Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

Luan van chuyen de quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá sản chuan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.2 KB, 61 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Xây dựng nền kinh tế thị trường, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần là con đường tất yếu để Việt Nam tiến lên Chủ nghĩa xã hội. Từ sau Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, với chủ trương xóa bỏ cơ chế tập trung, quan
liêu, bao cấp xây dựng một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản
lý của Nhà nước nền kinh tế thị trường đã hình thành và phát triển ở nước ta
rất phong phú, đa dạng với nhiều loại hình doanh nghiệp. Bên cạnh đó do sự
tác động của các quy luật kinh tế như quy luật cạnh tranh, quy luật giá trị, quy
luật cung cầu,... trong nền kinh tế nước ta cũng đã nảy sinh nhiều hiện tượng
hay quan hệ kinh tế vốn không tồn tại trong cơ chế kế hoạch hóa. Một trong
những hiện tượng đó là sự phá sản của các doanh nghiệp.
Khi một doanh nghiệp bị phá sản sẽ kéo theo những hậu quả nhất định
như sự xáo trộn trong nền sản xuất, ảnh hưởng đến công ăn, việc làm của
người lao động, đến lợi ích chung của Nhà nước và xã hội. Do đó, để đảm
bảo, duy trì mối quan hệ hài hòa giữa những lợi ích nêu trên, đòi hỏi chúng ta
phải có một cơ chế pháp lý thống nhất và chặt chẽ.
Ngay từ khi Đảng và Nhà nước xác định chủ trương xây dựng nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, đạo luật phá sản đầu
tiên của nước CHXHCN Việt Nam đã được ban hành năm 1993 để đáp ứng
nhu cầu điều chỉnh pháp luật đó. Tuy nhiên, trong 10 năm thực hiện Luật phá
sản doanh nghiệp 1993 (Luật PSDN (1993) đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết.
Luật phá sản năm 2004 (2004) ra đời tưởng chừng như đã khắc phục được
những hạn chế của Luật PSDN 1993. Thế nhưng, sau hơn 3 năm thi hành, số
lượng các vụ việc phá sản được thụ lý vẩn ở mức rất khiêm tốn: tổng cộng chỉ
có gần 60 hồ sơ được thụ lý ở cả ba khu vực Thành phố Hồ Chí Minh, Hà
Nội, Đà Nẵng. Điều đó không có nghĩa là môi trường kinh doanh trong nước
hết sức lành mạnh mà phản ánh rằng các doanh nghiệp đang lâm vào tình
trạng phá sản vẫn chưa tìm thấy ở pháp luật phá sản hiện hành một cơ sở
vững chắc để bảo vệ quyền lợi cho mình.
1
Bên cạnh đó, tháng 12 năm 2006 Việt Nam trở thành thành viên của tổ


chức thương mại thế giới WTO, chính thức tham gia vào sân chơi thương mại
mang tính toàn cầu. Sự hội nhập với các nền kinh tế lớn cũng sẽ kéo theo hệ
quả không thể tránh khỏi của quy luật cạnh tranh khắc nghiệt, khi các doanh
nghiệp Việt Nam đa phần là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ông Jan Noether,
Trưởng đại diện Phòng thương mại và công nghiệp Đức tại Việt Nam đã phát
biểu: “Vào WTO đồng nghĩa với những vụ phá sản hàng loạt và thất nghiệp
trong giai đoạn đầu”. Điều này cũng có nghĩa là yêu cầu hoàn thiện cơ chế
pháp lý bảo vệ quyền lợi cho đối tượng này càng trở nên cấp thiết.
Do vậy, nghiên cứu về thủ tục phá sản để làm sáng tỏ quyền và nghĩa vụ
của chủ nợ và con nợ là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn để hoàn thiện
pháp luật phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế trong nước và môi trường
kinh tế quốc tế.
Vì vậy, tôi quyết định chọn đề tài: “Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và
con nợ trong thủ tục phá sản” làm Luận văn tốt nghiệp của mình.
Luận văn được kết cấu gồm ba chương không kể lời nói đầu, kết luận và
danh mục tài liệu tham khảo.
Chương I: Khái quát chung về phá sản và pháp luật phá sản.
Chương II: Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá
sản.
Chương III: Thực trạng giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản và một số
kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật phá sản.
Với trình độ còn nhiều hạn chế cũng như kinh nghiệm nghiên cứu chưa
nhiều cho nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tôi rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy, cô giáo và tất cả các bạn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
2
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁ SẢN VÀ PHÁP LUẬT PHÁ SẢN
1.1. Quan niệm về phá sản
1.1.1. Quan niệm về phá sản theo pháp luật của một số quốc gia trên

thế giới.
Danh từ phá sản được bắt nguồn từ chữ "Ruin" trong tiếng Latinh có
nghĩa là "sự kháng tận". Khái niệm này dùng để chỉ sự mất cân đối giữa thu
và chi của một doanh nghiệp. Ở Châu Âu khi nói đến phá sản người ta thường
dùng danh từ "Bankrupcy" trong tiếng Anh hoặc "Banqueroute" trong tiếng
Pháp. Cả hai danh từ này đều bắt nguồn từ chữ "Bancanetta" của Lamã, có
nghĩa là "chiếc ghế bị gãy". Ở thời Lamã các thương gia ở thành phố thường
họp nhau lại để xem xét việc làm ăn và công nợ. Người nào mất khả năng
thanh toán công nợ sẽ bị mất quyền tham gia đại hội thương gia và ghế của họ
cũng bị đem ra khỏi hội trường.
Theo Luật phá sản nhiều nước trên thế giới thì phá sản là tình trạng một
doanh nghiệp không có khả năng nộp thuế, không có khả năng thanh toán
công nợ trong một thời gian nhất định. Tuy nhiên việc quan niệm thế nào là
mất khả năng thanh toán nợ ở các quốc gia khác nhau cũng rất khác nhau. Có
nhiều nước quy định rõ chỉ số nợ đến hạn chưa được thanh toán để xác định
doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng phá sản nhưng ở đại đa số nước thì vấn đề
định lượng khoản nợ như vậy thường không được đặt ra.
* Luật phá sản Hungari ban hành năm 1991 quy định nếu doanh nghiệp
bị rơi vào một trong các trường hợp sau đây đều bị xếp vào loại không có khả
năng thanh toán.
+ Sau 60 ngày không trả được lương cho cán bộ công nhân viên của
mình hoặc quá hạn 30 ngày không trả được nợ cho các chủ nợ mà con nợ
không thảo luận với các chủ nợ hoặc thấy trước khả năng thanh toán các
khoản nợ đến hạn trong vòng một năm.
+ Đã có lệnh buộc phải trả nợ nay hết hạn nhưng vẫn chưa trả được nợ.
3
+ Không thực hiện đúng cam kết với các chủ nợ trước pháp luật.
* Luật phá sản của Singapo ban hành năm 1985 thì các con nợ bị rơi vào
một trong các tình trạng sau thì đều bị coi là phá sản.
+ Nếu con nợ cố ý gian lận để chuyển giao, chuyển nhượng, biếu xén hay

tẩu tán một phần hay toàn bộ tài sản của mình ở Singapore hoặc ở nước khác.
+ Nếu bị tuyên bố phá sản mà con nợ chuyển giao hay chuyển nhượng
một phần hay toàn bộ tài sản của mình ở Singapore hay ở nước ngoài cho
người khác hay cố tạo các khoản chi phí mà pháp luật hiện hành coi là giả
mạo không hợp pháp.
+ Nếu con nợ bị tòa án quận huyện hay cấp trên xử phạt bằng cách tịch
thu tài sản và chịu án phí 500 đô la (tiền Singapore).
+ Nếu con nợ báo tin cho chủ nợ rằng anh ta hủy bỏ hoặc trì hoãn công nợ.
+ Nếu con nợ điều đình xin khất nợ với hai chủ nợ trở lên hoặc đưa ra kế
hoạch trả nợ nhưng trong vòng 14 ngày sau khi cam kết trả nợ, kế hoạch ấy
vẫn chưa được đăng ký trước Tòa án đúng như chế độ thanh toán công nợ
hiện hành.
+ Nếu chánh án hay nhân viên Tòa án cấp quận huyện tiến hành kiểm kê
tài sản thấy rằng con nợ không còn tài sản để tịch thu. Và như vậy ngày Tòa
án hết lệnh kiểm kê được coi là ngày doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản.
Nếu trước Tòa án con nợ xin phá sản hoặc tuyên bố phá sản.
* Luật phá sản Australia đưa ra một số căn cứ để dựa vào đó quyết định
tuyên bố phá sản.
+ Khi số tiền mặt của doanh nghiệp cộng với giá trị tài sản không thuộc
loại có ý nghĩa sống còn đối với doanh nghiệp và khả năng dễ chuyển nhượng
mà nhỏ hơn tổng số nợ không có bảo đảm thì coi như doanh nghiệp đã lâm
vào tình trạng phá sản.
+ Khi nhận giấy đòi nợ với số lượng lớn mà con nợ không đưa ra được
bằng chứng nào trước tòa về khả năng thanh toán món nợ. Do chính luật sư
của doanh nghiệp mắc nợ đưa ra rằng doanh nghiệp không có khả năng thanh
4
toán nợ đến hạn. Nếu chủ doanh nghiệp không đưa ra sự phản đối có cơ sở
thuyết phục.
+ Khi thẩm phán có thông tin cho rằng nhiều séc của doanh nghiệp bị
Ngân hàng từ chối thanh toán. Trong trường hợp này nếu muốn Toà án không

ra quyết định tuyên bố phá sản thì doanh nghiệp phải chứng minh trước Tòa
là séc này có thể thanh toán được.
+ Khi doanh nghiệp đang khó khăn về tài chính mà tất cả các chủ nợ có
bảo đảm lại đòi đối xử với các vật bảo đảm, thẩm phán có thể ra quyết định
phá sản với doanh nghiệp nào là vì có thể rõ ràng suy đoán rằng do không trả
được nợ nên các chủ nợ mới tước đi các vật cầm cố, thế chấp.
+ Khi một doanh nghiệp không thực hiện được yêu cầu của thẩm phán
về việc thanh toán một món nợ nào đó theo thủ tục pháp lý thông thường, tức
là khi còn nợ người khác mà có lệnh trả nợ của thẩm phán mà con nợ vẫn
không thi hành đó chính là dấu hiệu mất khả năng thanh toán.
* Luật phá sản Bỉ quy định một doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
nợ là doanh nghiệp không trả được nợ đến hạn, bị mất uy tín về tài chính, tức
là không còn đủ tài sản để đảm bảo các số nợ của mình hoặc kiếm cách trả nợ
bằng phương pháp bất thường. Đối với cá nhân thì luật không phân biệt.
* Luật không có khả năng thanh toán và luật treo giò giám đốc của Anh
ban hành năm 1986 thì các doanh nghiệp có giá trị tài sản thấp hơn số nợ phải
trả (hiện tại và tương lai) đều bị xếp vào loại không có khả năng thanh toán.
Nhưng ở Anh không có khả năng thanh toán không có nghĩa là doanh nghiệp
bị xếp vào loại phá sản, mà ở nước này còn dành một thời gian để khôi phục
doanh nghiệp, sau thời gian này nếu doanh nghiệp không trở lại hoạt động
bình thường được và không trả được nợ thì sẽ bị tuyên bố phá sản.
1.1.2. Quan niệm về phá sản theo pháp luật Việt Nam.
Ở nước ta, khái niệm phá sản mới xuất hiện sau thời kỳ đổi mới cơ chế
kinh tế. Văn bản pháp lý đầu tiên liên quan đến giải quyết tình trạng doanh
nghiệp thua lỗ không có khả năng thanh toán đó là Quyết định số 315 HĐBT
ngày 01/09/1990 của Hội đồng Bộ trưởng. Tại khoản 4 Điều 3 của quyết định
5
số 315 HĐBT ngày 01/09/1990 quy định: “Đối với các đơn vị kinh doanh
thua lỗ kéo dài nhiều năm thì bộ và địa phương phải lập danh sách đầy đủ,
tiến hành phân loại theo mức độ quan trọng của các sản phẩm và dịch vụ do

đơn vị tạo ra và theo mức độ kém hiệu quả của các đơn vị. Từ đó tìm biện
pháp để hỗ trợ cho đơn vị hoạt động sáp nhập vào xí nghiệp khác hoặc chuyển
thành các tổ chức kinh tế tập thể. Nếu đã thực hiện các biện pháp chấn chỉnh
trên mà vẫn không có hiệu quả tiếp tục thua lỗ không có khả năng trả nợ thì
cho phép giải thể . . ."
Như vậy Quyết đính số 315 HĐBT 01/09/1990 đã đề cập đến những doanh
nghiệp kinh doanh thua lỗ không có khả năng thanh toán (bản chất là phá sản).
Tuy nhiên những doanh nghiệp thuộc diện này theo Quyết định số 315 HĐBT chỉ
cho phép giải thể. Khái niệm phá sản lúc này vẫn chưa được đặt ra.
Đến luật doanh nghiệp tư nhân và luật Công ty được Quốc hội thông qua
ngày 21/12/1990 thì khái niệm phá sản mới chính thức được đề cập tới. Theo
tinh thần quy định tại Điều 24 luật Công ty ngày 21/12/1990 và Điều 17 Luật
doanh nghiệp tư nhân ngày 21/12/1990 thì khi doanh nghiệp tư nhân hoặc
Công ty (gọi chung là doanh nghiệp) gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt
động kinh doanh đến mức tại một thời điểm tổng số giá trì các tài sản còn lại
của doanh nghiệp không đủ thanh toán các khoản nợ đến hạn, là doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản.
Quan niệm về doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản như cách tiếp cận
của Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty đã không đảm bảo được sự bao
quát cần thiết. Thực tiễn phá sản ở các nước trên thế giới cho thấy có thể một
doanh nghiệp tại một thời điểm nào đó giá trị tổng số còn lại của doanh nghiệp
nhỏ hơn tổng số nợ đến hạn nhưng chưa chắc đã đưa doanh nghiệp đó đến tình
trạng phá sản, nếu như nợ đến hạn doanh nghiệp đó vẫn thanh toán được đều đặn
(tức là không có dấu hiệu ngừng thanh toán nợ). Ngược lại sẽ có không ít những
doanh nghiệp tài sản lớn hơn và thậm chí lớn hơn rất nhiều so với nợ đến hạn
nhưng vẫn bị Toà án tuyên bố phá sản nếu như các khoản nợ đó doanh nghiệp
không có khả năng thanh toán (ngừng thanh toán).
6
Trong quá trình nghiên cứu để ngày càng hoàn thiện nhận thức về phá
sản doanh nghiệp, khắc phục hạn chế này của Luật doanh nghiệp tư nhân và

Luật Công ty, Điều 2 Luật phá sản doanh nghiệp ngày 30/12/1993 quy định:
“doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc
bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh sau khi đã áp dụng các biện pháp tài
chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn”. Theo quy định
này thì dấu hiệu "mất khả năng thanh toán nợ đến hạn" là dấu hiệu đặc trưng
cơ bản nhất để xác định doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, còn dấu
hiệu “đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết” chỉ là những dấu hiệu bổ
sung cho việc xác định doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Các dấu hiệu
xác định doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản đã được quy định chi tiết
tại Điều 3 của Nghị định số 189 CP ngày 23/12/1994 của Chính phủ. Cụ thể:
(1) Doanh nghiệp được coi là có dấu hiệu lâm vào tình trạng phá sản nói
tại Điều 2 của Luật phá sản doanh nghiệp, nếu kinh doanh bị thua lỗ trong 2
năm liên tiếp đến mức không trả được các khoản nợ đến hạn, trong 3 tháng
liên tiếp không trả đủ lương cho người lao động theo thỏa ước lao động tập
thể và hợp đồng lao động.
(2) Khi xuất hiện dấu hiệu lâm vào tình trạng phá sản như trên, doanh
nghiệp phải áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết để khắc phục tình trạng
mất khả năng thanh toán nợ đến hạn như: Có phương án tổ chức lại sản xuất
kinh doanh, quản lí chặt chẽ các khoản chi phí, tìm thị trường tiêu thụ sản
phẩm; có biện pháp xử lí hàng hóa, sản phẩm, vật tư tồn đọng; thu hồi các
khoản nợ và tài sản bị chiếm dụng; thương lượng với các chủ nợ để hoãn,
mua, bảo lãnh, giảm và xóa nợ; tìm kiếm các khoản tài trợ và các khoản vay
để trang trải các khoản nợ đến hạn và đầu tư đổi mới công nghệ.
(3) Sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết trên đây mà
doanh nghiệp vẫn gặp khó khăn, không khắc phục được tình trạng mất khả
năng thanh toán nợ đến hạn thì doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng phá sản và
phải xử lí theo quy định của Luật phá sản doanh nghiệp.
7
Như vậy, theo Luật PSDN, chỉ có thể áp dụng thủ tục phá sản đối với
một doanh nghiệp khi đã lâm vào tình trạng phá sản, tức là phải có đầy đủ 3

điều kiện trên.
Có thể nhận thấy rằng Luật PSDN và Nghị định số 189/CP (1994) đã có
những quy định khá chặt chẽ về điều kiện để xác định doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản. Tuy nhiên, với những quy định chặt chẽ như vậy, pháp luật
phá sản đã đi theo hướng thủ tục phá sản được áp dụng là để xử lý tài sản của
con nợ hơn là để phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Bởi vì,
trên thực tế, chờ cho đến lúc hội đủ các điều kiện trên mới mở thủ tục giải
quyết yêu cầu tuyên bố phá sản thì doanh nghiệp sẽ không có một khả năng
tài chính nào để khôi phục lại doanh nghiệp của mình và lúc đó nếu mở thủ
tục phá sản cũng chỉ để thanh lý, chứ không phải để khôi phục doanh nghiệp.
Như vậy, một mục đích quan trọng của việc ban hành Luật PSDN (tạo điều
kiện cho doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản khôi phục hoạt động kinh
doanh, nhằm trở lại thương trường) đã không đạt được.
Nhằm khắc phục hạn chế này, Luật phá sản năm 2004 quy định theo
hướng đơn giản hóa tiêu chí xác định tình trạng phá sản, tôn trọng quyền thỏa
thuận so với Luật phá sản năm 1993
1
, theo Điều 3 thì “doanh nghiệp, hợp tác
xã không có khả năng thanh toán được các khoản nợ khi chủ nợ yêu cầu thì
coi là lâm vào tình trạng phá sản”. Như vậy, tiêu chí này đã được quy định
đơn giản hơn trước, dễ thực hiện vì không căn cứ vào thời gian thua lỗ,
nguyên nhân của tình trạng thua lỗ, tạo điều kiện cho việc sớm mở thủ tục phá
sản, cũng như tạo khả năng phục hồi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của
doanh nghiệp, hợp tác xã, điều đó có ý nghĩa quan trọng, bởi nếu xác định
tình trạng này muộn sẽ có rất ít cơ hội thành công, cho dù đó là thủ tục thanh
toán hay là tình trạng phục hồi.
Qua khái niệm trên ta thấy dấu hiệu để xác định doanh nghiệp, hợp tác
xã (DN, HTX) lâm vào tình trạng phá sản là DN, HTX đó không có khả năng
thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu và như quy định
1

Theo Tô Nguyễn Cẩm Anh, tạp chí Nhà nước và pháp luật năm 2005 (Số 6/2005), tr33.
8
tại Mục 2 – Chương I – Nghị quyết số 03/2005/NQ-HĐTP ngày 28/04/2005
thì việc không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ
đã có yêu cầu thanh toán được hiểu cụ thể như sau:
- Có các khoản nợ đến hạn:
Các khoản nợ đến hạn phải là các khoản nợ không có bảo đảm hoặc có
bảo đảm một phần (chỉ tính phần không có bảo đảm) đã rõ ràng được các bên
xác nhận, có đầy đủ giấy tờ, tài liệu để chứng minh và không có tranh chấp.
- Chủ nợ đã có yêu cầu thanh toán nhưng doanh nghiệp, hợp tác xã
không có khả năng thanh toán.
Yêu cầu của chủ nợ thanh toán các khoản nợ đến hạn phải có căn cứ
chứng minh là chủ nợ đã có yêu cầu, nhưng không được doanh nghiệp, hợp
tác xã thanh toán (như văn bản đòi nợ của chủ nợ, văn bản khất nợ của doanh
nghiệp, hợp tác xã. . .)
Nghiên cứu dấu hiệu mất khả năng thanh toán nợ đến hạn, về phương
diện lí luận cũng như thực tiễn cần xem xét một số khía cạnh cụ thể sau:
Thứ nhất, mất khả năng thanh toán không có nghĩa là DN, HTX hoàn
toàn cạn kiệt tài sản. Doanh nghiệp có thể còn rất nhiều tài sản mà vẫn mất
khả năng thanh toán, chỉ vì tài sản đó không thể bán được, cho nên doanh
nghiệp không có tiền để thanh toán các khoản nợ.
Thứ hai, mất khả năng thanh toán không chỉ là hiện tượng doanh nghiệp
không thanh toán được nợ mà nó còn thể hiện doanh nghiệp đang lâm vào
tình trạng tài chính tuyệt vọng, trừ phi có sự can thiệp của tòa án hoặc sự giúp
đỡ của các chủ nợ.
Thứ ba, đối với doanh nghiệp tư nhân, nếu trong hoạt động sản xuất kinh
doanh có giao kết bất kì hợp đồng nào mà sau đó phát sinh ra các khoản nợ
thì các khoản nợ này được coi là cơ sở để đánh giá tình trạng phá sản của
doanh nghiệp. Nhưng ở đây cũng cần phân biệt với các khoản nợ cho do chủ
doanh nghiệp tư nhân xác lập trên cơ sở những hợp đồng phục vụ cho sinh

hoạt cá nhân hoặc gia đình họ vì nó không xuất phát từ hoạt động sản xuất
kinh doanh.
9
Thứ tư, pháp luật không nhất thiết quy định cụ thể mất khả năng thanh
toán một khoản nợ bao nhiêu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản, bởi vì tình
hình tài chính trong các doanh nghiệp rất khác nhau, có thể có những doanh
nghiệp nợ vài ba chục triệu nhưng không có cách gì để trả, trong lúc có những
doanh nghiệp nợ tới vài ba trăm triệu vẫn có khả năng thanh toán bình
thường.
Thứ năm, bản chất của việc mất khả năng thanh toán có thể không trùng
với biểu hiện bên ngoài là trả được nợ hay không. Trong nền kinh tế thị
trường hiện nay, nhiều doanh nghiệp không trả được nợ nhưng điều này chỉ
có tính chất nhất thời trong khi mọi hoạt động của doanh nghiệp vẫn diễn ra
bình thường. Ngược lại, có những doanh nghiệp sự trả nợ chỉ là trá hình, che
đậy tình trạng tài chính tuyệt vọng của doanh nghiệp, họ phải sử dụng nhiều
phương tiện gian trá để bù đắp ngân quỹ như vay nặng lãi, thế chấp tài sản
nhiều lần để vay vốn ngân hàng . . .
2
Do đó, về cơ bản khi con nợ ngừng trả nợ thì coi như đã lâm vào tình
trạng phá sản và lúc đó, các chủ nợ đã có cơ sở pháp lí để làm đơn yêu cầu
Toà án thụ lý và giải quyết vụ việc phá sản mà họ là nguyên đơn.
Tóm lại, theo quy định của pháp luật Việt Nam, phá sản là khái niệm
dùng để chỉ doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản với dấu hiệu đặc trưng
nhất là mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Tuy nhiên, doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản chưa hẳn đã bị phá sản. DN, HTX lâm vào tình trạng phá
sản chỉ được coi là bị phá sản khi đã tiến hành thủ tục tuyên bố phá sản.
1.2. Sự tác động của phá sản và vai trò của pháp luật phá sản trong
nền kinh tế thị trường.
1.2.1. Sự tác động của phá sản trong nền kinh tế thị trường.
Phá sản là một hiện tượng tất yếu trong nền kinh tế thị trường nó là hiện

tượng thường kéo theo những hiệu quả kinh tế xã hội nhất định nó tác động
đến nhiều mặt của đời sống kinh tế xã hội và pháp luật.
* Về mặt tiêu cực:
2
Giáo trình Luật Thương Mại, trường Đại học Luật Hà Nội.
10
Phá sản thường gây ra những xáo trộn ảnh hưởng đến việc phát triển sản
xuất ổn định đời sống, đến việc làm và thu nhập của người lao động.
Nhìn nhận một cách tổng quát từ các nước có nền kinh tế phát triển đến
các nước chậm phát triển thì vấn đề nạn thất nghiệp của người lao động là
một vấn đề nổi cộm, rất nhiều quốc gia tìm cách hạn chế khắc phục nó, nhưng
nhìn chung vấn đề này là một vấn đề khó giải quyết. Có nhiều nguyên nhân
dẫn đến thất nghiệp nhưng có lẽ phá sản là nguyên nhân không nhỏ dẫn tới
đội quân thất nghiệp ngày càng kéo dài thêm mãi gây biết bao hậu quả không
lường cho xã hội. Đối với bản thân người lao động, phá sản doanh nghiệp làm
cho họ mất việc làm, mất thu nhập, phá sản ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống,
đến miếng cơm manh áo của chính bản thân họ và gia đình họ. Vì vậy, để
khắc phục tình trạng này nhiều quốc gia đã có những biện pháp tích cực để
hạn chế những ảnh hưởng xấu của phá sản doanh nghiệp đến đời sống người
lao động như bồi thường thiệt hại cho người thất nghiệp, trả lương bảo hiểm,
đào tạo họ để có thể đảm đương một công việc khác.
Bên cạnh những tác động tiêu cực trên ta còn thấy phá sản có nhiều tác
động tiêu cực đến sự phát triển kinh tế. Mỗi doanh nghiệp khi bị phá sản thì
doanh nghiệp khác là bạn hàng của doanh nghiệp cũng chịu ảnh hưởng theo
kiểu dây chuyền người không bán được hàng kẻ không cung cấp được sản
phẩm của mình (nếu doanh nghiệp bị phá sản trước đây mua sản phẩm của
mình) hoặc không có nguyên vật liệu cho sản xuất (nếu doanh nghiệp phá sản
bán nguyên vật liệu cho họ), mặt khác chủ nợ của doanh nghiệp sẽ không đòi
được nợ dẫn tới không có vốn đầu tư vào sản xuất hoặc trang trải các khoản
nợ mà họ vay các chủ nợ khác. Đặc biệt, trong trường hợp doanh nghiệp bị

phá sản là những doanh nghiệp lớn thì ảnh hưởng của nó đến phát triển kinh
tế là rất tồi tệ. Xét trường hợp nếu các ngân hàng hoặc công ty tài chính lớn bị
phá sản thì lẽ tất nhiên ảnh hưởng của nó là không thể lường trước được. Vì
trong hệ thống ngân hàng nếu một ngân hàng lớn bị phá sản đương nhiên
những ngân hàng khác bị ảnh hưởng theo dẫn tới tình hình sản xuất kinh
11
doanh bị ảnh hưởng theo. Có thể nói rằng, một doanh nghiệp bị phá sản sẽ là
nguy cơ tiềm tàng đối với một doanh nghiệp .
* Về mặt tích cực:
Chúng ta có thể khẳng định rằng, phá sản không chỉ có những ảnh
hưởng tiêu cực mà nó còn có những ảnh hưởng tích cực đến nhiều mặt đời
sống kinh tế xã hội.
Xét về mặt kinh tế thì phá sản là một giải pháp hữu hiệu để “cơ cấu lại”
nền kinh tế, có thể ví phá sản như vườn dọn sạch cỏ dại để cây trồng phát
triển, phá sản góp phần hình thành duy trì sự tồn tại của những doanh nghiệp
đủ sức đứng vững trong điều kiện cạnh tranh ngày càng nghiệt ngã. Phá sản
giữ một vai trò đặc biệt quan trọng để loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn
kém hiệu quả, kinh nghiệm quản lý tồi ra khỏi nền kinh tế, giữ lại những
doanh nghiệp mà ở chúng sức cạnh tranh tốt hơn, làm ăn có lãi hơn. Thực tế
đã chứng minh rằng trong nền kinh tế thị trường chỉ tồn tại những doanh
nghiệp làm ăn có hiệu quả, sự cạnh tranh bao giờ cũng mang lại kết cục
nghiệt ngã nhưng nó lại là quy luật muôn thủa của nền kinh tế thị trường nơi
mà ở đó lợi nhuận là trung tâm cạnh tranh là động lực.
Bên cạnh những ảnh hưởng đã trình bày ở trên phá sản còn tác động đến
nhiều ngành luật như Dân luật, Hình luật... bởi vì khi tiến hành giải quyết yêu
cầu tuyên bố phá sản nó liên quan đến nhiều vấn đề khác nhau, nhiều các
quan hệ xã hội khác nhau mà chúng là đối tượng điều chỉnh của nhiều ngành
luật khác nhau. Chẳng hạn như khi các doanh nghiệp bị phá sản thường Tòa
án xét xử các vụ tranh chấp về công nợ giữa chủ nợ và con nợ nếu chúng
không thỏa thuận được với nhau và như vậy phá sản liên quan đến Dân luật,

hoặc trong trường hợp con nợ cố tình gian lận trong phá sản phải chịu trách
nhiệm hình sự. Theo quy định khoản 3 Điều 8 Luật phá sản (2004), trong quá
trình tiến hành thủ tục phá sản nếu phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì Thẩm
phán cung cấp tài liệu cho Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) cùng cấp để
xem xét khởi tố về hình sự, ở đây rõ ràng phá sản đã liên quan đến Hình luật...
12
Tóm lại, phá sản là một hiện tượng phức tạp nhiều khi nó làm ảnh hưởng
lớn đến nền chính trị như vụ phá sản của tập đoàn viễn thông Worldcom năm
2005 vừa qua. Tuy nhiên, trong từng lĩnh vực riêng phá sản cũng giải quyết
được một số vấn đề lớn về kinh tế và xã hội, đó cũng là một giải pháp hữu ích
để giúp doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng nặng về cả vật chất lẫn tinh thần,
tránh tình trạng gây sức ép cho các con nợ. Trong nền kinh tế thị trường cần
phải xem xét phá sản là hiện tượng lành mạnh tất yếu, nó là một sản phẩm của
nền kinh tế thị trường và nền kinh tế này chấp nhận nó là một lẽ đương nhiên.
1.2.2. Vai trò của pháp luật phá sản trong nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường yếu tố cạnh tranh là sự sống còn và thúc
đẩy nền kinh tế phát triển. Bên cạnh đó nền kinh tế thị trường đã để lại đằng
sau những hậu quả ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế - chính trị xã hội, một
trong những vấn đề đó liên quan đến hiện tượng phá sản. Vì vậy pháp luật phá
sản có vai trò hết sức quan trọng, không những bảo vệ lợi ích chính đáng của
những chủ thể tham gia quan hệ phá sản mà còn góp phần tăng cường ổn định
trật tự xã hội thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
* Vai trò bảo vệ lợi ích chính đáng của chủ nợ.
Khi mới hình thành, Luật phá sản chủ yếu được áp dụng cho các thương
gia nhằm bảo vệ lợi ích của các chủ nợ. Ví dụ: Luật phá sản đầu tiên của nước
Anh đã quy định nhiều biện pháp rất nghiêm ngặt, kể cả bỏ tù con nợ.
Đồng thời với quá trình dân chủ hóa các hoạt động kinh tế, nhất là xu
thế mở rộng quyền tự do và bình đẳng trong kinh doanh, pháp luật về phá sản
ngày càng có xu hướng nhân đạo hóa các biện pháp áp dụng đối với chủ
doanh nghiệp bị phá sản, phát triển các quy định nhằm bảo vệ lợi ích của các

con nợ. Tuy nhiên lợi ích của các chủ nợ vẫn là mục tiêu bảo vệ hàng đầu.
Sự bảo vệ của pháp luật về phá sản đối với các chủ nợ thể hiện ở chỗ:
pháp luật cho phép các chủ nợ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với
doanh nghiệp, hợp tác xã - Khoản 1 – Điều 13 Luật phá sản (2004); chủ nợ
có quyền tham gia giải quyết những vấn đề quan trọng của doanh nghiệp mà
liên quan đến lợi ích của mình trong quá trình giải quyết việc phá sản. Chẳng
13
hạn, lợi ích của chủ nợ được bảo đảm bằng việc pháp luật cho phép tất cả các
chủ nợ đều được tham gia vào hội nghị chủ nợ, được cử đại diện của mình
tham gia vào tổ quản lí, thanh lí tài sản - Điều 9, Điều 62 – Luật phá sản
(2004). Hơn nữa, trong quá trình giải quyết, pháp luật phá sản còn đưa ra các
cơ chế cho phép các chủ nợ có khả năng bảo vệ tối đa lợi ích của mình như:
kiểm tra, giám sát các hoạt động kinh doanh, hành vi của con nợ (Điều 63) ,
tham gia giải quyết những vấn đề liên quan trực tiếp tới quyền lợi của mình,
khiếu nại các quyết định của Toà án . . . tất cả nhằm mục đích bảo vệ tối đa
hoá khă năng thu hồi nợ.
Ngoài ra, vai trò của Luật phá sản trong việc bảo vệ quyền lợi ích hợp
pháp của các chủ nợ (ở chừng mực nhất định còn nhằm bảo vệ quyền lợi ích
của người lao động) qua quy định tại Điều 31 – Luật phá sản (2004) : kể từ
ngày nhận được quyết định mở thủ tục phá sản, nghiêm cấm doanh nghiệp,
hợp tác xã cất giấu, tẩu tán tài sản; thanh toán nợ không có bảo đảm; từ bỏ
hoặc giảm bớt quyền đòi nợ; chuyển các khoản nợ không có bảo đảm thành
nợ có bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, sau khi nhận
được quyết định mở thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã phải được sự
đồng ý bằng văn bản của Thẩm phán trước khi thực hiện những họat động
sau: cầm cố, thế chấp, chuyển nhượng, bán, tặng cho, cho thuê tài sản; nhận
tài sản từ một hợp đồng chuyển nhượng; chấm dứt thực hiện hợp đồng đã có
hiệu lực; vay tiền; bán, chuyển đổi cổ phần hoặc chuyển quyền sở hữu tài sản;
thanh toán các khoản nợ mới phát sinh từ hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, hợp tác xã và trả lương cho người lao động trong doanh nghiệp, hợp

tác xã.
Để bảo vệ tuyệt đối quyền lợi cho các chủ nợ, Luật phá sản còn cho
phép chủ nợ có bảo đảm còn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố các giao dịch
của DN, HTX quy định tại khoản 1 – Điều 43 của Luật phá sản (2004) vô
hiệu. Khi các giao dịch này được tuyên bố vô hiệu thì những tài sản thu hồi
được phải nhập vào khối tài sản của DN, HTX. Thêm vào đó, trong quá trình
tiến hành thủ tục phá sản nếu xét thấy việc đình chỉ thực hiện hợp đồng đang
14
có hiệu lực và đang được thực hiện hoặc chưa được thực hiện sẽ có lợi hơn
cho DN, HTX thì chủ nợ cũng có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định đình
chỉ thực hiện hợp đồng.
Pháp luật đã thiết kế sẵn một thủ tục pháp lí đảm bảo sự bình đẳng
quyền lợi giữa các chủ nợ, không cho phép chủ nợ nào được tự ý xé lẻ đi kiện
riêng con nợ để đòi nợ, không một chủ nợ nào được con nợ ưu tiên trả nợ
trong khi các chủ nợ khác chưa được trả (trừ chủ nợ có đảm bảo đặc biệt cho
món nợ của mình, chủ nợ có tài sản cầm cố, thế chấp)
* Vai trò bảo đảm lợi ích của con nợ.
Khi tham gia vào hoạt động kinh doanh, không một nhà kinh doanh nào
lại không muốn làm ăn có hiệu quả, thu lợi nhuận cao. Nhưng có thể là vì lý
do nào đó, như sự yếu kém về năng lực tổ chức, quản lý, thiếu khả năng thích
ứng với những biến động về thị trường, vi phạm những chế độ, thể chế quản
lý kinh tế, tài chính . . . nên doanh nghiệp không thể cạnh tranh nổi với các
doanh nghiệp khác, đi đến lâm vào tình trạng phá sản. Vì vậy, pháp luật cũng
có những quy định để bảo vệ lợi ích chính đáng của con nợ.
Pháp luật phá sản hướng tới bảo vệ lợi ích của con nợ như: giảm bớt
gánh nặng tài chính (bằng việc ấn định thời điểm ngừng trả nợ, tạo điều kiện
cho con nợ thương lượng với chủ nợ để xoá nợ, giảm nợ, mua nợ . . .), hạn
chế những hành vi pháp lý chống lại con nợ từ phía các chủ nợ, buộc các chủ
nợ vào một khuôn khổ chung trong quá trình đòi nợ. Con nợ được tạo cơ chế
khôi phục được, pháp luật phá sản còn đưa ra cơ chế giúp cho việc thanh lý

tài sản của con nợ được nhanh nhất và giải phóng con nợ khỏi trách nhiệm
thanh toán đối với các chủ nợ.
Ngoài ra, Luật phá sản còn có quy định đến việc xử lý các khoản nợ
chưa đến hạn của con nợ. Đó là, trong trường hợp Thẩm phán ra quyết định
mở thủ tục thanh lý đối với DN, HTX thì các khoản nợ chưa đến hạn vào thời
điểm mở thủ tục thanh lý được xử lý như các khoản nợ đến hạn, nhưng không
được tính lãi đối với thời gian chưa đến hạn.
15
* Vai trò bảo vệ lợi ích của người lao động trong Luật phá sản.
Phá sản không những gây ảnh hưởng xấu cho chủ nợ, cho doanh nghiệp
mà còn làm ảnh hưởng trực tiếp tới người lao động trong doanh nghiệp, họ sẽ
không có việc làm để đảm bảo cuộc sống. Có thể nói rằng người lao động là
chủ nợ nghèo nhất của doanh nghiệp mắc nợ và là chủ nợ không có bảo đảm.
Vì vậy, pháp luật phá sản bảo vệ lợi ích cho người lao động.
Theo quy đinh của hầu hết các nước trên thế giới, trong quá trình giải
quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, người lao động có quyền cử
đại diện tham gia để bảo vệ lợi ích của mình, tiền lương và các khoản lợi ích
chính đáng khác của họ bao giờ cũng thuộc diện ưu tiên trong thứ tự phân
chia tài sản của doanh nghiệp và những người lao động trong doanh nghiệp bị
phá sản thường được tạo cơ hội tìm việc làm mới.
Theo Điều 14 – Luật phá sản (2004) quy định: "trong trường hợp doanh
nghiệp, hợp tác xã không trả được lương, các khoản nợ khác cho người lao
động và nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì
người lao động cử người đại diện hoặc thông qua đại diện công đoàn nộp đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đó". Trong trường
hợp này người lao động sẽ được miễn phí phá sản (Khoản 2 – Điều 21).
Pháp luật phá sản bảo vệ lợi ích của người lao động còn được thể hiện
đặc biệt trong việc phân chia tài sản thì người lao động được ưu tiên thanh
toán trước chỉ sau phí phá sản (Điều 37). Như vậy, pháp luật về phá sản xác
định cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ lợi ích hợp pháp và hạn chế thiệt thòi vật

chất mà sự phá sản đem lại cho người lao động.
Ngoài ra, vai trò của Luật phá sản hiện hành ngày nay còn thể hiện rõ
nét qua giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh (thủ tục phục hồi hoạt
động kinh doanh) nhằm cứu giúp con nợ vượt ra khỏi tình trạng phá sản. Nếu
DN, HTX thực hiện xong phương án phục hồi hoạt động kinh doanh thì Thẩm
phán sẽ đình chỉ thủ tục phục hồi họat động kinh doanh và khi đó DN, HTX
đó được coi không còn lâm vào tình trạng phá sản. Trong trường hợp này
Luật phá sản cùng lúc bảo vệ được ba mục tiêu: bảo vệ quyền lợi ích của các
16
chủ nợ (các chủ nợ sẽ được thanh toán hết nợ); bảo vệ quyền lợi doanh nghiệp
mắc nợ (doanh nghiệp không bị đào thải khỏi nền kinh tế thị trường); bảo vệ
quyền lợi người lao động (người lao động không bị mất công ăn, việc làm).
* Pháp luật còn góp phần bảo vệ kỷ cương xã hội.
Khi con nợ lâm vào tình trạng phá sản, trước những nguy cơ có thể mất
nhiều khoản tín dụng của mình, các chủ nợ có động lực mong muốn thúc đẩy
thực hiện những hành vi chống lại con nợ. Những hành vi đó có thể là hợp
pháp và cũng có thể là bất hợp pháp. Nếu không có sự can thiệp của pháp luật
hoặc sự can thiệp không hiệu quả thì những hành vi bất hợp pháp của các chủ
nợ rất dễ xảy ra, gây nên tình trạng lộn xộn trong đời sống xã hội. Do vậy,
pháp luật về phá sản quy định cách mà mỗi nhóm chủ nợ khi được bồi thường
không làm hại đến những nhóm chủ nợ khác tạo nên một sự công bằng cần
thiết trong việc thanh toán cho các chủ nợ, cũng có nghĩa là các bên được đưa
vào một khuôn khổ chung mà trong đó lợi ích của các bên đều được xem xét
một cách công bằng và minh bạch.
Bằng việc giải quyết thoả đáng mối quan hệ về lợi ích giữa chủ nợ và
con nợ cũng như giữa các chủ nợ với nhau, pháp luật về phá sản đã góp phần
hạn chế những mâu thuẫn, những căng thẳng có thể có giữa họ, nhờ đó góp
phần bảo đảm được trật tự, kỉ cương trong xã hội.
* Luật phá sản góp phần tổ chức lại cơ cấu lại nền kinh tế.
Phá sản để lại nhiều tiêu cực cho nền kinh tế. Nhưng không thể phủ

nhận một điều rằng phá sản đã góp phần tích cực vào việc tổ chức cơ cấu lại
nền kinh tế nhằm loại bỏ khỏi nền kinh tế những doanh nghiệp làm ăn kém
hiệu quả. Đồng thời Luật phá sản là biện pháp cưỡng chế buộc các nhà kinh
doanh luôn luôn phải năng động, sáng tạo nhưng không được mạo hiểm và
liều lĩnh. Luật phá sản là cơ sở pháp lý để tạo nên môi trường lành mạnh cho
các nhà kinh doanh.
Tóm lại: Pháp luật phá sản có ý nghĩa rất to lớn trong nền kinh tế thị
trường nói riêng và hệ thống pháp luật nói chung, là cơ sở pháp lý để các chủ
17
thể tham gia quan hệ pháp luật phá sản áp dụng một cách thống nhất góp phần
lập lại kỷ cương và trật tự xã hội.
Luật phá sản đã xử lý kịp thời những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả
lâm vào tình trạng phá sản. Đồng thời bảo vệ được lợi ích chính của chủ nợ
trong việc đòi nợ, bảo vệ chủ doanh nghiệp mắc nợ (con nợ) bảo vệ lợi ích
chính đáng của người lao động. Hơn thế nữa Luật phá sản đã góp phần bảo vệ
trật tự kỷ cương xã hội. Với ý nghĩa đó Luật phá sản là công cụ quan trọng
của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường góp phần ổn định đời sống kinh tế
chính trị của đất nước.
1.3. Các cơ quan tham gia quá trình giải quyết phá sản.
1.3.1. Vai trò trung tâm của Tòa án nhân dân (TAND) trong việc giải
quyết phá sản.
Pháp luật của hầu hết các nước đều trao cho Tòa án có thẩm quyền tuyên
bố phá sản, song vai trò cụ thể của cơ quan này trong quá trình giải quyết việc
phá sản ở các nước khác nhau là không giống nhau,
Bởi vì phá sản là hiện tượng gây hậu quả nghiêm trọng về nhiều mặt và
cho nhiều người, do đó cơ quan nào có quyền tuyên bố phá sản là vấn đề
được pháp luật nhiều nước quan tâm.
Theo quy định của Điều 7 Luật phá sản (2004), thẩm quyền giải quyết
phá sản được phân cấp cho Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án nhân dân
cấp tỉnh căn cứ vào việc cơ quan cấp nào (tỉnh hay huyện) đã cấp giấy chứng

nhận đăng kí kinh doanh cho doanh nghiệp, hợp tác xã cụ thể đó.
Tòa án nhân dân cấp huyện giải quyết phá sản đối với các hợp tác xã
đăng kí kinh doanh tại cơ quan cấp huyện đó.
Tòa án nhân dân cấp tỉnh cụ thể là Tòa kinh tế giải quyết phá sản đối với
doanh nghiệp, hợp tác xã đã đăng kí kinh doanh tại cơ quan đăng kí kinh
doanh cấp tỉnh đó.
Tùy vào tính chất của việc phá sản, quy mô của hợp tác xã, TAND tỉnh
sẽ lấy lên để tiến hành thủ tục giải quyết phá sản đối với hợp tác xã thuộc
thẩm quyền của TAND cấp huyện. Việc giải quyết phá sản tại Tòa án cấp
18
huyện do một Thẩm phán phụ trách, tại Tòa án cấp tỉnh do một hoặc ba Thẩm
phán phụ trách. Do đó, nếu như Luật PSDN (1993) quy định việc giải quyết
phá sản tập trung tại TAND tỉnh thì Luật phá sản (2004) đã mở rộng thẩm
quyền giải quyết phá sản cho Tòa án huyện, điều này có thể được lý giải bởi
sự không ngừng nâng cao về trình độ chuyên môn và nghiệp vụ của đội ngũ
Thẩm phán.
Quy định như vậy là phù hợp với tính chất và hoạt động của Tòa án các
cấp theo tinh thần Nghị quyết số 08/NQ-TW của Bộ chính trị, theo đó tăng
thẩm quyền cho Tòa án cấp huyện, TAND tối cao chủ yếu thực hiện việc xét
xử giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của Tòa án nhân dân cấp dưới bị kháng nghị, tập trung vào việc tổng kết thực
tiễn, hướng dẫn việc xét xử của Tòa án các cấp . . .
3
.
Có thể thấy, phá sản về bản chất là một hiện tượng kinh tế, song do tính
chất phức tạp của nó mà Việt Nam cũng như hầu hết các nước trên thế giới đều
giao thẩm quyền giải quyết cho hệ thống Tòa án, Tòa án là nhân vật trung tâm,
giữ vị trí quyết định đối với việc giải quyết một vụ phá sản, vì trong quá trình
giải quyết một vụ phá sản thường liên quan đến lợi ích của các bên khác nhau
mà Tòa án là cơ quan độc lập, có tính chất khách quan, nguyên tắc "Tòa án xét

xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" đã trở thành nguyên tắc hiến định.
Tham gia vào quá trình giải quyết phá sản DN, HTX, Tòa án có vị trí
trung tâm, có vai trò chủ đạo và là người trực tiếp giải quyết loại công việc
này của xã hội. Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản được mở đầu
bằng việc Tòa án nhận, thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản; Toà án quyết
định việc mở hay không mở thủ tục phá sản. Vai trò của Tòa án không chỉ
dừng lại ở việc quyết định những vấn đề thuộc về tố tụng phá sản mà nó còn
can thiệp vào cả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tòa án
giám sát hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong quá trình giải
quyết phá sản, quyết định việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm
bảo đảm tài sản của doanh nghiệp.
3
Theo Ths. Vũ Hồng Vân Tạp chí TAND tháng 11-2005 (Số 21), tr 16.
19
Khi tiến hành giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản DN, HTX. Tòa án
cùng với các bên phải phân tích, đánh giá khả năng phục hồi của doanh
nghiệp để trên cơ sở đó mà ra quyết định áp dụng thủ tục phục hồi hay thủ tục
thanh lý đối với doanh nghiệp. Thủ tục phục hồi chỉ được tiến hành khi có
yêu cầu của chủ nợ hoặc doanh nghiệp mắc nợ. Đối với những doanh nghiệp
mắc nợ mà rõ ràng là không thể phục hồi được khả năng thanh toán thì pháp
luật cho phép Tòa án ra quyết định tuyên bố phá sản và tiến hành ngay thủ tục
thanh lý doanh nghiệp mà không cần làm thêm bất cứ một thủ tục pháp lý
nào khác.
Khác với thông lệ chung đó, pháp luật phá sản Việt Nam mà cụ thể là
Luật PSDN lần đầu tiên được ban hành năm 1993 lại quy định mà theo đó bất
cứ một doanh nghiệp nào bị Tòa án ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu
cầu tuyên bố phá sản đều phải trải qua giai đoạn xây dựng phương án hòa giải
và giải pháp lại hoạt động sản xuất, kinh doanh, họp Hội nghị chủ nợ để bàn
bạc, xem xét phương án này và sau đó nếu không được sự chấp nhận của Hội
nghị chủ nợ thì Tòa án mới được ra quyết định tuyên bố phá sản đối với

doanh nghiệp đó. Quy định này dẫn tới hậu quả là, mặc dù tài sản của doanh
nghiệp mắc nợ trên thực tế đã không còn gì đáng kể, bản thân chủ doanh
nghiệp hoặc người quản lý doanh nghiệp và các chủ nợ không muốn phục hồi
nhưng doanh nghiệp đó vẫn bắt buộc thực hiên đầy đủ các bước như trên.
Như thế, việc tổ chức lại doanh nghiệp trong trường hợp này rõ ràng là không
chỉ không có kết quả mà còn trái ý muốn của các đương sự. Việc quy định áp
đặt như vậy là không phù hợp với thực tế, dẫn đến việc tổ chức lại doanh
nghiệp mắc nợ, cả các chủ nợ, cả Tòa án và các chủ thể khác có liên quan,
Thực tế đã cho thấy nhiều Tòa án địa phương đã rất lúng túng khi gặp phải
những trường hợp doanh nghiệp bị yêu cầu tuyên bố phá sản đã hoàn toàn rơi
vào tình trạng không còn tài sản gì đáng kể, nếu thụ lý để giải quyết thì phải
tiến hành đầy đủ các giai đoạn theo quy định của Luật phá sản doanh nghiệp
năm 1993 với những chi phí không nhỏ. Ngược lại, nếu không thực hiện đầy
đủ các thủ tục này thì Tòa án lại bị coi là vi phạm pháp luật.
20
Để khắc phục tình trạng này, Luật phá sản (2004) đã đi theo hướng quy
định nhiều thủ tục khác nhau trong thủ tục phá sản (Điều 5) bao gồm: thủ tục
phục hồi hoạt động kinh doanh của DN, HTX; thủ tục thanh lý tài sản; thủ tục
tuyên bố phá sản. Sau khi quyết định mở thủ tục phá sản, căn cứ vào tình
trạng thực tế của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản, Tòa án sẽ quyết định
áp dụng thủ tục nào cho phù hợp, đối với những DN, HTX không còn khả
năng phục hồi, Tòa án sẽ áp dụng ngay thủ tục thanh lý tài sản, nếu xác định
tài sản còn lại của doanh nghiệp không đủ để thanh toán chi phí phá sản thì
Tòa án có thể tuyên bố phá sản ngay. Trong quá trình áp dụng thủ tục phục
hồi nếu DN, HTX thực hiện không đúng, không đầy đủ hoặc không thực hiện
được phương án phục hồi hoạt đông kinh doanh thì Tòa án cũng có thể quyết
định chuyển từ thủ tục phục hồi sang áp dụng thủ tục thanh lý tài sản.
Quy định như trên tạo điều kiện vừa chấm dứt nhanh chóng sự tồn tại của
những doanh nghiệp không còn đủ khả năng phục hồi, giảm thiểu đến mức tối
đa cho việc tiến hành thủ tục phá sản, bảo vệ quyền lời của các chủ nợ.

1.3.2. Sự giám sát của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) trong quá
trình giải quyết phá sản.
Với tư cách là cơ quan giám sát, VKSND kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong tất cả các giai đoạn của thủ tục giải quyết phá sản, đối với các chủ
thể tiến hành giải quyết việc phá sản DN, HTX nhằm đảm bảo thực hiện đúng
đắn Luật phá sản, đạt được những mục tiêu mà Luật đã đề ra.
Điều 12 Luật phá sản quy định: “Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản theo quy định
của Luật này và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân ".
Đối với VKSND huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh và cấp
tương đương có nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật việc giải quyết
phá sản của TAND cấp huyện đối với hợp tác xã đã đăng kí kinh doanh tại cơ
quan đăng kí kinh doanh cấp huyện đó.
Đối với VKSND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp tương
đương (nơi DN, HTX đăng ký kinh doanh) có nhiệm vụ kiểm sát việc tuân
21
theo pháp luật việc giải quyết phá sản của TAND cấp tỉnh đối với DN, HTX
đã đăng kí kinh doanh tại cơ quan đăng kí kinh doanh cấp tỉnh đó hoặc đối
với trường hợp TAND cấp tỉnh lấy lên để tiến hành thủ tục phá sản đối với
hợp tác xã thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện.
Riêng đối với việc giải quyết phá sản doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài thì VKSND cấp tỉnh nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính có nhiệm vụ
kiểm sát việc tuân theo pháp luật việc giải quyết phá sản của TAND cấp tỉnh
nơi đặt trụ sở chính của doanh nghiệp có đầu tư nước ngoài đó.
Ngoài các chủ thể trên, tham gia vào quá trình giải quyết phá sản DN,
HTX còn có sự tham gia của cơ quan Thi hành án và một số cơ quan chuyên
môn khác (Điều 9 - Luật phá sản).
Tóm lại, mặc dù Luật phá sản quy định có sự tham gia của nhiều cơ
quan khác nhau vào quá trình giải quyết phá sản nhưng Tòa án là chủ thể giữ
vai trò trung tâm, quyết đinh. Cơ quan Viện kiểm sát, Thi hành án và một số

cơ quan chuyên môn khác tham gia vào quá trình giải quyết phá sản là để đảm
bảo cho Tòa án thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.
22
CHƯƠNG II
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CHỦ NỢ VÀ CON NỢ
TRONG THỦ TỤC PHÁ SẢN
2.1. Giai đoạn nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản.
2.1.1. Giai đoạn nộp đơn và thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
a. Giai đoạn nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
* Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
Pháp luật phá sản được đặt ra trước hết nhằm bảo vệ quyền về tài sản
của các chủ nợ. Do vậy, Luật phá sản của tất cả các nước đều dành cho chủ
nợ có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với con nợ. Tuy nhiên
có sự khác nhau trong việc quy định phạm vi các chủ nợ có quyền nộp đơn.
Có nước cho phép cả chủ nợ có bảo đảm cũng có quyền đệ đơn (Trung Quốc
và Hung-ga-ry). Một số nước khác lại quy định chỉ có chủ nợ không có bảo
đảm mới có quyền này hoặc cả chủ nợ có bảo đảm nhưng phải kèm theo
những điều kiện nhất định như phải từ bỏ quyền được bảo đảm (Luật phá sản
Malayxia), hoặc là chủ nợ có phần giá trị nợ lớn hơn phần giá trị tài sản bảo
đảm (chủ nợ có bảo đảm một phần).
Luật phá sản (2004) chỉ quy định cho chủ nợ không có bảo đảm hoặc
chủ nợ có bảo đảm một phần có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
đối với DN, HTX khi nhận thấy DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản (khoản
1 Điều 13). Quy định như vậy là hợp lý vì chủ nợ có bảo đảm một phần vẫn
còn có quyền yêu cầu DN, HTX (con nợ) trả nốt phần không có bảo đảm.
Luật phá sản đã không cho phép chủ nợ có bảo đảm được quyền nộp
đơn, họ bị hạn chế quyền này bởi chính sự thỏa thuận về việc xử lý giá trị tài
sản bảo đảm. Bản thân số nợ của chủ nợ này đã được bảo đảm bằng tài sản
của DN, HTX hoặc của người thứ ba. Chính vì vậy, trong mọi trường hợp lợi
ích của chủ nợ có bảo đảm cũng luôn được bảo vệ, nên việc quy định cho họ

có quyền nộp đơn là không cần thiết
4
.
4
Theo Ths. Vũ Hồng Vân, tạp chí Tòa án nhân dân tháng 11-2005(số 21), tr9.
23
Nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là thủ tục bắt buộc đầu tiên của
trình tự giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
là căn cứ để Tòa án có ra quyết định mở thủ tục phá sản đối với DN, HTX đó
hay không. Theo quy đinh tại Điều 7 Luật PSDN (1993), khoản 3 Điều 10
Nghị định 189 thì các chủ nợ gửi đơn yêu cầu tuyên bố phá sản, kèm theo đơn
phải có các giấy tờ, tài liệu chứng minh doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá
sản, mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Quy định này là một trở ngại lớn
đối với chủ nợ nếu muốn nộp đơn yêu cầu giải quyết phá sản. Muốn chứng
minh một doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thì phải có đầy đủ giấy tờ
về tổng số nợ đến hạn của doanh nghiệp, giá trị tài sản còn lại của doanh
nghiệp, tình hình kinh doanh . . . trong khi đó chủ nợ nộp đơn chỉ có thể có
giấy tờ liên quan đến các khoản nợ của mình, việc tiếp cận và có được các
giấy tờ liên quan đến tình hình tài chính của doanh nghiệp mắc nợ là rất khó
vì chế độ kê khai sổ sách kế toán, kiểm toán . . . còn chưa được công khai,
nhiều doanh nghiệp đã làm ba loại sổ kế toán, một cho doanh nghiệp, một cho
chủ doanh nghiệp và một cho kế toán nên việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh
như trong Luật PSDN (1993) là khó có thể thực hiện được.
Nhằm khắc phục những hạn chế trên Luật phá sản (2004) đã quy định
đơn giản hơn điều kiện nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và chủ nợ không
phải cung cấp cho Tòa án các giấy tờ, tài liệu chứng minh DN, HTX mất khả
năng thanh toán đến hạn khi gửi đơn yêu cầu. Đơn yêu cầu phải được gửi cho
tòa án có thẩm quyền theo quy định của pháp luật và phải bao gồm các nội
dung theo quy định tại Điều 13 Luật phá sản (2004).
Liên quan đến quyền của chủ nợ, Luật phá sản (2004) quy định một loại

chủ nợ khá đặc biệt là người lao động với những khoản nợ lương, bảo hiểm
xã hội. Về thực chất đối với doanh nghiệp mắc nợ, người lao động là một chủ
nợ không có bảo đảm, hàng hóa duy nhất đem ra trao đổi là sức lao động và
tiền lương là nguồn sống chính của bản thân và gia đình họ. Do đó, khi DN,
HTX lâm vào tình trạng phá sản thì người lao động là một trong những người
24
bị thiệt hại nhiều nhất và thực sự lâm vào cảnh "tứ cố vô thân"
5
, không có
lương, nguy cơ thất nghiệp đe dọa. Chính vì thế, Điều 14 Luật phá sản (2004)
đã quy định quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của người lao động
thông qua người đại diện được cử hoặc đại diện công đoàn.
Theo Điều 14 Luật phá sản 2004 quy định: " Trong trường hợp doanh
nghiệp, hợp tác xã không trả được lương, các khoản nợ khác cho người lao
động và nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì
người lao động cử người đại diện hoặc thông qua đại diện công đoàn nộp đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đó.
Đại diện cho người lao động được cử hợp pháp sau khi được quá nửa số
người lao động trong doanh nghiệp, hợp tác xã tán thành bằng cách bỏ phiếu
kín hoặc lấy chữ ký; đối với doanh nghiệp, hợp tác xã quy mô lớn, có nhiều
đơn vị trực thuộc thì đại diện cho người lao động được cử hợp pháp phải được
quá nửa số người được cử làm đại diện từ các đơn vị trực thuộc tán thành".
Luật PSDN (1993) quy định người lao động chỉ có thể thực hiện quyền
nộp đơn yêu cầu khi doanh nghiệp không trả được lương cho người lao động
trong ba tháng liên tiếp, điều kiện này không còn đặt ra trong Luật phá sản
(2004). Đây là một điểm tiến bộ của Luật phá sản (2004) trong việc bảo vệ
quyền lợi cho người lao động.
* Nghĩa vụ của con nợ.
- Nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
Việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản được coi là một nghĩa vụ của

DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản. Con nợ là người đầu tiên hiểu rõ nhất
về tình trạng tài chính của bản thân. Vì vậy, để bảo vệ kịp thời quyền lợi
hợp pháp của các chủ nợ, con nợ phải có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ
tục phá sản khi nhận thấy mình lâm vào tình trạng phá sản
6
. Điều 15 Luật
phá sản quy định "khi nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng
phá sản thì chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp
5
Theo Ths. Vũ Hồng Vân, tạp chí Tòa án nhân dân tháng 11-2005(số 21), tr9.
6
Theo PGS-TS. Dương Đăng Huệ, tạp chí TAND, đặc san chuyên đề về Luật phá sản tháng 8-
2004, tr107.
25

×