có chỉ tiêu hiệu quả tính theo số tuyệt đối (như chỉ tiêu tổng lợi
nhuận, hiện giá của hiệu số thu chi NPW) là lớn nhất, còn chỉ tiêu hiệu qua tính
theo số tương đối (như chỉ tiêu tỉ suất lợi nhuận, suất thu lợi nội tại IRR) chỉ cần
ngưỡng đạt hiệu quả quy định (chỉ tiêu hiệu quả tính theo số lượng tương đối

cũng lớn nhất càng tốt). Không bao giờ được phép sử dụng một trong hai chỉ tiêu
trên một cách riêng rẽ để lựa chọn phương án.
c. Kết hợp các chỉ tiêu về lợi nhuận và các chỉ tiêu về an toàn.

-

Các chỉ tiêu về lợi nhuận như: tổng lợi nhuận thu được hàng năm, tỷ suất lợi

-

nhuận hiện giá của hiệu số thu chi (NPW), suất thu lợi nội tại (IRR).
Các chỉ tiêu về an toàn như: thời hạn thu hồi vốn đầu tư, điều hòa vốn, khả năng
trả nợ.
22


-

Không được sử dụng một trong hai chỉ tiêu trên một cách riêng rẽ để lựa chọn
phương án, vì chỉ có kết hợp hai chỉ tiêu lợi nhuận và an toàn mới đảm bảo được
tính phát triển bền vưng của kinh doanh.
d. Phải tôn trọng nguyên tắc so sánh hai bước.

-

Ở bước thứ nhất phải xét sự đáng giá của các phương án, tức là hiệu quả của

-

phương án phải đảm bảo một ngưỡng hiệu quả cho phép.

Ở bước thứ hai, phải chọn lấy trong số các phương án đáng giá một phương án
có hiệu quả lớn nhất.
Như vậy phương án được chọn không phải là phương án có hiệu quả lớn
nhất mà còn là phương án có hiệu quả đạt mức yêu cầu.
e. Phải đảm bảo tính có thể so sánh được của các phương án.
Các điều kiện đảm bảo tính có thể so sánh được các phương án:

-

Phương pháp tính toán của các phương án phải thống nhất về mặt: hình thành

-

số liệu gốc, phương pháp so sánh và chỉ tiêu mức hiệu quả (ngưỡng hiệu quả).
Khi muốn so sánh một chỉ tiêu thì chỉ có chỉ tiêu đó thay đổi, còn các chỉ tiêu

khác phải giư nguyên và giống nhau. Cụ thể là:
 Khi so sánh về mặt giá trị (chi phí) thì mặt giá trị sử dụng (chất lượng sản phẩm,
công suất, tuổi thọ, độ bền chắc) của các phương án phải giống nhau. Nếu ở đây
các giá trị sử dụng của các phương án là khác nhau (một trường hợp xảy ra phổ
biến trong thực tế) thì phải đưa ra các phương án về cùng một mặt bằng giá trị sử
dụng nhờ một phương pháp nhất định (trong đó có phương pháp giá trị - giá trị
sử dụng).
 Khi tuổi thọ của các phương án khác nhau thì phải quy về bằng nhau bằng các
cách như: lấy thời gian tính toán so sánh bằng bội chung bé nhất của tuổi thọ các
phương án, hoặc lấy bằng thời kỳ kế hoạch, hoặc lấy theo luật đầu tư quy định,
hoặc điều chỉnh thông qua giá trị thu hồi khi đào thải tài sản, hoặc lấy bằng thời
gian tồn tại của mỏ nguyên liệu, hoặc tính san đều hàng năm.
 Khi vốn đầu tư của các phương án khác nhau thì phải quy về điều kiện có thể so
sánh được bằng cách so sánh theo hiệu quả của gia cố đầu tư, hoặc có phương án

phụ thêm.

2.2. Phương pháp lập DAĐT mua sắm MMTB
23


2.2.1. Lập DAĐTmua sắm MMTB khi thành lập doanh nghiệp
a. Trường hợp chung.
Để lập phương án trang bị máy xây dựng khi thành lập doanh nghiệp mới,
cần chú ý các vấn đề sau:


Về giai đoạn đầu tư cũng bao gồm các giai đoạn chuẩn bị đầu tư (trong đó có
công việc lập dự án đầu tư), thực hiện dự án đầu tư cho phần việc mua sắm tài
sản cố định (chủ yếu là máy móc và thiết bị xây dựng) và tạo dựng vốn lưu động,
vận hành dự án thể hiện ở công việc tổ chức xây dựng công trình.



Về nội dung của bản dự án cũng bao gồm các mục tương tự như khi lập dự án
cho máy xây dựng, nhưng phức tạp hơn vì phải tính toán cho toàn doanh nghiệp,
trong đó có mấy vấn đề như sau:
- Điều tra nhu cầu của thị trường xây dựng về mọi mặt.
- Xác định chủng loại xây dựng của doanh nghiệp phải thực hiện (xây nhà
ở, xây dựng công trình giao thông, xây dựng công nghiệp hay xây dựng hỗn hợp
một số chủng loại công trình).
- Xác định năng lực sản xuất và nhiệm vụ xây dựng hàng năm phải thực hiện.
- Lựa chọn phương án trang bị máy xây dựng (chủng loại máy và số lượng
cho mỗi chủng loại máy) để đáp ứng nhu cầu về năng lực sản xuất và nhiệm vụ
xây dựng hàng năm đã xác định ở trước.

- Xây dựng loại hình tổ chức của doanh nghiệp và cơ cấu nhân lực của
doanh nghiệp có liên quan đến máy xây dựng.
- Phân tích tài chính và kinh tế - xã hội của dự án.



Về phương pháp phân tích tài chính và kinh tế - xã hội cũng tương tự như khi lập
phương án đầu tư cho các máy xây dựng, nhưng có một số điểm khác biệt sau:
- Thời kỳ tính toán không phải là tuổi thọ của máy mà là thời kỳ tồn tại
của doanh nghiệp theo dự kiến (nếu có thể dự kiến được). Trong trường hợp chỉ
tiêu này khó xác định ta có thể lấy thời kỳ tính toán bằng bội số chung bé nhất
của tuổi thọ các loại máy xây dựng, hoặc chính bằng tuổi thọ của máy xây dựng
có chỉ tiêu này lớn nhất. Tuy nhiên thời lỳ tính toán không nên lấy quá dài để
24


tránh nhưng dự toán không chính xác so với tình hình biến động của thị trường
và của tiến bộ kỹ thuật xây dựng.
- Số chủng loại máy móc và số lượng mỗi chủng loại có thể lớn, máy móc
có thể bị thay thể giưa chừng do hết tuổi thọ.Hệ thống máy móc này phải được tổ
hợp tối ưu.
- Vì các máy móc phải được thay thế khi hết tuổi thọ nên vốn đầu tư mua
máy có thể phát sinh ở các thời điểm trung gian của dòng tiền tệ. Do đó dòng
tiền tề có thể đổi dấu nhiều lần và việc áp dụng chỉ tiêu suất thu lợi nội tại sẽ gặp
khó khăn.
b. Trường hợp cụ thể.
Trường hợp khi thành lập doanh nghiệp để thực hiện một hợp đồng xây
dựng kéo dài nhiều năm là một trường hợp cụ thể, vì nhiệm vụ xây dựng đã được
khẳng định cho doanh nghiệp xây dựng.
Trong trường hợp này dòng tiền tệ phải xác định trên cơ sở bản thiết kế

tiến độ xây dựng công trình, trong đó chỉ rõ doanh số (giá trị dự toán xây
dựng theo hợp đồng) chi phí, nhu cầu về máy xây dựng và nhân lực cho từng
năm xây dựng.
Việc phân tích tài chính, kinh tế - xã hội ở đây cũng tương tự như phân
tích dự án đầu tư cho các máy xây dựng riêng lẻ, nhưng có điểm khác biệt sau:
-Thời gian tính toán ở đây không phải là tuổi thọ của các máy móc riêng
lẻ mà là thời gian xây dựng công trình.
-Máy móc xây dựng có thể có nhiều chủng loại và thường phải đưa vào
hay đưa ra khỏi quá trình thi công. Do đó dòng tiền tệ sẽ phải đổi dấu nhiều lần;
máy móc xây dựng không phải được dùng hoàn toàn hết tuổi thọ cho quá trình
thi công xây dựng, vì vậy cách tính vốn đầu tư mua sắm máy xây dựng cho quá
trình thi công khác với trường hợp lập dự án đầu tư mua sắm các loại máy móc
riêng lẻ.

2.2.2. So sánh phương án tự mua máy và đi thuê máy

25


×