Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Tiểu luận quyền và nghĩa vụ của chủ rừng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA: LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
------

BÀI TIỂU LUẬN
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CHỦ RỪNG
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Gi ảng viên h ướng d ẫn: TS.V ũQuang
Sinh viên th ực hi ện: Đặn g Th ị Ng ọc Mai
L ớp: ĐH Lu ật A – K57

Quảng Bình, tháng 04 năm 2018
1


MỤC LỤC

2


LỜI CẢM ƠN
Thực tế luôn cho thấy, sự thành công nào cũng đều gắn liền với những sự hỗ trợ,
giúp đỡ của những người xung quanh dù là ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp. Trong
suốt thời gian từ khi bắt đầu làm tiểu luận đến nay, tôi đã nhận được sự quan tâm, chỉ
bảo, giúp đỡ tận tình của thầy cô, gia đình và bạn bè xung quanh.
Với tấm lòng biết ơn vô cùng sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất từ
đáy lòng đến quý Thầy Cô của Khoa Lý luận chính trị với những tri thức và tâm huyết
của mình đã truyền đạt cho chúng tôi vốn kiến thức quý báu suốt thời gian học tập tại
trường và tạo điều kiện cho chúng tôi học môn Luật đất đai - môi trường.
Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn giảng viên, TS. Vũ Quang đã tận tâm giảng


dạy, chỉ bảo, hướng dẫn chúng tôi qua từng buổi học, từng buổi nói chuyện, cùng nhau
thảo luận về các vấn đề liên quan đến Luật đất đai – môi trường. Nhờ có những lời
hướng dẫn, dạy bảo đó, tôi đã tiếp thu, học hỏi được những kiến thức trong nhiều lĩnh
vực khác nhau và hoàn thành bài tiểu luận này. Một lần nữa, tôi xin gửi lời cảm ơn
chân thành đến thầy.
Do khả năng còn hạn chế, thời gian gấp rút, nhiều kiến thức mới chưa thể nghiên
cứu kỹ lưỡng... Vì thế, bài tiểu luận không tránh khỏi những thiếu sót, bản thân tôi rất
mong nhận được ý kiến đóng góp từ thầy để bài luận được bổ sung, hoàn thiện hơn và
tôi có điều kiện để trau dồi thêm các kỹ năng, nâng cao kiến thức của mình, hoàn
thành tốt hơn các tiểu luận, báo cáo, đề tài sau này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

3


A. MỞ ĐẦU
Vốn được xem là "lá phổi" của Trái đất, rừng có vai trò rất quan trọng trong việc
duy trì cân bằng sinh thái và sự đa dạng sinh học trên hành tinh chúng ta. Rừng là hơi
thở của sự sống, là một nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, giữ vai trò đặc biệt quan
trọng trong quá trình phát triển và sinh tồn của loài người. Rừng điều hòa khí hậu (tạo
ra oxy, điều hòa nước, ngăn chặn gió bão, chống xói mòn đất,…) bảo tồn đa dạng sinh
học, bảo vệ môi trường sống. Rừng còn giữ vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc
phát triển kinh tế như: cung cấp nguồn gỗ, tre, nứa, đặc sản rừng, các loại động, thực
vật có giá trị trong nước và xuất khẩu,… Ngoài ra nó còn mang ý nghĩa quan trọng về
cảnh quan thiên nhiên và an ninh quốc phòng. Bởi vậy, bảo vệ rừng và nguồn tài
nguyên rừng luôn trở thành một một yêu cầu, nhiệm vụ không thể trì hoãn đối với tất
cả các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Đó là một thách thức vô cùng to
lớn đòi hỏi mỗi cá nhân, tổ chức thuộc các cấp trong một quốc gia và trên thế giới
nhận thức được vai trò và nhiệm vụ của mình trong công tác phục hồi, bảo vệ và phát
triển rừng.

Tuy nhiên hiện nay, diện tích rừng ngày càng thu hẹp, nguyên nhân chủ yếu do
áp lực dân số của các vùng tăng nhanh, nghèo đói, người dân sinh kế chủ yếu dựa vào
khai thác tài nguyên rừng, trình độ dân trí vùng sâu vùng xa còn thấp, khuyến nông
khuyến lâm chưa phát triển, chính sách nhà nước về quản lý rừng còn nhiều bất cập,
hạn chế,...
Một trong những yếu tố quan trọng trong vấn đề bảo vệ và phát triển rừng chính
là vai trò của các chủ rừng đối với từng loại rừng. Trong những năm gần đây, Nhà
nước đã ban hành và áp dụng nhiều chính sách tác động mạnh đến đời sống nhân dân
như giao đất rừng phòng hộ, đất rừng sản xuất, đất rừng đặc dụng, khoán quản lý bảo
vệ rừng, quy định chặt chẽ và hợp lý hơn về quyền và nghĩa vụ của các chủ rừng, đề ra
các biện pháp ngăn chặn tình trạng phá rừng, xử lý nghiêm minh đối với những hành
vi vi phạm pháp luật...
Vì vậy, tôi thực hiện bài tiểu luận “Quyền và nghĩa vụ của chủ rừng – thực trạng
và giải pháp” nhằm mục đích tìm hiểu cụ thể về chủ rừng, quyền và nghĩa vụ của chủ
rừng, thực trạng thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó đồng thời đề xuất một số giải phát
phát huy vai trò của chủ rừng, bảo vệ tài nguyên rừng hiện nay.

4


B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận về rừng, quyền và nghĩa vụ của chủ rừng
1. Các khái niệm cơ bản
1.1 Khái niệm rừng
Có nhiều cách định nghĩa rừng khác nhau nhưng hầu hết đều định nghĩa dựa vào
phạm vi không gian, hệ thống sinh vật và cảnh quan địa lí
Theo tổ chức Nông nghiệp và Lương thực Liên Hiệp Quôc (FAO): “Rừng là một
khu vực đất đai có diện tích lớn hơn 0,5 ha với độ che phủ của tán rừng trên 10%, độ
cao trung bình tối thiểu của cây phải đạt 5 mét, rừng bao gồm rừng tự nhiên và rừng
trồng.”

Theo Wikipedia định nghĩa về rừng: “Rừng là quần xã sinh vật trong đó cây
rừng là thành phần chủ yếu. Quần xã sinh vật phải có diện tích đủ lớn. Giữa quần xã
sinh vật và môi trường, các thành phần trong quần xã sinh vật phải có mối quan hệ
mật thiết để đảm bảo khác biệt giữa hoàn cảnh rừng và các hoàn cảnh khác.”
Theo khoản 1, Điều 3 Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 của Việt Nam:
“Rừng là một hệ sinh thái bao gồm quần thể thực vật rừng, động vật rừng, vi sinh vật
rừng, đất rừng và các yếu tố môi trường khác, trong đó cây gỗ, tre nứa hoặc hệ thực
vật đặc trưng là thành phần chính có độ che phủ của tán rừng từ 0,1 trở lên. Rừng
gồm rừng trồng và rừng tự nhiên trên đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ, đất rừng
đặc dụng.”
1.2 Khái niệm chủ rừng
“Chủ rừng là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao rừng, cho thuê
rừng, giao đất để trồng rừng, cho thuê đất để trồng rừng, công nhận quyền sử dụng
rừng, công nhận quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng; nhận chuyển nhượng
rừng từ chủ rừng khác.” (Khoản 4, Điều 3 Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004)
Theo đó, khái niệm “chủ rừng” quy định tại khoản 4, Điều 3 Luật Bảo vệ và phát
triển rừng 2004 bao gồm cả hai đối tượng là người có quyền sở hữu tương đối đối với
rừng sản xuất là rừng trồng và người không có quyền sở hữu rừng mà chỉ được Nhà
nước giao rừng, cho thuê rừng, giao đất để trồng rừng, cho thuê đất để trồng rừng;
nhận chuyển nhượng quyền sử dụngrừng từ chủ rừng khác. Như vậy khái niệm “chủ
rừng” và “chủ sở hữu rừng” không đồng nhất với nhau. Mỗi loại chủ rừng có những

5


đặc điểm riêng, quyền lợi và nghĩa vụ riêng phụ thuộc vào loại rừng mà họ được giao
hoặc được thuê theo quy định của Luật Bảo vệ và phát triển rừng.
1.3 Khái niệm quyền
Quyền là những việc mà một người được làm mà không bị ai ngăn cản, hạn chế
(Trích Từ điển luật học trang 395)

Phân loại quyền gồm có:
1. Quyền đương nhiên như quyền làm người, quyền được sống, quyền được tự
do, quyền mưu cầu hạnh phúc.
2. Quyền do pháp luật cho phép làm hoặc luật pháp không cấm làm (quyền
pháp lý).
3. Quyền do điều lệ của tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức quần chúng cho
phép hội viên được làm.
4. Quyền do người khác ủy quyền, v.v...
1.4 Khái niệm nghĩa vụ
Nghĩa vụ là những hành vi mà một người phải thực hiện vì lợi ích của người
khác. (Trích Từ điển luật học trang 320)
Có 3 loại nghĩa vụ
Thứ nhất, nghĩa vụ theo phong tục: nghĩa vụ do phong tục, tập quán của địa
phương quy định
Thứ hai, nghĩa vụ về đạo đức, nhân văn: con phải có hiếu với cha mẹ, vợ chồng
phải sống chung thủy với nhau...
Thứ ba, nghĩa vụ pháp lý: những nghĩa vụ đã được pháp luật quy định, nghĩa vụ
của công dân do Hiến pháp và các luật quy định. Vi phạm nghĩa vụ pháp lý thì tùy theo
mức độ mà có thể bị xử lý theo kỉ luật, hành chính, theo các chế tài hình sự: phạt tù, tử
hình... hoặc theo các chế tài dân sự: phạt tiền, buộc bồi thường thiệt hại...
2. Các loại chủ rừng
Điều 8 Luật Lâm nghiệp 2017 quy định chủ rừng gồm những đối tượng sau
đây:
1. Ban quản lý rừng đặc dụng, ban quản lý rừng phòng hộ.
2. Tổ chức kinh tế bao gồm doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và tổ
chức kinh tế khác được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật, trừ trường
hợp quy định tại khoản 7 Điều này.
6



3. Đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân được giao rừng (sau đây gọi là đơn
vị vũ trang).
4. Tổ chức khoa học và công nghệ, đào tạo, giáo dục nghề nghiệp về lâm nghiệp.
5. Hộ gia đình, cá nhân trong nước.
6. Cộng đồng dân cư.
7. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được Nhà nước cho thuê đất để trồng
rừng sản xuất.
Có thể thấy Nhà nước khuyến khích các tổ chức kinh tế, hộ gia đình và cá nhân
tiếp cận khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên rừng khi quy định các nhóm chủ rừng
bao gồm nhiều thành phần trong xã hội, không hạn chế chủ rừng trong nước hay nước
ngoài và không quy định các cơ quan quản lý Nhà nước là một trong những đối tượng
chủ rừng.
Về nguyên tắc, Nhà nước (đại diện cho toàn dân) sẽ đóng vai trò là chủ sở hữu
tuyệt đối đối với rừng. Bên cạnh đó còn có các đối tượng được Nhà nước công nhận
quyền sở hữu đối với rừng sản xuất là rừng trồng – chủ sở hữu tương đối đối với rừng.
3. Điều kiện để trở thành chủ rừng
Điều kiện để trở thành chủ rừng đối với mỗi loại đối tượng chủ thể cũng có nhiều
điểm không giống nhau. Trước hết họ phải thuộc một trong các nhóm đối tượng được
nêu như trên (trừ Ban quản lý rừng phòng hộ, rừng đặc dụng được thành lập sau khi
giao rừng phòng hộ, rừng đặc dụng). Tiếp theo họ phải được cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền xem xét, cấp quyết định giao rừng, cho thuê rừng, giao đất, cho thuê đất
để trồng rừng căn cứ trên dự án đầu tư về lâm nghiệp được phê duyệt theo pháp luật về
đầu tư (đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư tại nước ngoài),
khu vực sinh sống tại địa phương có rừng (thường áp dụng đối với hộ gia đình, cá
nhân) hoặc nhu cầu sử dụng vào mục đích kinh doanh (đối với tổ chức kinh tế), nghiên
cứu (đối với tổ chức nghiên cứu khoa học), lí do an ninh – quốc phòng (đối với đơn vị
vũ trang nhân dân). Khi hoàn thành các thủ tục cần thiết họ sẽ trở thành chủ rừng và
được công nhận quyền sử dụng rừng hoặc quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng.
4. Hệ thống văn bản quy định về chủ rừng, quyền và nghĩa vụ của chủ rừng
Quyền và nghĩa vụ của chủ rừng được quy định tại Điều 59 và Điều 60 Luật Bảo

vệ và phát triển rừng năm 2004
Điều 59. Quyền chung của chủ rừng
7


1. Được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận quyền sử dụng rừng, quyền
sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng.
2. Được sử dụng rừng ổn định, lâu dài phù hợp với thời hạn giao rừng, cho thuê
rừng và thời hạn giao đất, cho thuê đất.
3. Được sản xuất lâm nghiệp - nông nghiệp - ngư nghiệp kết hợp theo quy chế
quản lý rừng, trừ rừng đặc dụng.
4. Được hưởng thành quả lao động, kết quả đầu tư trên diện tích được giao, được
thuê; bán thành quả lao động, kết quả đầu tư cho người khác.
5. Được kết hợp nghiên cứu khoa học, kinh doanh cảnh quan, nghỉ dưỡng, du
lịch sinh thái - môi trường theo dự án được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê
duyệt.
6. Được bồi thường thành quả lao động, kết quả đầu tư để bảo vệ và phát triển
rừng theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan khi
Nhà nước có quyết định thu hồi rừng.
7. Được hướng dẫn về kỹ thuật, hỗ trợ về vốn theo chính sách của Nhà nước để
bảo vệ và phát triển rừng và được hưởng lợi ích do các công trình công cộng bảo vệ,
cải tạo rừng mang lại.
8. Được Nhà nước bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp đối với rừng được giao,
được thuê.
Điều 60. Nghĩa vụ chung của chủ rừng
1. Bảo toàn vốn rừng và phát triển rừng bền vững; sử dụng rừng đúng mục đích,
đúng ranh giới đã quy định trong quyết định giao, cho thuê rừng và theo quy chế quản
lý rừng.
2. Tổ chức bảo vệ và phát triển rừng theo quy hoạch, kế hoạch, dự án, phương án
đã được phê duyệt.

3. Định kỳ báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền về diễn biến tài nguyên
rừng và các hoạt động liên quan đến khu rừng theo quy định tại khoản 2 Điều 32 của
Luật này.
4. Giao lại rừng khi Nhà nước có quyết định thu hồi rừng hoặc khi hết thời hạn
sử dụng rừng.
5. Thực hiện nghĩa vụ tài chính và các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp
luật.
8


6. Thực hiện quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật; không
làm tổn hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân có liên quan.
Nghị định số 23/2006 Về thi hành Luật Bảo vệ và phát triển rừng.
Nghị định này quy định về việc quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng;
giao rừng, cho thuê rừng, thu hồi rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng, chuyển đổi,
chuyển nhượng, tặng cho; công nhận, đăng ký, cho thuê lại, thế chấp, bảo lãnh, góp
vốn, để thừa kế quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng; thống
kê, kiểm kê, theo dõi diễn biến tài nguyên rừng; tổ chức quản lý rừng, bảo vệ rừng,
phát triển rừng và sử dụng rừng.
Quyết định số 38/2016 Về việc ban hành một số chính sách bảo vệ, phát triển
rừng và đầu tư hỗ trợ kết cấu hạ tầng, giao nhiệm vụ công ích đối với các công ty
nông, lâm nghiệp.
Điều 8. Quyền và nghĩa vụ của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng (gọi
tắt là chủ rừng) khi trồng rừng sản xuất
1. Quyền lợi: Được hưởng toàn bộ sản phẩm từ rừng trồng, khi khai thác sản
phẩm được tự do lưu thông và được hưởng các chính sách ưu đãi về miễn giảm thuế và
tiền sử dụng đất theo quy định của pháp luật hiện hành.
2. Chủ rừng sử dụng tối đa 30% diện tích đất đã được giao, được thuê nhưng
chưa có rừng để đầu tư phục vụ du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, sản xuất nông nghiệp,
ngư nghiệp kết hợp, trong đó diện tích đất dành cho xây dựng hạ tầng (đường giao

thông, công trình kiên cố, nhà máy) tối đa là 20%.
3. Nghĩa vụ: Khi khai thác sản phẩm rừng trồng, chủ rừng phải nộp cho Quỹ bảo
vệ và phát triển rừng của xã và Quỹ bảo vệ phát triển rừng thôn, bản, số tiền tương
đương với 80 kg thóc/ha/chu kỳ rừng trồng, trong đó trích nộp cho mỗi quỹ là 50%.
Diện tích rừng sản xuất do hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng nhận khoán của các
Ban Quản lý rừng đặc dụng, phòng hộ hoặc doanh nghiệp quốc doanh (gọi tắt là bên
giao khoán) thì chủ rừng (bên nhận khoán) nộp số tiền trên cho bên giao khoán. Ngoài
ra chủ rừng không phải nộp thêm bất cứ khoản gì cho bên giao khoán.
Sau khi khai thác rừng trồng, trong vòng 12 tháng, chủ rừng phải tự tổ chức trồng
lại rừng theo quy định.
Chủ rừng đã nhận tiền hỗ trợ của Nhà nước để trồng rừng, nếu sau 5 năm mà
rừng không đạt tiêu chuẩn theo quy định của Nhà nước thì chủ rừng phải tự bỏ vốn để
9


trồng lại rừng hoặc phải hoàn trả lại cho ngân sách nhà nước số tiền đã nhận hỗ trợ
cộng với lãi suất thương mại tại thời điểm thu hồi.
Trường hợp mất rừng do nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, hỏa hoạn, sâu
bệnh không phải hoàn trả số tiền đã nhận hỗ trợ.
4. Đối với diện tích rừng trồng là rừng đặc dụng, rừng phòng hộ đã được trồng
bằng nguồn vốn của Chương trình 327 trước đây và nguồn vốn từ ngân sách nhà nước
thuộc Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng, nay quy hoạch là rừng sản xuất thì quyền và
nghĩa vụ của chủ rừng được thực hiện theo quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này.
Điều 9. Quyền và nghĩa vụ tổ chức, hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng (gọi tắt là
chủ rừng) khi trồng rừng phòng hộ; bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh rừng tự nhiên
1. Quyền lợi: Được hưởng hỗ trợ của ngân sách nhà nước theo quy định tại
Quyết định này và toàn bộ sản phẩm của rừng mang lại khi được phép khai thác từ
rừng theo quy định của Nhà nước.
2. Được sử dụng tối đa 30% diện tích đất chưa có rừng để phát triển sản xuất
nông nghiệp, du lịch sinh thái nghỉ dưỡng và xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ lâm

nghiệp.
3. Nghĩa vụ: Phải trồng và bảo vệ rừng phòng hộ và rừng tự nhiên theo pháp luật
về bảo vệ rừng hiện hành.
Luật Đất đai 2013 cũng quy định về một số quyền và nghĩa vụ của chủ rừng đối
với đất rừng sản xuất (Điều 135), đất rừng phòng hộ (Điều 136), đất rừng đặc dụng
(Điều 137)
Ngoài ra, còn có Quy chế quản lý rừng sản xuất (Ban hành kèm theo Quyết
định số 49/2016/QĐ-TTg ngày 01 tháng 11 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ), Quy
chế quản lý rừng phòng hộ (Ban hành kèm theo Quyết định số 17/2015/QĐ-TTg ngày
09 tháng 6 năm 2015 của Thủ tướng Chính phủ), Nghị định số 117/2010 Về tổ chức và
quản lý hệ thống rừng đặc dụng... đều quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của chủ rừng
đối với từng loại rừng.
II. Thực trạng khai thác, sử dụng, bảo vệ và phát triển rừng
1. Vai trò của chủ rừng trong khai thác, sử dụng, bảo vệ và phát triển rừng

10


Hình 2.1 Khai thác mủ cao su

Hình 2.2 Voọc quần đùi trắng trong rừng

Chủ rừng có quyền khai thác các lợi ích kinh tế của rừng theo pháp luật quy định.
Rừng là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, với nhiều giá trị lớn về mặt kinh tế, đời
sống con người. Chủ rừng có quyền khai thác lâm sản theo quy định trước hết là gỗ và
lâm sản ngoài gỗ; nuôi trồng các loài động vật, thực vật; cung cấp nguyên liệu cho
công nghiệp, cho xây dựng cơ bản; cung cấp cho thị trường các loại dược liệu quý
phục vụ nhu cầu chữa bệnh và nâng cao sức khỏe cho con người. Ngoài ra, rừng là
nguồn thu nhập chính của đồng bào các dân tộc miền núi, là cơ sở quan trọng để phân
bố dân cư, điều tiết lao động xã hội, góp phần xóa đói giảm nghèo cho xã hội... vì vậy

vai trò của chủ rừng ngày càng quan trọng.
Chủ rừng có nghĩa vụ trồng và bảo vệ rừng phòng hộ nhằm mục đích: Đối với
rừng phòng hộ đầu nguồn để giữ đất, giữ nước, điều hòa dòng chảy, chống xói mòn
rửa trôi thoái hóa đất, chống bồi đắp sông ngòi, hồ đập, giảm thiểu lũ lụt, hạn chế hạn
hán, giữ gìn được nguồn thủy năng lớn cho các nhà máy thủy điện. Rừng phòng hộ
ven biển, chắn sóng, chắn gió, chống cát bay, chống sự xâm nhập của nước mặn...bảo
vệ đồng ruộng và khu dân cư ven biển... Rừng phòng hộ khu công nghiệp và khu đô
thị, làm sạch không khí, tăng dưỡng khí, giảm thiểu tiếng ồn, điều hòa khí hậu tạo điều
kiện cho công nghiệp phát triển. Rừng phòng hộ đồng ruộng và khu dân cư: giữ nước,
cố định phù sa, hạn chế lũ lụt và hạn hán, tăng độ ẩm cho đất...
Ngoài ra, chủ rừng còn có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ các giá trị cảnh
quan, du lịch, đặc biệt là nơi dự trữ sinh quyển bảo tồn các nguồn gen quý hiếm, các
loài động thực vật đang có nguy cơ tuyệt chủng,...
2. Khái quát tình hình thực hiện quyền và nghĩa vụ chủ rừng

11


Hình 2.3 Rừng phòng hộ

Hình 2.4 Rừng đặc dụng

Hình 2.5 Rừng sản xuất

Hình 2.6 Người dân trồng rừng

Tính đến hết tháng 12.2016, hơn 2,5 triệu hecta rừng tự nhiên đã được giao cho
các chủ thể ngoài Nhà nước gồm hộ gia đình, cộng đồng và các tổ chức kinh tế thông
qua các chương trình giao đất, giao rừng từ những năm 1990. Trải qua hàng chục năm,
các diện tích này từ đất trống, rừng nghèo kiệt đã được các chủ thể quản lý, đầu tư

trồng mới hoặc khoanh nuôi tái sinh tự nhiên trở thành rừng non, thậm chí là rừng
trung bình…
Đánh giá chung, các quy định pháp luật về quyền của chủ rừng đối với rừng tự
nhiên và rừng trồng có những điểm mạnh và hạn chế. Về điểm mạnh, quyền của chủ
rừng được công nhận; việc chuyển giao quyền tới chủ rừng được quy định; khung
pháp luật hỗ trợ việc thực hiện các quyền của chủ rừng; xác định trách nhiệm của các
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Mặt khác, những quy định của pháp luật còn nhiều điểm hạn chế như: Các quyền
với rừng sản suất vẫn còn hạn chế; thiếu sự công nhận quyền truyền thống của người
dân; thiếu các quy định về vai trò của các tổ chức ngoài nhà nước; các yêu cầu về thủ
tục khai thác lâm sản quá phức tạp với người dân; cơ chế thực thi quyền đối với rừng
còn thiếu và yếu.
Cụ thể hơn, quyền sở hữu rừng, đặc biệt là rừng tự nhiên ở Việt Nam vẫn chưa
được thừa nhận một cách đầy đủ, tư duy lý luận về quyền sở hữu rừng, quyền kinh
doanh rừng, quyền hưởng từ các nguồn lợi từ rừng… chưa rõ ràng, minh bạch. Người
12


dân sống ở khu vực rừng, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số dưới áp lực giảm
nghèo, dân số gia tăng nhu cầu được khai thác, sử dụng các sản phẩm, nguồn lợi từ
rừng lại ngày một tăng cao, dẫn đến tình trạng người dân tìm cách khai thác rừng “của
nhà nước” làm nguồn lợi cho riêng mình.
Với khung pháp lý hiện nay về sở hữu, trong đó có sở hữu rừng, các chủ rừng
đặc dụng, rừng phòng hộ không có quyền định đoạt đối với rừng mà chỉ thực hiện
nhiệm vụ quản lý, bảo vệ, sử dụng và phát triển rừng dưới sự giám sát của các cơ quan
chức năng về lâm nghiệp. Các quyền chuyển nhượng, trao đổi, cầm cố hay góp vốn
quyền sử dụng rừng cũng không được thừa nhận kể cả khi ban quản lý rừng được Nhà
nước cấp giấy chứng nhận sử dụng đất. Nhiều khu rừng giao cho hộ gia đình và cá
nhân là rừng nghèo kiệt sau khai thác, chưa có rừng hoặc có những đám rừng rải rác,
không tập trung. Tuy nhiên, sau một thời gian được các chủ rừng bỏ công sức và tiền

của để xúc tiến tái sinh tự nhiên có trồng bổ sung hoặc tự đầu tư làm giàu rừng bằng
việc trồng rừng cây bản địa nên sau đó đã trở thành rừng tự nhiên. Tuy nhiên, hộ gia
đình và cá nhân không được công nhận quyền sở hữu riêng đối với những cánh rừng
này. Những hạn chế này ảnh hưởng không nhỏ đến động lực tham gia bảo vệ và phát
triển rừng của chủ rừng.
Các quyền với rừng của cộng đồng còn hạn chế và nhiều quyền truyền thống
chưa được công nhận. Mặc dù các quyền của cộng đồng đã được pháp luật công nhận,
nhưng tập hợp các quyền này vẫn còn hạn chế so với các chủ rừng như hộ gia đình, cá
nhân hay tổ chức. Ví dụ như, cộng đồng không được cho thuê, thế chấp, bảo lãnh, góp
vốn kinh doanh bằng giá trị quyền sử dụng rừng được giao. Bên cạnh đó, nhiều quyền
truyền thống của cộng đồng, có ý nghĩa quan trọng đối với việc quản lý hiệu quả rừng
cộng đồng, lại chưa được công nhận.
Luật Bảo vệ và phát triển rừng ban hành năm 2004 đã đánh dấu một bước tiến
lớn khi thể chế hóa “quyền sở hữu rừng” cho chủ rừng sản xuất là rừng trồng, nhưng
nhìn tổng thể, quyền sở hữu rừng, đặc biệt là rừng tự nhiên ở Việt Nam vẫn chưa được
thừa nhận một cách đầy đủ. Tư duy, lý luận về quyền sở hữu rừng, quyền kinh doanh
rừng, quyền hưởng các nguồn lợi từ rừng… chưa rõ ràng, minh bạch, khi phần lớn
diện tích rừng và đất rừng vẫn do các tổ chức nhà nước quản lý và sử dụng. Với khung
pháp lý hiện nay, các chủ rừng chỉ có quyền chiếm hữu và sử dụng rừng, đất rừng
trong khi quyền định đoạt vẫn thuộc về Nhà nước. Các chủ rừng đặc dụng, rừng phòng
13


hộ không có quyền định đoạt đối với rừng mà chỉ thực hiện nhiệm vụ quản lý, bảo vệ,
sử dụng và phát triển rừng dưới sự giám sát của các cơ quan chức năng về lâm nghiệp.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tiến hành rà soát, đánh giá và trình
hồ sơ sửa đổi Luật Bảo vệ và phát triển rừng 2004 lên Chính phủ. Một trong những
điểm mới đáng chú ý nhất của Dự thảo Luật là đã đặt nội dung hưởng lợi từ rừng ở vị
trí trung tâm nhằm tạo động lực trong bảo vệ, phát triển rừng, cũng như đẩy mạnh phát
triển nghề rừng trong nền kinh tế thị trường. Những quy định và nội dung sửa đổi về

sở hữu, quyền và nghĩa vụ đối với tài nguyên rừng và đất rừng trong Dự thảo Luật này
phải đáp ứng được nhu cầu sinh kế của người dân sống gắn bó với rừng, hướng tới các
mục tiêu rõ ràng hơn là bảo vệ rừng, cũng như hài hòa các mối quan hệ xã hội, thể chế
quản lý đối với tài nguyên rừng, đất rừng trong thực tiễn, trở thành một nền tảng quan
trọng, giúp bảo hộ quyền của các chủ thể, đặc biệt là hộ gia đình và cộng đồng, từ đó
giúp thúc đẩy quản trị rừng theo hướng minh bạch, công bằng hơn, bảo đảm hiệu quả
về cả kinh tế, môi trường và xã hội.
3. Thực trạng công tác quản lý, bảo vệ rừng

Hình 2.7 Nạn cháy rừng

Hình 2.8 Hậu quả của cháy rừng

Hình 2.9 Khai thác rừng bừa bãi

Hình 2.10 Lãng phí tài nguyên rừng

3.1 Ưu điểm
Thời gian qua, công tác bảo vệ, phát triển rừng được các ngành, địa phương, cơ
quan chức năng quan tâm thực hiện và đạt nhiều kết quả tích cực.
14


Thứ nhất, Nhà nước có chính sách đầu tư cho việc bảo vệ và phát triển rừng gắn
liền, đồng bộ với các chính sách kinh tế – xã hội khác, ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở
hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực, định canh định cư, ổn định và cải thiện đời sống
nhân dân miền núi.
Thứ hai, Nhà nước đầu tư cho các hoạt động bảo vệ và phát triển rừng đặc dụng,
rừng phòng hộ, rừng giống quốc gia; bảo vệ và phát triển các loài thực vật rừng, động
vật rừng nguy cấp, quý, hiếm; nghiên cứu, ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học,

phát triển công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực cho việc bảo vệ và phát triển rừng; xây
dựng hệ thống quản lý rừng hiện đại, thống kê rừng, kiểm kê rừng và theo dõi diễn
biến tài nguyên rừng; xây dựng lực lượng chữa cháy rừng chuyên ngành; đầu tư cơ sở
vật chất, kỹ thuật và trang bị phương tiện phục vụ chữa cháy rừng, phòng trừ sinh vật
gây hại rừng.
Thứ ba, Nhà nước có chính sách hỗ trợ việc bảo vệ và làm giàu rừng sản xuất là
rừng tự nhiên nghèo, trồng rừng sản xuất gỗ lớn, gỗ quý, cây đặc sản; có chính sách hỗ
trợ việc xây dựng cơ sở hạ tầng trong vùng rừng nguyên liệu; có chính sách khuyến
lâm và hỗ trợ nhân dân ở nơi có nhiều khó khăn trong việc phát triển rừng, tổ chức sản
xuất, chế biến và tiêu thụ lâm sản.
Thứ tư, Nhà nước khuyến khích tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nhận đất phát triển
rừng ở những vùng đất trống, đồi núi trọc; ưu tiên phát triển trồng rừng nguyên liệu
phục vụ các ngành kinh tế; mở rộng các hình thức cho thuê, đấu thầu đất để trồng
rừng; có chính sách miễn, giảm thuế đối với người trồng rừng; có chính sách đối với tổ
chức tín dụng cho vay vốn trồng rừng với lãi suất ưu đãi, ân hạn, thời gian vay phù
hợp với loài cây và đặc điểm sinh thái từng vùng.
Thứ năm, Nhà nước có chính sách phát triển thị trường lâm sản, khuyến khích tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư để phát triển công
nghiệp chế biến lâm sản, làng nghề truyền thống chế biến lâm sản.
Thứ sáu, Nhà nước khuyến khích việc bảo hiểm rừng trồng và một số hoạt động
sản xuất lâm nghiệp.
3.2 Nhược điểm
Một là, công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật và cơ chế chính
sách về lâm nghiệp chưa được thực hiện có hiệu quả. Người dân, nhất là ở vùng sâu,

15


vùng xa chưa nhận thức đầy đủ tính cấp thiết của việc bảo vệ và phát triển rừng, nên
vẫn tiếp tục phá rừng, có nơi còn tiếp tay, làm thuê cho bọn đầu nậu, kẻ có tiền.

Hai là, các ngành, các cấp chính quyền, đặc biệt là cấp xã nhận thức chưa đầy đủ,
tổ chức thực hiện thiếu nghiêm túc trách nhiệm quản lý nhà nước về rừng và đất lâm
nghiệp. ở những điểm nóng phá rừng, do lợi ích cục bộ, đã làm ngơ, thậm chí có biểu
hiện tiếp tay cho các hành vi phá rừng, khai thác, tiêu thụ lâm sản, sang nhượng đất đai
trái phép, nhưng không bị xử lý nghiêm túc. Sau một thời gian thực hiện các biện pháp
kiên quyết ngăn chặn tình trạng phá rừng theo chỉ đạo của Thủ tướng, một số nơi có
biểu hiện thỏa mãn với thành tích, không duy trì hoạt động thường xuyên, do vậy tình
trạng phá rừng và các hành vi vi phạm pháp luật tiếp tục tái xuất hiện.
Ba là, chủ rừng là các lâm trường quốc doanh, Ban quản lý rừng phòng hộ và
rừng đặc dụng không đủ năng lực để quản lý, bảo vệ diện tích rừng được giao. Một số
đơn vị có biểu hiện thiếu trách nhiệm, thông đồng, tiếp tay cho hành vi phá rừng (Đắk
Nông, Kon Tum, Gia Lai, Bình Thuận,...). Các chủ rừng là hộ gia đình, cá nhân và các
tổ chức khác có diện tích quy mô nhỏ nên không thể tự tổ chức lực lượng bảo vệ rừng
được giao, vì vậy Nhà nước đang phải hỗ trợ bảo vệ rừng cho những đối tượng này.
Gần 3 triệu hécta rừng chưa có chủ, thuộc trách nhiệm quản lý của Uỷ ban nhân dân
xã, nhưng chưa có cơ chế để chính quyền cấp xã thực hiện công tác quản lý, bảo vệ
rừng có hiệu quả.
Bốn là, cơ chế chính sách chậm đổi mới chưa tạo động lực thu hút các nguồn lực
cho bảo vệ rừng. Quyền và nghĩa vụ của chủ rừng thiếu rõ ràng, khi rừng bị mất, chủ
rừng (nhất là các chủ rừng thuộc Nhà nước) không phải chịu trách nhiệm trực tiếp.
Chính sách quyền hưởng lợi từ rừng chưa phù hợp với thực tiễn, lại chưa được các địa
phương thực hiện nghiêm túc. Công tác quy hoạch, kế hoạch thiếu tính khoa học, chưa
đồng bộ với các quy hoạch khác như quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, sử dụng đất
đai,... nên quy hoạch không được thực hiện nghiêm túc, thường xuyên bị phá vỡ. Công
tác giao, cho thuê rừng, đất rừng, khoán bảo vệ rừng đã đạt được những thành tựu
đáng kể, nhưng việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn rất chậm, theo dõi
việc sử dụng đất rừng sau khi giao, cho thuê chưa thường xuyên. Thiếu sự đồng bộ,
gắn kết trong tổ chức thực hiện các chương trình, dự án. Việc xây dựng các văn bản
quy phạm pháp luật hướng dẫn thực hiện Luật chậm, chưa kịp thời quy định các biện
pháp phối hợp để xử lý nghiêm các hành vi vi phạm của lâm tặc và người có trách

16


nhiệm quản lý Nhà nước. Chưa có chiến lược hoàn thiện hệ thống các văn bản quy
phạm pháp luật, do vậy việc ban hành các văn bản đơn hành còn mang tính giải quyết
tình thế cấp thiết.
Năm là, chưa huy động được các lực lượng của xã hội cho bảo vệ rừng. Phối hợp
giữa các lực lượng Công an, Quân đội, Kiểm lâm ở nhiều địa phương chưa thật sự có
hiệu quả, còn mang tính hình thức, nhiều tụ điểm phá rừng trái phép chưa có phương
án giải quyết của liên ngành. Việc xử lý các vi phạm chưa kịp thời, thiếu kiên quyết,
còn có những quan điểm khác nhau của các cơ quan chức năng ở một số địa phương.
Trong khi lâm tặc phá rừng, khai thác gỗ trái phép với thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo
quyệt; chống trả người thi hành công vụ ngày càng hung hãn; không xử lý kiên quyết,
nghiêm minh, lâm tặc sẽ coi thường pháp luật và tiếp tục chống người thi hành công
vụ với mức độ phổ biến hơn.
Sáu là, lực lượng kiểm lâm mỏng, địa vị pháp lý chưa rõ ràng, trang thiết bị,
phương tiện thiếu thốn, lạc hậu. Chế độ chính sách cho lực lượng kiểm lâm chưa
tương xứng với nhiệm vụ được giao. Vì vậy, ở những vùng trọng điểm phá rừng nếu
chỉ có lực lượng kiểm lâm không thể giải quyết dứt điểm. Trình độ chuyên môn nghiệp
vụ còn hạn chế (nhất là nghiệp vụ vận động quần chúng), một số công chức kiểm lâm
dao động trước khó khăn, thậm chí có biểu hiện tiêu cực. Công tác đào tạo, huấn luyện
nghiệp vụ, giáo dục đạo đức phẩm chất cho đội ngũ bảo vệ rừng nhất là kiểm lâm chưa
được coi trọng đúng mức, nên chưa có cơ sở vật chất cho việc đào tạo, huấn luyện.
Bảy là, cơ sở vật chất cho công tác bảo vệ rừng hết sức khó khăn. Những năm
qua nguồn đầu tư cho bảo vệ rừng chủ yếu từ chương trình 661, nhưng chỉ được 5%
cho xây dựng cơ sở hạ tầng, vì vậy các công trình phòng cháy, chữa cháy rừng, công
trình nghiệp vụ khác được xây dựng không đáp ứng được yêu cầu bảo vệ rừng bền
vững. Tỷ trọng vốn đầu tư của xã hội cho công tác bảo vệ rừng không đáng kể.
III. Giải pháp góp phần phát huy quyền và nghĩa vụ của chủ rừng cùng công tác
bảo vệ, phát triển rừng

Một là, đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, nâng cao nhận thức về quản
lý bảo vệ rừng
Xây dựng các chương trình về thông tin – giáo dục – truyền thông, phổ biến kiến
thức về pháp luật bảo vệ và phát triển rừng nhằm nâng cao nhận thức về bảo vệrừng
của các chủ rừng, chính quyền các cấp, các ngành và toàn xã hội.
17


Đổi mới phương pháp tuyên truyền phù hợp với từng đối tượng tiếp nhận thông
tin, nhất là đối với đồng bào dân tộc sống ở vùng sâu, vùng xa.In ấn , phát hành các tài
liệu tuyên truyền để phân phát cho các cộng đồng, xây dựng các bảng tuyên truyền ở
những khu vực công cộng, trên giao lộ, cửa rừng, ...
Vận động các hộ gia đình sống trong và gần rừng ký cam kết bảo vệ rừng, xây
dựng và thực hiện các quy ước bảo vệ rừng ở cấp xã.
Hai là, quy hoạch, xác định lâm phận các loại rừng ổn định
Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức rà soát, lập
quy hoạch ba loại rừng của địa phương; Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn phối
hợp với bộ Tài nguyên và Môi trường rà soát quy hoạch rừng ngập mặn ven biển đảm
bảo an toàn bảo vệ môi trường ven biển và phát triển nuôi trồng thủy sản hợp lý, tổng
hợp quy hoạch ba loại rừng quốc gia trình Thủ tướng Chính phủ phê diệt quy hoạch
tổng thể ba loại rừng toàn quốc.
Xác định ranh giới ba loại rừng trên bản đồ và thực địa, hoàn thành việc đóng cột
mốc, cắm biển báo ranh giới rừng đặc dụng và rừng phòng hộ đầu nguồn.
Ba là, hoàn thiện thể chế chính sách và pháp luật
Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ quản lý Nhà nước của các Bộ, Ngành, Ủy ban
nhân dân các cấp đối với công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Thiết lập cơ chế,
tổ chức quản lý rừng và đất lâm nghiệp theo ngành và liên ngành hợp lý để quản lý,
bảo vệ rừng có hiệu quả.
Bộ Nông Nghiệp và phát triển Nông thôn chủ trì, phối hợp với các Bộ, Ngành có
liên quan rà soát hệ thống hóa hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành về bảo

vệ và phát triển rừng, sửa đổi, bổ sung, xây dựng mới các văn bản quy phạm pháp luật
có liên quan đảm bảo quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ của chủ rừng, chính quyền
các cấp và người dân trong công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Trên cơ sở đó,
xây dựng chiến lược khung pháp lý về bảo vệ và phát triển rừng đến năm 2020, tạo
hành lang pháp lý ổn định trong hoạt động lâm nghiệp.
Bộ Nông Nghiệp và phát triển Nông thôn chủ trì xây dựng chính sách về bảo vệ
rừng theo hướng đảm bảo lợi ích của những người làm nghề rừng, những người trực
tiếp tham gia bảo vệ rừng, tạo động lực thu hút đầu tư cho công tác bảo vệ và phát
triển rừng.

18


Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung Ương tiếp tục rà soát và
sắp xếp các lâm trường quốc doanh, đồng thời triển khai ngay các phương án bảo vệ
rừng và đất lâm nghiệp thu hồi từ các lâm trường quốc doanh, không đẻ tình trạng
rừng trở thành vô chủ.Trao quyền tự chủ về kinh doanh và tài chính cho các nông, lâm
trường quốc doanh sau khi sắp xếp lại.
Bốn là, nâng cao trách nhiệm của chủ rừng, chính quyền các cấp và sự tham gia
của các ngành, các tổ chức xã hội vào bảo vệ rừng
Đối với chủ rừng:
Chủ rừng phải chịu trách nhiệm bảo vệ rừng được Nhà nước giao, cho thuê theo
quy định hiện hành của Pháp luật. Những chủ rừng quản lý trên 500 ha rừng phải có
lực lượng bảo vệ rừng của mình.
Xây dựng các chương trình, đề án bảo vệ rừng trên diện tích được giao, được
thuê, đảm bảo bố trí các nguồn lực không để rừng bị xâm hại trái pháp luật.
Đối với ủy ban nhân các cấp
Thực hiện nghiêm túc trách nhiệm quản lý Nhà nước về bảo vệ rừng theo quy
định tại Luật bảo vệ và phát triển rừng.
Tổ chức các lực lượng truy quét lâm tặc phá rừng tại địa phương

Ngăn chặn kịp thời các trường hợp khai thác, phá rừng và lấn chiếm đất rừng.
Chỉ đạo xử lý nghiêm khắc các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về bảo vệ
rừng và những người bao che, tiếp tay cho lâm tặc.
Tổ chức khôi phục lại diện tích rừng bị phá, lấn chiếm trái quy định của pháp luật
trong thời gian qua.
Tiến hành kiểm tra, cưỡng chế tất cả những người di cư tự do ra khỏi các vùng
rừng nguyên sinh, rừng đặc dụng, rừng phòng hộ.
Hoàn thành giao đất, giao rừng và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân
Đối với lực lượng công an
Bộ công an chỉ đạo công an các tỉnh, thành phố hỗ trợ và phối hợp thường xuyên
với lực lượng kiểm lâm trong công tác phòng cháy, chữa cháy rừng theo một cơ chế
thống nhất. Tổ chức điều tra, nắm bắt các đối tượng phá rừng, kinh doanh buôn bán
lâm sản trái phép, đặc biệt phải triển khai các biện pháp kiên quyết trừng trị thích
đáng, ngăn chặn triệt để các tình trạng chống người thi hành công vụ, phối hợp với các
19


lực lượng có liên quan truy quét bọn phá rừng và kiểm tra, kiểm soát lưu thông lâm
sản. Rà soát và xử lý dứt điểm các vụ án hình sự tồn đọng trong lĩnh vực bảo vệ rừng.
Đối với các tổ chức xã hội
Phối hợp với chính quyền các cấp xây dựng và tổ chức thực hiện các chương
trình tuyên truyền, vận động và giáo dục pháp luật về bảo vệ rừng cho các thành viên,
phát hiện, đấu tranh, phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật, tổ chức các phong
trào quần chúng tham gia bảo vệ và phát triển rừng.
Năm là, củng cố tổ chức, nâng cao năng lực của lực lượng kiểm lâm
Đổi mới tổ chức lực lượng kiểm lâm theo Luật bảo vệ và phát triển rừng để kiểm
lâm gắn với chính quyền, với dân, với rừng, thực hiện chức năng tham mưu cho chính
quyền địa phương, tổ chức bảo vệ rừng đặc dụng và rừng phòng hộ, bảo đảm chấp
hành pháp luật trong việc bảo vệ và phát triển rừng. Bố trí kiểm lâm địa bàn ở 100%

các xã có rừng để tham mưu cho chính quyền cơ sở trong công tác quản lý nhà nước
về lâm nghiệp, theo dõi chặt chẽ diễn biến rừng, kịp thời phát hiện, ngăn chặn ngay từ
đầu những vụ vi phạm.
Tăng cường trang thiết bị cho kiểm lâm gồm các phương tiện hoạt động phù hợp
với địa bàn vùng núi, hệ thống thông tin liên lạc, thiết bị phòng cháy, chữa cháy rừng.
Ban hành một số chính sách về kinh phí cho hoạt động nghiệp vụ, tiền lương, chế
độ thương binh, liệt sĩ, cơ chế sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ để trấn áp lâm tặc.
Lập kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, tổ chức các chương
trình trao đổi kinh nghiệm về công tác quản lý, bảo vệ rừng.
Sáu là, hỗ trợ nâng cao đời sống người dân
Đẩy mạnh việc giao rừng và đất lâm nghiệp, khoản bảo vệ rừng cho các hộ gia
đình, cộng đồng dân cư sống chủ yếu bằng nghề lâm nghiệp, đặc biệt là đối với đòng
bào dân tộc khu vực Tây Nguyên và Tây Bắc, đồng thời hoanfc thành việc cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho các chủ rừng.
Sớm hoàn thành chủ trương giải quyết đất ở, đất sản xuất, hỗ trợ nhà ở cho đồng
bào dân tộc đang gặp nhiều khó khăn, gắn với các chương trình mục tiêu quốc gia về
xóa đói giảm nghèo, chương trình định canh định cư, quy hoạch và tổ chức các dự án
ổn định vùng kinh tế mới để người dân có thu nhập từ sản xuất, sớm ổn định cuộc
sống, giảm bớt sự lệ thuộc vào thu nhập từ các hoạt động khai thác rừng trái pháp luật.
Bảy là, xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư trang thiết bị bảo vệ rừng
20


Lắp đặt và khai thác có hiệu quả trạm thu ảnh viễn thám phục vụ cho công tác dự
báo, cảnh báo cháy rừng và theo dõi diễn biến rừng.
Xây dựng các công trình phòng cháy, chữa cháy rừng, bảo vệ rừng ở các khu
rừng đặc dụng, phòng hộ, các vùng trọng điểm đã được xác định về phá rừng và cháy
rừng.
Đầu tư xây dựng các Trung tâm huấn luyện, đào tạo chuyên ngành cho lực lượng
bảo vệ rừng.

Trang bị phương tiện đáp ứng yêu cầu công tác hiện trường cho các Hạt kiểm
lâm trên toàn quốc, trước mắt tập trung đầu tư cho các hạt kiểm lâm ở những vùng
trọng điểm.
Tám là, ứng dụng khoa học công nghệ
Ứng dụng công nghệ tin học, GIS, viễn thám vào công tác quản lý bảo vệ rừng,
theo dõi diễn biến rừng và đất lâm nghiệp.
Thiết lập và sử dụng có hiệu quả mạng máy tính chuyên ngành, xây dựng phần
mềm quản lý, theo dõi diễn biến tài nguyên rừng và các vụ vi phạm pháp luật bảo vệ
và phát triển rừng.
Chín là, tăng cường hợp tác quốc tế
Triển khai thực hiện tốt các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Thu hút các nguồn vốn ODA và các hỗ trợ kĩ thuật của cộng đồng quốc tế cho
công tác bảo vệ rừng.
Xây dựng và thực hiện các thỏa thuận song phương về hợp tác bảo vệ rừng liên
biên giới với các nước Lào và Campuchia.

21


C. KẾT LUẬN
Trong những năm qua, chúng ta đã nhận thức rất rõ các nguyên nhân gây ra mất
rừng và suy thoái rừng và đã có rất nhiều nỗ lực để giải quyết vấn đề này tuy nhiên
chưa thật sự hiệu quả. Các quy định của pháp luật chưa làm rõ cơ chế thực hiện các
quyền định đoạt của Nhà nước với vai trò là đại diện chủ sở hữu đối với rừng tự nhiên
và các quyền, nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân khi được Nhà nước giao, cho thuê
rừng tự nhiên; nên chưa tạo điều kiện phát huy tính tự chủ trong sản xuất kinh doanh
và thu hút mạnh mẽ đầu tư vào nghề rừng; cơ chế chính sách hưởng lợi từ rừng còn
nhiều bất cập, chưa tính đến các giá trị dịch vụ môi trường rừng.
Hiện nay giá trị của rừng vẫn chưa được tính toán một cách đầy đủ và người dân
vẫn chưa yên tâm sống bằng nghề rừng cũng như tích cực tham gia quản lý và sử dụng

rừng bền vững. Hệ quả tất yếu là áp lực lên tài nguyên rừng hiện có ngày càng tăng,
hiện tượng mất rừng và suy thoái rừng vẫn còn tiếp diễn ở nhiều nơi. Nếu giá trị của
rừng được đánh giá và được lượng hóa một cách đầy đủ (cả giá trị về gỗ, lâm sản
ngoài gỗ và giá trị bảo vệ môi trường …) thì đó sẽ là cơ sở quan trọng để so sánh giữa
lợi ích của việc bảo vệ và phát triển rừng với lợi nhuận thu được từ các hoạt động
chuyển đổi rừng sang các mục đích sử dụng khác. Đó cũng là căn cứ để xây dựng một
chính sách khuyến khích đủ mạnh để ngăn chặn mất rừng và suy thoái rừng.
Nhà nước cần phải chú trọng hơn nữa và nâng cao trách nhiệm của các cơ quan,
tổ chức, cá nhân đặc biệt là chủ rừng trong nuôi trồng, khai thác, bảo vệ rừng. Từng
bước xây dựng hệ thống pháp luật chặt chẽ, đầu tư các trang thiết bị hiện đại, có chủ
trương, kế hoạch phù hợp với điều kiện thực tiễn nhằm sử dụng hợp lý và hiệu quả tài
nguyên rừng...
Không chỉ Nhà nước, chủ rừng mới có nghĩa vụ bảo vệ và phát triển rừng mà
mỗi người dân Việt Nam chúng ta cần cùng nhau hành động trong việc giữ gìn, bảo vệ
và phát triển rừng, lên tiếng phê phán, tố giác những hành vi vi phạm pháp luật để bảo
vệ chính cuộc sống của chúng ta.

22


D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004
Luật Đất đai 2004
Nghị định số 23/2006 Về thi hành Luật Bảo vệ và phát triển rừng
Quyết định số 38/2016 Về việc ban hành một số chính sách bảo vệ, phát triển
rừng và đầu tư hỗ trợ kết cấu hạ tầng, giao nhiệm vụ công ích đối với các công ty
nông, lâm nghiệp
Quy chế quản lý rừng sản xuất (Ban hành kèm theo Quyết định số 49/2016/QĐTTg ngày 01 tháng 11 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ)
Quy chế quản lý rừng phòng hộ (Ban hành kèm theo Quyết định số 17/2015/QĐTTg ngày 09 tháng 6 năm 2015 của Thủ tướng Chính phủ)
Nghị định số 117/2010 Về tổ chức và quản lý hệ thống rừng đặc dụng


23



×