Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

Hệ thống kiến thức về tác giả tác phẩm 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (732.5 KB, 37 trang )

HỆ THỐNG CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC 12
Tây Tiến
Quang Dũng
1. Thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ - thơ mộng
- Quang Dũng là một nghệ sĩ tài hoa nhiều mặt: viết văn xuôi, làm thơ và cả hội họa. Thơ ông viết ít
nhưng lưu được ấn tượng sâu trong lòng người đọc vì vẻ đẹp lãng mạn, tài hoa. Viết về đề tài người
lính Quang Dũng khá thành công ở bài thơ “Tây Tiến”.
- “Tây Tiến” thể hiện lối cảm nghĩ riêng đó chính là tấm lòng Quang Dũng đối với một thời lịch sử đã
qua. Cả bài thơ là một nỗi nhớ dài: Nhớ những miền đất mà tác giả đã từng qua, nhớ những đồng đội
thân yêu, nhớ những kỷ niệm ấm áp tình quân dân kháng chiến. Tất cả những điều ấy được thể hiện
bằng cái nhìn đầy lãng mạn của người lính. Đoạn thơ đầu gồm 14 câu như những thước phim quay
chậm tái hiện địa bàn chiến đấu của người lính Tây Tiến. Đó là thiên nhiên Tây Tiến, là những người
lính Tây Tiến cùng những kỷ niệm ấm tình quân dân.
- Mở đầu đoạn thơ là nỗi nhớ về thiên nhiên và con người:
+ Dòng sông ấy hiện lên trong bài thơ nh một nhân vật, chứng kiến mọi gian khổ, nỗi buồn, niềm vui,
mọi chiến công và mọi hy sinh của đoàn binh Tây Tiến. Sông Mã gắn liền với miền đất đã từng qua,
những kỷ niệm từng trải của đoàn quân Tây Tiến. Nhắc tới sông Mã cũng là nhắc tới núi rừng thiên
nhiên Tây Bắc.
+ Nhà thơ nhớ về những miền đất trong nỗi nhớ “chơi vơi”. “Chơi vơi” là nỗi nhớ không có hình,
không có lượng, không ai cân đong đo đếm được nó lửng lơ mà đầy ắp ám ảnh tâm trí con người, khiến
con người như sống trong cõi mộng. Chữ “chơi vơi” hiệp vần với chữ “ơi” ở câu thơ trên khiến cho lời
thơ thêm vang vọng.
- Không gian xa xôi hiểm trở:
+ Tính chất “xa xôi” thể hiện rõ ở một số địa danh: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch,
Mai Châu. Nghe tên đất đã lạ vì đó là những vùng sâu, vùng xa của các dân tộc ít người từ Sơn La, Lai
Châu, Hòa Bình. Những địa danh này đi vào nỗi nhớ của nhà thơ bởi vậy nhớ về Tây Tiến thì cũng
chính là nhớ về những vùng đất heo hút, hiểm trở đầu tiên. Điều này cũng dễ hiểu. Bởi những người
lính Tây Tiến vừa mới ra đi kháng chiến từ một mái trường, một góc phố nào đó của thủ đô Hà Nội thì
ấn tượng sâu đậm nhất về Tây Tiến trong họ lẽ đương nhiên là những gian khổ, những địa danh nêu

G



Page: />

CREST EDUCATION-GIA SƯ 27

trên càng trở nên xa hơn khi nó gắn liền với hình ảnh “sương lấp”, “đoàn quân mỏi” hiện về “trong đêm
hơi”.
+ Câu thơ “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm” với điệp từ “dốc” gối lên nhau cộng với tính từ “khúc
khuỷu”, “thăm thẳm” làm sống dậy con đường hành quân hiểm trở, gập ghềnh, dài vô tận. Âm điệu câu
thơ như cũng khúc khuỷu như bị cắt đoạn như đường núi khúc khuỷu, có đoạn lên cao chót vót có đoạn
xuống thăm thẳm.
+ Con đường mà người lính Tây Tiến phải trải qua cao tới mức bóng người in trên những cồn mây, đến
mức “súng ngửi trời”. Đây là cách nói thậm xưng thể hiện sự độc đáo của Quang Dũng. Nếu chỉ thấy
súng chạm trời thì ta mới chỉ thấy được cái thế cao của dốc còn hình ảnh “Súng ngửi trời” hàm chứa
một ý nghĩa khác. Đó là vẻ tinh nghịch, chất lính ngang tàng như thách thức cùng gian khổ của người
lính Tây Tiến. Điều này khiến cho hình ảnh người lính Tây Tiến được nâng cao rõ nét trong một không
gian rộng lớn vời vợi, và đây cũng chính là chất lãng mạn bay bổng của tâm hồn người lính Tây Tiến,
của Quang Dũng. Câu thơ còn gợi cho ta cảm giác về độ cao, độ sâu không cùng của dốc.
+ Ta bắt gặp ý thơ này ở câu thơ: “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”. Cả hai câu đều ngắt nhịp
4/4. Thực ra ý của câu sau điệp lại ý của câu trước nhưng lối điệp vô cùng sáng tạo, khiến cho người
đọc khó phát hiện ra. ý thơ gấp khúc giữa hai chiều cao thăm thẳm, sâu vòi vọi, dốc tiếp dốc, vực tiếp
vực nhấn mạnh địa bàn hoạt động của những người lính vô cùng khó khăn, hiểm trở, vượt qua những
khó khăn, hiểm trở đó đã là một kỳ tích của những người lính.
à Bức tranh của thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, hoang dại, hiểm trở mà đầy sức hút. Những câu thơ
phần lớn là thanh trắc càng gợi cái trúc trắc, trục trặc, tạo cảm giác cho độc giả về hơi thở nặng nhọc,
mệt mỏi của người lính trên đường hành quân. Giữa những âm tiết toàn thanh trắc ấy chen vào câu thơ
gần cuối đoạn thơ dài man mác toàn thanh bằng: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Đây chính là hình
ảnh thơ mộng mà hoang dã về thiên nhiên Tây Tiến. Thiết nghĩ nếu câu thơ này vì lí do nào đó mà
không có thì sức hấp dẫn của đoạn thơ sẽ giảm đi rất nhiều bởi lẽ chính câu thơ tạo nên nét thứ hai cho
bức tranh về thiên nhiên Tây bắc. Thiên nhiên Tây bắc hùng vĩ, hoang sơ, hiểm trở nhưng đầy thơ

mộng. Chất tài hoa của Quang Dũng được thể hiện khá trọn vẹn ở chỗ nhà thơ nhắc đến mưa rừng mà
tạo cảm giác đứng trước biển lại người lên vẻ đẹp của người lính chân đứng trên dốc cao đầu gội trong
mưa lớn. Cứ một nét bút gân guốc lại xen vào một nét bút mềm mại, trữ tình tạo cho bức tranh về thiên
nhiên Tây Tiến cân đối hài hòa.
- Thử thách khắc nghiệt với sức chịu đựng bền bỉ của con người:
+ Dù can trường trong dãi dầu nhưng có khi gian khổ đã vượt quá sức chịu đựng khiến cho người lính
đã gục ngã, nhưng gục ngã trên tư thế hành quân.
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục trên súng mũ bỏ quên đời”
Dường như người lính Tây Tiến chỉ bỏ quên đời một lát rồi lại bừng tỉnh và bước tiếp. Nói về
cái chết mà lời thơ không bi lụy. Đó cũng là một nét trong phong cách biểu hiện của nhà thơ Quang
Dũng. Những ngày chiến đấu bảo vệ biên giới, để giúp bạn giữa núi rừng Tây Bắc thật lắm gian nan
khó nhọc. Những gian nan khó nhọc còn hằn sâu trong trí nhớ.
+ Quang Dũng không khoa trương tính cách anh hùng dũng cảm, cũng không nói đến cảnh bách chiến
bách thắng. Nhưng sống và chiến đấu trong một địa bàn hiểm trở dữ dội, hoang dã đã là anh hùng rồi.
- Vùng đất xa xôi hiểm trở với những nét dữ dội hoang dã:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
+ Cảnh hiểm trở cheo leo nhưng đâu có tĩnh lặng thanh bình... Với những từ “oai linh”, “gầm thét” thác
nước như một sức mạnh thiêng liêng, đầy quyền uy, đầy đe dọa, và những con hổ đi lang thang hoành
hành ngang dọc coi mình là chúa tể của núi rừng làm cho cảnh rừng núi thêm rùng rợn ghê sợ.
+ Đang nói đến cái rùng rợn bí hiểm của rừng già nhà thơ bỗng nhớ lại một kỷ niệm ấm áp tình quân
dân.
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.”
G

Page: />

CREST EDUCATION-GIA SƯ 27


Trong gian khổ thiếu thốn người ta càng nâng niu càng quí trọng nghĩa tình. Hình ảnh những
nồi cơm lên khói, những mùa màng thơm nếp xôi và đặc biệt là “em” biểu tượng cho người dân Tây
Bắc hiện về trong cảm xúc nhà thơ vừa tự nhiên vừa tinh tế.
+ Sự xuất hiện của những hình ảnh này khiến cho đoạn kết của khổ thơ có sức bay bổng. Đoạn thơ ấm
lại trong tình quân dân mặn nồng. Hai câu cuối gieo vào tâm hồn độc giả một cảm xúc ấm nóng. Cái
ấm nóng của tình người. Đây chính là chất lãng mạn bay bổng của đoạn thơ và nó như một nét vẽ tươi
sáng của bức tranh.
à Đoạn thơ là sự phối kết hợp hài hòa giữa hai bút pháp hiện thực và lãng mạn. Cả đoạn thơ như một
bức tranh thủy mặc cổ điển được phác thảo theo lối tạo hình phương đông. Quang Dũng là một hoạ sĩ.
Ông có tài chấm phá trong việc phác thảo cảnh vật. Quang Dũng đã xây một đài kỷ niệm trong thơ cho
thiên nhiên Tây Bắc và người lính Tây Tiến.
2. Đoạn 2: Con người Tây Bắc duyên dáng và tài hoa
- Cả đoạn thơ là bức tranh thiên nhiên diễm lệ có sức hòa hợp diệu kỳ giữa thiên nhiên và con người.
+ Cảnh trí miền Tây ở khổ thơ dường như được tạo hình theo thi pháp truyền thống: “Thi trung hữu
hoạ, thi trung hữu nhạc”. Một miền Tây thơ mộng thi vị giàu sức cuốn hút. Đoạn thơ thứ 2 này được
xem là đoạn thơ tiêu biểu cho bút pháp nghệ thuật của Quang Dũng.
+ Câu mở đầu đoạn tạo cảm giác đột ngột bừng sáng:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa”
“Bừng lên” vừa đột ngột, bất ngờ vừa thú vị. Cả cảnh vật và lòng người đều bừng sáng lên. Chất hào
hoa trong bút pháp thể hiện của Quang Dũng đã bộc lộ ngay từ câu thơ đầu. Hai cụm từ “bừng lên”
“hội đuốc hoa” thể hiện sự tinh tế trong việc sử dụng từ ngữ của Quang Dũng. Hai cụm từ này vừa có
tính tả thực vừa đậm chất lãng mạn. “Bừng lên” vừa có nghĩa bừng sáng lung linh vừa như bừng tỉnh.
+ “Hội đuốc hoa” đây là cảnh thực. Đêm liên hoan văn nghệ diễn ra dưới những cánh rừng, người đến
dự đều cầm trên tay ngọn đuốc, gió thổi làm những ngọn đuốc lung linh phát ra những tia lửa. Cảnh tượng này trong đêm quả thật nhìn như hoa đuốc. Cảm nhận của Quang Dũng vừa tinh tế vừa lãng mạn,
câu thơ gợi sức liên tưởng, tưởng tượng cho người đọc.
- Trên cái nền không gian ấy “em” xuất hiện. “Em” xuất hiện lập tức trở thành trung điểm của mọi
điểm nhìn.
“Kìa em xiêm áo tự bao giờ”
+ “Kìa em” lời chào đón đầy ngạc nhiên sung sướng đến ngỡ ngàng. Lời chào đón mang tính phát hiện.

Em lạ mà quen, quen mà lạ. Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp rực rỡ của cô gái bằng cả niềm yêu, niềm
say đến cảm phục.
+ Yêu say từ vóc dáng đến trang phục. Chính trang phục truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa của các
thiếu nữ Tây Bắc càng tôn vinh lên vẻ đẹp của họ Quang Dũng không khỏi không thán phục đến ngạc
nhiên trước vẻ đẹp ấy. Em trở thành hạt nhân của bức tranh với vẻ đẹp xứ lạ phương xa.
- Câu thơ thứ ba xuất hiện lập tức khổ thơ như tràn đầy âm nhạc.
“Khèn lên man điệu nàng e ấp”.
+ Những âm thanh phát ra từ nhạc cụ của đồng bào Tây Bắc đối với người lính Tây Tiến vừa lạ vừa có
vẻ hoang dại mang tính sơ khai mà đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Chính cái lạ ấy làm đắm say tâm hồn
những chàng trai Tây Tiến gốc Hà Nội hào hoa.
+ Từ “man điệu” mà Quang Dũng sử dụng ở đây cũng rất tài hoa. Ngời đọc như được chứng kiến
những vũ khúc hoang sơ của văn hóa Âu Lạc. Vũ khúc ấy hòa với vũ điệu Em duyên dáng, e ấp, tình
tứ.
+ Ta chú ý tác giả sử dụng từ : Ban đầu là “em” tiếp đến là “nàng” rồi sau lại là “em”. Từ cách sử dụng
ấy ta cảm nhận được em như một nàng tiên kiều diễm và ta như lạc vào cõi thần tiên với không khí mê
say đến ngây ngất. Chính trong không khí của âm nhạc, vũ điệu ấy đã chắp cánh cho tâm hồn những
người lính Tây Tiến thực sự ngất ngây trước người và cảnh.
- Cảnh sắc Tây Bắc gợi cảm giác mênh mang, huyền ảo:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
G

Page: />

CREST EDUCATION-GIA SƯ 27

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.
+ Một không gian bảng lảng khói sương như trong cõi mộng cứ thế hiện ra. Cái thực của khí trời Tây
Bắc, cái mộng của không khí bảng lảng sương khói hiện lên như một miền cổ tích.

+ Ta nhớ rằng Quang Dũng là một họa sĩ bởi vậy đoạn thơ đậm màu sắc hội họa. Nét bút phác thảo của
Quang Dũng thật là tài hoa. Chỉ một vài nét chấm phá vậy mà cái hồn của cảnh vật và con người hiện
lên thật sinh động đầy sức cuốn hút.
+ Không gian dòng sông buổi chiều giăng mắc một màu sương, sông nước bến bờ hoang dại như một
bờ tiền sử. “Hồn lau” những cây lau không còn vô tri vô giác mà có linh hồn. Phải là một hồn thơ nhạy
cảm, tinh tế, tài hoa và lãng mạn mới cảm nhận được hồn lau đang dăng mắc dọc nẻo bến bờ.
- Không gian nên thơ ấy làm nền cho người thơ xuất hiện:
“Có nhớ dáng ngời trên độc mộc”
+ Câu thơ không tả mà gợi, gợi cái dáng mềm mại uyển chuyển của cô gái trên chiếc thuyền độc mộc.
Cảnh rất thơ và người cũng rất tình. Bởi vậy tác giả như ngây ngất đắm say trước cảnh và người. ở đây
cảnh như làm duyên với người.
“Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
+ Duyên dáng đến độ và tình tứ cũng hết lời: Bông hoa rừng cũng đong đưa làm duyên với người. Cảnh
và người hòa quyện đồng điệu, tình tứ đến mê say trong cái nhìn lãng mạn của Quang Dũng.
+ Ta có cảm nhận đây là thế giới của cõi mộng, cõi mơ, cõi thơ và cõi nhạc. Thơ và nhạc là hai yếu tố
tạo nên bức tranh Tây Bắc nên thơ, mĩ lệ. Ai nói rằng Tây Bắc là xứ rừng thiêng nước độc xin hãy một
lần để cho tâm hồn mình lắng lại để chất thơ Tây Bắc ngấm vào hồn.
3. Đoạn 3: Người lính Tây Tiến hào hùng và hào hoa
- Quang Dũng đã dựng bức tượng đài về người lính vô danh trong khổ thơ thứ ba của bài thơ Tây Tiến.
Ta có thể xem khổ thơ thứ ba này là những nét bút cuối cùng hoàn thiện bức tượng đài về chân dung
người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa. Chân dung người lính hiện lên ở khổ thơ thứ 3 có sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp tâm hồn, lý tưởng chiến đấu và phẩm chất hy sinh anh dũng. Có thể nói cả
bài thơ là một tượng đài đầy màu sắc bi tráng về một đoàn quân trên một nền cảnh khác thường.
- Chân dung đoàn binh Tây Tiến được chạm khắc bằng nét bút vừa hiện thực vừa lãng mạn. Các
chi tiết như lấy từ đời sống hiện thực và khúc xạ qua tâm hồn thơ Quang Dũng để rồi sau đó hiện lên
trên trang thơ đầy sức hấp dẫn.
+ Dọc theo hành trình, vẻ đẹp hào hùng kiêu dũng cứ lấp lánh dần lên, đến khi người lính Tây Tiến đối
mặt với dịch bệnh, đối mặt với cái chết thì nó thật chói người, nét nào cũng sắc sảo lạ lùng và đầy lãng
mạn:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm.”
+ Nếu mở đầu đoạn thơ tác giả dùng từ “Đoàn quân” thì ở đây tác giả dùng “Đoàn binh”. Khi dùng
“Đoàn binh” thì gợi hình ảnh đoàn chiến binh có vũ khí, có khí thế xung trận át đi vẻ ốm yếu của bệnh
tật. Ba chữ “không mọc tóc” là đảo thế bị động thành chủ động. Không còn đoàn quân bị sốt rét rừng
lâm tiều tuỵ đi rụng hết cả tóc. Giọng điệu của câu thơ cứ y như là họ cố tình không mọc tóc vậy. Nghe
ngang tàng kiêu bạc và thấy rõ sự bốc tếu rất lính tráng.
+ Các chi tiết “không mọc tóc, quân xanh màu lá” diễn tả cái gian khổ khác thường của cuộc đời người
lính trên một địa bàn hoạt động đặc biệt. Hậu quả của những trận sốt rét rừng triền miên là “tóc không
mọc” da xanh tái. Nhưng đối lập với ngoại hình tiều tụy ấy là sức mạnh phi thường tự bên trong phát ra
từ tư thế “dữ oai hùm”. Với nghệ thuật tương phản chỉ hai dòng thơ Quang Dũng làm nổi bật vẻ khác
thường của đoàn quân Tây Tiến.
- Họ hiện lên như hình ảnh tráng sĩ trượng phu một thuở qua hai câu tiếp:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
G

Page: />

CREST EDUCATION-GIA SƯ 27

+ “Mắt trừng” biểu thị sự dồn nén căm uất đến cao độ như có khả năng thiêu đốt quân thù qua ánh sáng
của đôi mắt. Hình ảnh thơ làm nổi bật ý chí của đoàn binh Tây Tiến. ở đây người lính Tây Tiến được đề
cập đến với tất cả thực trạng mệt mỏi, vất vả qua các từ “không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”. Chính
từ thực trạng này mà chân dung người lính sinh động chân thực.
+ Thế nhưng vượt lên trên khó khăn thiếu thốn, tâm hồn người lính vẫn cất cánh “Đêm mơ Hà Nội
dáng kiều thơm”. Câu thơ ánh lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến. Ban ngày “Mắt trừng gửi
mộng” giấc mộng chinh phu hướng về phía trận mạc nhưng khi bom đạn yên rồi giấc mộng ấy lại hướng về phía sau cũng là hướng về phía trớc, phía tương lai hẹn ước. Một ngày về trong chiến thắng để
nối lại giấc mơ xưa. ý chí thì mãnh liệt, tình cảm thì say đắm. Hai nét đẹp hài hòa trong tính cách của
những chàng trai Tây Tiến.
+ Quang Dũng đã dùng hình ảnh đối lập: một bên là nấm mồ, một bên là ý chí của những người chiến

binh:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gần lên khúc độc hành”
+ “Mồ viễn xứ” là những nấm mồ ở những nơi xa vắng hoang lạnh. Những nấm mồ rải rác trên đường
hành quân, nhng không thể cản được ý chí quyết ra đi của người lính. Câu thơ sau chính là câu trả lời
dứt khoát của những con người đứng cao hơn cái chết: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.”
+ Chính tình yêu quê hương đất nước sâu nặng đã giúp người lính coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Khi
cần họ sẵn sàng hy sinh cho nghĩa lớn một cách thanh thản bình yên như giấc ngủ quên. Câu thơ vang
lên như một lời thề đúng là cái chết của bậc trượng phu “áo bào thay chiếu anh về đất”
Nếu như người tráng sĩ phong kiến thuở trước coi da ngựa bọc thây là lí tưởng thì anh bộ đội cụ
Hồ ngày nay chiến đấu hi sinh vì Tổ quốc một cách tự nhiên thầm lặng.
+ Hình ảnh “áo bào” làm tăng không khí cổ kính trang trọng cho cái chết của người lính. Hai chữ “áo
bào” lấy từ văn học cổ tái tạo vẻ đẹp của một tráng sĩ và nó làm mờ đi thực tại thiếu thốn gian khổ ở
chiến trường. Nó cũng gợi được hào khí của chí trai “thời loạn sẵn sàng chết giữa sa trường lấy da ngựa
bọc thây. Chữ “về” nói được thái độ nhẹ nhõm, ngạo nghễ của người tráng sĩ đi vào cái chết “Anh về
đất” là hình ảnh đầy sức mạnh ngợi ca. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ thiêng liêng, người lính Tây Tiến
trở về trong niềm chở che của đất mẹ quê hương, của đồng đội. Trở về với nơi đã sinh dưỡng ra mình.
- Trước những cái chết cao cả ở địa bàn xa xôi hẻo lánh sông Mã là nhân vật chứng kiến và tiễn đưa:
+ Mở đầu bài thơ ta gặp ngay hình ảnh sông Mã, con sông ấy gắn liền với lịch sử đoàn quân Tây Tiến.
Sông Mã chứng kiến mọi gian khổ, mọi chiến công và giờ đây lại chứng kiến sự hy sinh của người lính.
Đoạn thơ kết thúc bằng khúc ca bi tráng của sông Mã.
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
+ Dòng sông Mã là chứng nhân của một thời kỳ hào hùng, chứng kiến cái chết của người tráng sĩ, nó
gầm lên khúc độc hành bi phẫn, làm rung động cả một chốn hoang sơ. Câu thơ có cái không khí chiến trận của
bản anh hùng ca thời cổ. Câu thơ đề cập đến mất mát đau thương mà vẫn hùng tráng.
4. Bốn câu kết:
Bốn câu thơ kết thúc được viết như những dòng chữ ghi vào mộ chí. Những dòng sông ấy cũng
chính là lời thề của các chiến sĩ vệ quốc quân.

“Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy”
“Mùa xuân” có thể được dùng nhiều nghĩa: thời điểm thành lập đoàn quân Tây Tiến (mùa xuân
1947), mùa xuân của đất nước, mùa xuân (tuổi thanh xuân) của đời các chiến sĩ.
Hình ảnh “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”, “chẳng về xuôi” bỏ mình trên đường hành quân
“Hồn về Sầm Nứa”: chí nguyện của các chiến sĩ là sang nước bạn hợp đồng tác chiến với quân tình
nguyện Lào chống thực dân Pháp, thực hiện lý tưởng đến cùng. Bởi vậy dù đã ngã xuống trên đường
hành quân hồn (tinh thần của các anh) vẫn đi cùng với đồng đội, vẫn sống trong lòng đồng đội: Vang
vọng âm hửơng văn tế của Nguyễn Đình Chiểu: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc”.
G

Page: />

CREST EDUCATION-GIA SƯ 27

Vợ chồng A Phủ
Tô Hoài
1. Nhân vật Mị
1.1. Hình ảnh Mị trong đoạn văn mở đầu truyện
– Một cô gái âm thầm, lẻ loi, sống như gắn vào những vật vô tri, vô giác: “Ai ở xa về, có việc vào nhà
thống lý Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu
ngựa”.
– Một cô con dâu nhà thống lý quyền thế, giàu sang “nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện” nhất
làng nhưng lúc nào cũng “cúi mặt”, “buồn rười rượi”.
Hình ảnh của Mị hoàn toàn tương phản với cái gia đình mà Mị đang ở. Sự tương phản ấy báo hiệu một
cuộc đời không bằng phẳng, một số phận nhiều uẩn khúc và một bi kịch của cõi nhân thế nơi miền núi
cao Tây Bắc.
1.2. Cuộc đời, số phận, tính cách của nhân vật Mị
a. Trước hết, Mị là cô gái có ngoại hình đẹp và nhiều phẩm chất tốt, đáng lẽ có thể sống một cuộc sống
hạnh phúc:
+ Một cô gái trẻ đẹp và có tài thổi sáo.

+ Một cô gái chăm làm, sẵn sàng lao động, không quản ngại khó khăn.
+ Một cô gái yêu đời, yêu cuộc sống tự do, không ham giàu sang phú quý.
+ Một người con hiếu thảo.
Có thể khẳng định, Mị là một hình tượng đẹp về người thiếu nữ Tây Bắc. Ở Mị, toát lên cái đẹp vừa tự
nhiên, giản dị vừa phóng khoáng, thẳm sâu như thiên nhiên núi rừng miền Tây Tổ quốc. Tuy nhiên, trái
với những gì Mị đáng được hưởng, bi kịch đã đến với Mị một cách phũ phàng bởi cường quyền bạo lực
và thần quyền hủ tục.
b. Cô Mị với kiếp “con dâu gạt nợ” ở nhà thống lý Pá Tra:
– “Con dâu gạt nợ”:
Bề ngoài là con dâu vì Mị là vợ A Sử, nhưng bên trong Mị chỉ là một thứ gán nợ, bắt nợ để bù đắp cho
khoản tiền mà bố mẹ Mị đã vay của nhà thống lý Pá Tra nhưng chưa trả được. Điều đau đớn trong thân
phận của Mị là ở chỗ: nếu chỉ là con nợ thay cho bố mẹ thì Mị hoàn toàn có thể hi vọng vào một ngày
nào đó sẽ được giải thoát sau khi món nợ đã được thanh toán (bằng tiền, bằng vật chất hoặc công lao
động). Nhưng Mị lại là con dâu, bị cướp về và “cúng trình ma” ở nhà thống lý. Linh hồn Mị đã bị con
“ma” ấy “cai quản”. Đến hết đời, dù món nợ đã được trả, Mị cũng sẽ không bao giờ được giải thoát,
được trở về với cuộc sống tự do. Đây chính là bi kịch trong cuộc đời Mị.
– Đời “con dâu gạt nợ” của Mị ở nhà thống lý là một quãng đời thê thảm, tủi cực, sống mà như đã chết.
Ở đó:
+ Mị dường như đã bị tê liệt cả lòng yêu đời, yêu sống lẫn tinh thần phản kháng.
+ Mị chỉ là một công cụ lao động.
+ Thân phận của Mị không bằng con trâu, con ngựa trong nhà.
+ Mị âm thầm như một cái bóng.
+ Mị như một tù nhân của chốn địa ngục trần gian, đã mất tri giác về cuộc sống.
Nhà văn không chỉ gián tiếp tố cáo sự áp bức bóc lột của bọn địa chủ phong kiến miền núi mà còn nói
lên một sự thật đau xót: dưới ách thống trị của cường quyền bạo lực và thần quyền hủ tục, người dân
lao động miền núi Tây Bắc bị chà đạp một cách tàn nhẫn về tinh thần đến mức tê liệt cảm giác về sự
sống, mất dần ý niệm về cuộc đời, từ những con người có lòng ham sống mãnh liệt trở thành những
người sống mà như đã chết, tẻ nhạt và vô thức như những đồ vật trong nhà. Một sự hủy diệt ý thức sống
của con người thật đáng sợ!
c. Sức sống tiềm tàng mãnh liệt (đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài)

– Những tác động của ngoại cảnh:
+ Trước hết là khung cảnh mùa xuân.
+ Tiếp đó là “tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi” – tiếng sáo gọi bạn tình “vọng” vào tâm hồn Mị “thiết tha
bổi hổi”.
G

Page: />

CREST EDUCATION-GIA SƯ 27

+ Bữa cơm Tết cúng ma đón năm mới rộn rã “chiêng đánh ầm ĩ” và bữa rượu tiếp ngay bữa cơm bên
bếp lửa.
Những biểu hiện của ngoại cảnh ấy không thể không tác động đến Mị, nhất là tiếng sáo. Bởi vì ngày
trước Mị thổi sáo giỏi, bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị. Tiếng sáo gọi bạn tình,
“tiếng sáo rủ bạn đi chơi” chính là tiếng ca của hạnh phúc, là biểu tượng của tình yêu đôi lứa. Nó đã
xuyên qua hàng rào lạnh giá bên ngoài để “vọng” vào miền sâu thẳm trong tâm hồn Mị, đánh thức cái
sức sống vẫn được bảo lưu đâu đó trong cõi lòng người thiếu nữ Tây Bắc này.
– Diễn biến tâm lý, hành động
+ Đầu tiên, Mị “ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi”.
+ Trong không khí của một đêm tình mùa xuân, trong cái nồng nàn của bữa rượu ngày Tết, “Mị cũng
uống rượu”.
+ Mị “thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước”. Mị cảm
thấy mình “trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi.
+ Mị cảm thấy rõ hơn bao giờ hết cái vô nghĩa lý của cuộc sống thực tại: “Nếu có nắm lá ngón trong
tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa”.
+ “Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo”. Tiếng sáo như hối thúc Mị “quấn lại tóc”, “với tay lấy cái
váy hoa vắt ở phía trong vách” để “đi chơi”. Những biến động mạnh mẽ trong tâm hồn Mị đã chuyển
hóa thành hành động thực tế và hành động này dẫn đến những hành động tiếp theo không thể ngăn
được.
Rõ ràng, cái khát vọng sống, niềm khát khao hạnh phúc vẫn được bảo lưu ở đâu đó trong sâu thẳm tâm

hồn nhân vật Mị. Nó giống như hòn than vẫn đang âm ỉ cháy dưới lớp tro tàn nguội lạnh và chỉ cần một
ngọn gió thổi tới là nó có thể bùng cháy một cách mãnh liệt. Những tác động của ngoại cảnh là không
nhỏ nhưng cái sức mạnh tiềm ẩn, không thể nào dập tắt của con người mới là điều mấu chốt quyết định
sức sống của Mị, của mỗi cá nhân.
d. Sức phản kháng táo bạo (hành động cởi dây trói cho A Phủ)
Dù bị dập vùi một cách tàn nhẫn nhưng không vì thế mà lòng ham sống và khát khao hạnh phúc trong
Mị bị triệt tiêu. Trái lại, trong những hoàn cảnh đặc biệt nó còn bừng dậy một cách mạnh mẽ và chuyển
hóa thành sức phản kháng táo bạo. Có thể thấy rõ điều đó qua diễn biến tâm lí và hành động của Mị
trong đêm cô cứu A Phủ rồi cùng anh bỏ trốn khỏi Hồng Ngài:
+ Ban đầu, trước cảnh tượng A Phủ bị trói, Mị hoàn toàn dửng dưng.
+ Nhưng sau đó, khi chứng kiến dòng nước mắt chảy xuống gò má đã xạm đen lại của A Phủ, Mị đã
đồng cảm, thương mình và thương người.
+ Thương mình, thương người, Mị càng nhận rõ tội ác của cha con thống lí.
+ Dù trong lòng vẫn có những sợ hãi nhưng Mị đã cứu A Phủ rồi cùng A Phủ bỏ trốn khỏi Hồng Ngài.
Đây là hệ quả tất yếu sau những gì đã diễn ra ở Mị. Từ đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài đến đêm cứu
A Phủ là một hành trình tìm lại chính mình và tự giải thoát khỏi những “gông xiềng” của cả cường
quyền bạo lực và thần quyền lạc hậu. Đó cũng là sự khẳng định ý nghĩa của cuộc sống và khát vọng tự
do cháy bỏng của người dân lao động Tây Bắc.
2. Nhân vật A Phủ
2.1. Một số phận éo le
– Sớm mồ côi cha mẹ (cha mẹ chết trong một trận dịch đậu mùa).
– Nghèo, không lấy nổi vợ vì phép làng và tục lệ cưới xin ngặt nghèo.
2.2. Một cá tính mạnh mẽ, một hình ảnh đẹp về người lao động miền núi Tây Bắc
– Có ý chí và nghị lực sống, A Phủ đã vượt qua mọi cơ cực để trở thành chàng trai Mông khỏe mạnh,
tháo vát, trở thành niềm mơ ước của nhiều cô gái trong bản.
– Gan góc từ bé, ham lao động, A Phủ không quản ngại những công việc nặng nhọc, khó khăn, nguy
hiểm.
– Không sợ cường quyền, sẵn sàng trừng trị kẻ xấu.
– Ham sống, yêu tự do, có sức sống tiềm tàng mãnh liệt.
2.3. Một nạn nhân của giai cấp thống trị phong kiến miền núi tàn bạo

G

Page: />

CREST EDUCATION-GIA SƯ 27

– Chỉ vì đánh con quan mà bị phạt rất nặng, bị làng “bắt vạ”, trở thành một kiểu “nô lệ” trong nhà
thống lí Pá Tra.
– Chỉ vì lỡ để hổ bắt mất một con bò mà bị cha con thống lí bắt trói, hành hạ dã man, có thể phải trả giá
bằng cả tính mạng.
Nhân vật A Phủ vừa là bằng chứng sống về tội ác của giai cấp thống trị miền núi Tây Bắc vừa là một
hình ảnh đẹp, tiêu biểu của người dân lao động ở một vùng núi cao nước ta.
3. Giá trị hiện thực, nhân đạo của tác phẩm
3.1. Giá trị hiện thực
– Truyện miêu tả chân thực số phận nô lệ cực khổ của người dân lao động nghèo Tây Bắc dưới ách
thống trị của bọn cường quyền phong kiến miền núi (dẫn chứng Mị, A Phủ).
– Truyện phơi bày bản chất tàn bạo của giai cấp phong kiến thống trị ở miền núi (dẫn chứng cha con
thống lí Pá Tra)
– Truyện đã tái hiện một cách sống động vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên và phong tục, tập quán của
người dân miền núi Tây Bắc (cảnh mùa xuân, cảnh xử kiện A Phủ)
3.2. Giá trị nhân đạo.
– Truyện thể hiện lòng yêu thương, sự đồng cảm sâu sắc với thân phận đau khổ của người lao động
nghèo miền núi (dẫn chứng nhân vật Mị, A Phủ)
– Phê phán quyết liệt những thế lực chà đạp con người (cường quyền và thần quyền).
– Truyện khẳng định niềm tin vào vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt và khát vọng hạnh phúc cháy
bỏng của con người. Dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt đến mức nào, con người cũng không mất đi khát
vọng sống tự do và hạnh phúc (Dẫn chứng nhân vật Mị- trong đêm tình mùa xuân, cởi trói A Phủ)
– Thông qua câu chuyện, nhà văn đã chỉ ra cho người dân miền núi Tây Bắc nói riêng, những số phận
khổ đau nói chung con đường tự giải thoát khỏi những bất công, con đường làm chủ vận mệnh của
mình (dẫn chứng hành động cởi trói cho A Phủ, cùng A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài).

4. Đặc sắc nghệ thuật
4.1. Nghệ thuật kể chuyện
– Cách giới thiệu nhân vật đầy bất ngờ, tự nhiên mà ấn tượng. Cách dẫn dắt tình tiết khéo làm cho
mạch truyện phát triển và vận động liên tục, biến đổi hấp dẫn mà không rối, không trùng lặp.
– Ngôn ngữ kể chuyện sinh động, chọn lọc và sáng tạo, lối văn giàu tính tạo hình thấm đẫm chất thơ.
4.2. Nghệ thuật miêu tả tâm lý và phát triển tính cách nhân vật
– Nhà văn ít tả hành động mà chủ yếu khắc họa tâm tư, nhiều khi mới chỉ là các ý nghĩ chập chờn trong
tiềm thức nhân vật.
4.3. Nghệ thuật tả cảnh đặc sắc
– Cảnh thiên nhiên thơ mộng được miêu tả bằng ngôn ngữ giàu chất thơ và chất tạo hình (cảnh mùa
xuân về trên núi Hồng Ngài).
– Cảnh miền núi với những nét sinh hoạt phong tục riêng, sinh động (Cảnh đêm tình mùa xuân, cảnh
cúng trình ma, cảnh xử kiện).

G

Page: />

CREST EDUCATION-GIA SƯ 27

Chiếc thuyền ngoài xa
Nguyễn Minh Châu
1. Nhan đề
– Chiếc thuyền ngoài xa trước hết là biểu tượng của nghệ thụât, đó là thứ nghệ thụât đạt tới sự toàn mĩ
và thánh thiện đến mức mà chiêm ngưỡng nó, người nghệ sĩ thấy tâm hồn mình được thanh lọc.
– Chiếc thuyền khi về gần đó lại là hiện thân của cuộc đời lam lũ, khó nhọc, thậm chí của những éo le,
trái ngang và nghịch lí trong cuộc sống.
– Như vậy, chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa nhưng cuộc đời thì lại rất gần. Người nghệ sĩ cần có
một khoảng cách nhất định để khám phá và thưởng thức vẻ đẹp đích thực của nghệ thụât nhưng lại
cũng cần bám sát cuộc đời để phát hiện ra những sự thật của cuộc sống.

– Nhan đề là một ẩn dụ về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật.
2. Tình huống truyện
– Tình huống: một nghệ sĩ nhiếp ảnh đến một vùng ven biển miền Trung để chụp một tấm ảnh về cảnh
biển buổi sớm có sương. Tại đây, anh đã phát hiện và chụp được một cảnh tượng “trời cho” – đó là
cảnh một chiếc thuyền ngoài xa đang ẩn hiện trong biển sớm mờ sương. Nhưng khi chiếc thuyền vào
bờ, người nghệ sĩ đã chứng kiến cảnh một gã chồng vũ phu đánh đập người vợ hết sức dã man. Ba hôm
sau, cảnh tượng ấy lại diễn ra, người đàn bà được mời đến tòa án huyện, tại đây, người nghệ sĩ lắng
nghe câu chuyện về cuộc đời của người đàn bà hàng chài kể lại và đó như một lời giải thích vì sao chị
ta không bỏ chồng dù người chồng tàn bạo.
– Đây là một “tình huống nhận thức”, có ý nghĩa khám phá, phát hiện về chân lí đời sống, chân lí nghệ
thuật. Phùng đã phát hiện sau cảnh đẹp như mơ kia là những ngang trái, nghịch lí của đời thường.
– Tình huống truyện, thể hiện cái nhìn đa chiều về cuộc sống. Chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng đã hiểu
ra nhiều điều về con người, cuộc sống khi chứng kiến câu chuyện và tiếp xúc với người đàn bà hàng
chài. Từ tình huống truyện, tác giả đã đặt ra vấn đề “đôi mắt”, cách nhìn đời, nhìn người trong cuộc
sống.
3. Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng
* Một người nghệ sĩ đích thực, người đã phát hiện, cảm nhận được vẻ đẹp và giá trị của một
“cảnh đắt trời cho”- một cảnh tượng tuyệt đẹp
– Đó một “bức hoạ” diệu kì mà thiên nhiên, cuộc sống đã ban tặng cho con người.
– Mặt khác, như chính cảm nhận của nghệ sĩ Phùng, trong sự cảm nhận ban đầu cái cảnh tượng ấy
giống như “một bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ”. Toàn bộ khung cảnh “từ đường nét đến
ánh sáng đều hài hoà và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”.
– Đứng trước một sản phẩm nghệ thuật tuyệt tác của hoá công, người nghệ sĩ trở nên “bối rối” và
“trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Tức là bức ảnh đã khiến cho tâm hồn người nghệ sĩ rung
động thật sự và một cảm xúc thẩm mĩ đang dấy lên trong lòng anh.
– Chưa hết, trong giây lát, người nghệ sĩ còn “khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá
thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Nói cách khác, trong một khoảnh khắc của cuộc sống,
nghệ sĩ Phùng đã cảm nhận được cái Chân, cái Thiện của cuộc đời, anh cảm thấy tâm hồn mình như
được gột rửa, trở nên thật trong trẻo, tinh khôi
– Tuy nhiên, ngay khi tâm hồn đang bay bổng trong những xúc cảm thẩm mĩ, đang tận hưởng cái

khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn thì người nghệ sĩ nhiếp ảnh đã kinh ngạc phát hiện ra:
+ Bước ra từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ là một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi; một gã đàn ông to
lớn, dữ dằn; một cảnh tượng tàn nhẫn: gã chồng đánh đập người vợ một cách thô bạo; Đứa con vì
thương mẹ đã đánh lại cha để rồi nhận lấy hai cái bạt tai của bố ngã dúi xuống cát… Chứng kiến những
cảnh tượng đó, nghệ sĩ Phùng kinh ngạc đến thẫn thờ: “Tất cả mọi việc xảy đến khiến tôi kinh ngạc đến
mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn”. Người nghệ sĩ như “chết lặng”, không tin
vào những gì đang diễn ra trước mắt.
+ Sở dĩ nghệ sĩ Phùng trở nên như vậy là vì anh không thể ngờ rằng đằng sau cái vẻ đẹp diệu kì của tạo
hoá kia lại có cái ác, cái xấu đến không thể tin được. Vừa mới lúc trước, anh còn cảm thấy “bản thân
G

Page: />

CREST EDUCATION-GIA SƯ 27

cái đẹp chính là đạo đức”, thấy “chân lí của sự toàn thiện” thế mà chỉ ngay sau đó chẳng còn cái gì là
“đạo đức”, là cái “toàn thiện” của cuộc đời. Phùng xót xa cay đắng nhận thấy cái xấu xa, ngang trái, bi
kịch trong gia đình người dân chài đã làm cho tấm ảnh của anh chụp được kia như nhuốm màu đau
thương ghê sợ. Chao ôi! Nghệ thuật không thể là màn sương mờ ảo màu sữa pha ánh hồng ban mai che
lấp đi nỗi đau thương của kiếp người.
– Qua hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng, Nguyễn Minh Châu muốn người đọc nhận thức về mối quan hệ
giữa nghệ thuật và đời sống. Nghệ thuật không thể chỉ dừng lại ở vẻ đẹp bề ngoài nhất là cái vẻ đẹp
tuyệt vời thơ mộng, mà còn phải thấu nhị tới bề sâu, bề sâu của cuộc đời không hề đơn giản, mà tâm
điểm chính là con người với số phận đa đoan, với mọi nhọc nhằn và cả khổ đau, không hiếm những
ngang trái bi kịch. Cuộc đời đâu phải chỉ toàn màu hồng, cuộc đời không đơn giản, xuôi chiều mà chứa
đựng nhiều nghịch lí. Cuộc sống luôn tồn tại những mặt đối lập, những mâu thuẫn: đẹp – xấu, thiện –
ác… Vì thế mà nhà văn đã có dụng ý khi để cảnh tượng “trời cho” hiện ra trước như là vỏ bọc bên
ngoài hòng che giấu cái bản chất thực của đời sống ở bên trong. Nhà văn khẳng định: Đừng nhầm lẫn
hiện tượng với bản chất, giữa hình thức bên ngoài với nội dung bên trong không phải bao giờ cũng
thống nhất; đừng vội đánh giá con người, sự vật ở dáng vẻ bên ngoài, phải phát hiện ra bản chất thực

sau vẻ ngoài đẹp đẽ của hiện tượng.
*Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, một con người có lòng tốt, không chấp nhận bất công nhưng lại đơn
giản khi nhìn nhận cuộc sống.
– Chứng kiến cảnh tượng người đàn bà bị đánh đập một cách đầy vô lí như thế, nghệ sĩ nhiếp ảnh
Phùng đã đánh nhau với lão chồng để bảo vệ chị ta, để rồi bị thương, với những vết thương trên mặt đã
lên da non nhưng vẫn còn lại dấu tích. Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng cũng cảm thấy hết sức bức bối khi
nghe người phụ nữ van xin vị chánh án đừng bắt chị phải li hôn với người chồng vũ phu. Cảm giác căn
phòng ngủ lồng lộng gió của chánh án Đẩu (bạn anh) tự nhiên bị hút hết không khí và trở nên ngột ngạt
quá!
– Những lời nói chẳng dễ nghe chút nào của người đàn bà hàng chài khiến cho Phùng phải suy nghĩ:
“Chị cám ơn các chú, lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn… cho nên các chú
đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc”. Những câu hỏi lạc đề “Lão ta trước
hồi 75 có đi lính ngụy không?” cho thấy Phùng cũng lại bị định kiến chi phối. Rồi Phùng thốt lên
“không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được”, đúng, Phùng không thể hiểu cái lí của sự cam
chịu ở những con người phải sống trong vòng vây của cái đói nghèo, lạc hậu, của cuộc sống nhọc nhằn,
không thể hiểu “suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái ăn toàn cây xương rồng luộc chấm muối”,
cũng không thể hiểu sự đan cài giữa tình thương và hành động tàn nhẫn, giữa niềm vui và nỗi buồn
trong một gia đình… và “bởi vì, các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là
nỗi vất vả của một người đàn bà trên chiếc thuyền không có đàn ông… dù hắn man rợ và tàn bạo”.
– Câu chuyện mà người đàn bà hàng chài kể ở toà án đã giúp Phùng hiểu ra: Người đàn bà không hề
cam chịu một cách vô lí, không hề nông nổi một cách ngờ nghệch mà thực ra chị ta là người rất sâu sắc,
thấu hiểu lẽ đời. Người phụ nữ này có một cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ nhưng biết chắt chiu những hạnh
phúc đời thường. Sống cam chịu và kín đáo, hiểu sâu sắc lẽ đời nhưng chị không để lộ điều đó ra bên
ngoài. Đây là người phụ nữ có ngoại hình xấu xí, thô kệch nhưng tâm hồn đẹp đẽ, thấp thoáng bóng
dáng của những người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu đức hi sinh và lòng vị tha.
– Qua câu chuyện của người đàn bà hàng chài Phùng cũng nhận ra người đồng đội cũ – chánh án Đẩu
cũng có lòng tốt giống anh, sẵn sàng bảo vệ công lí nhưng chánh án Đẩu chưa thực sự đi sâu vào đời
sống nhân dân. Lòng tốt là đáng quý nhưng chưa đủ. Luật pháp là cần thiết nhưng cần phải đi vào đời
sống. Cả lòng tốt và luật pháp đều phải được đặt vào những hoàn cảnh cụ thể, không thể áp dụng với
mọi đối tượng và có những vấn đề không thể giải quyết bằng luật pháp. Và cũng qua câu chuyện của

người đàn bà hàng chài nghệ sĩ Phùng cũng nhận ra: Mình đã đơn giản khi nhìn nhận cuộc đời và con
người. Những thông điệp nghệ thuật về cách nhìn nhận con người và cuộc đời: Đừng bao giờ nhìn nhận
cuộc đời và con người một cách dễ dãi, xuôi chiều. Cần phải nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng trong
hoàn cảnh cụ thể của nó và trong quan hệ với nhiều yếu tố khác nữa.

G

Page: />

CREST EDUCATION-GIA SƯ 27

*Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng chính là “điểm nhìn nghệ thuật” của nhà văn, là hình tượng nhân vật kể
chuyện vừa đem lại tính chân thực và hấp dẫn cho câu chuyện kể vừa tạo ra một khoảng cách, một “cự
ly”, một độ lùi nhất định để suy ngẫm.
Hình ảnh người nghệ sĩ “khoác máy ảnh đi lang thang cho đến tận khuya” đã gián tiếp nói rằng: nhận
thức của Phùng thực sự đã đổi khác, anh đã để ngỏ tâm hồn mình cho bao cảnh sắc của một hiện thực ít
thi vị ùa tới “trời trở gió đột ngột, từng mảng mây đen xếp ngổn ngang trên mặt biển đen ngòm, và biển
bắt đầu gào thét, sóng bạc đầu và “… chiếc thuyền đang chống chọi với sóng gió giữa phá”. Chiếc
thuyền được đặt trong khung cảnh dữ dội của một cơn biển động, cuộc vật lộn mưu sinh nhọc nhằn vẫn
còn đó. Nó cho thấy rằng, chiếc thuyền ngoài xa đâu chỉ là vấn đề về mối quan hệ giữa nghệ thuật và
đời sống. Sức ám ảnh người đọc ở tác phẩm này còn là mối quan hoài đến xót xa, day dứt của nhà văn
về những nỗi nhọc nhằn đau khổ của con người, giống như những người đi biển họ vẫn luôn phải chống
chọi với phong ba và bão táp và cuộc sống vốn chẳng bao giờ bình yên. Truyện ngắn kết thúc bằng
những suy nghĩ cảm nhận của người nghệ sĩ mỗi lẫn ngắm bức ảnh được chụp tại vùng biển nọ: nhìn kĩ
vào bức ảnh đen trắng, người nghệ sĩ đều thấy “hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai”. Và
nếu nhìn lâu hơn, bao giờ anh cũng thấy “người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh…”. “Cái màu
hồng hồng của ánh sương mai” là chất thơ của cuộc sống, là vẻ đẹp lãng mạn của cuộc đời, là biểu
tượng của nghệ thuật. Còn hình ảnh “người đàn bà ấy bước ra khỏi bức tranh” là hiện thân của những
lam lũ, khốn khó của đời thường. Nó là sự thật cuộc đời đằng sau bức tranh.
3. Người đàn bà hàng chài

* Ngoại hình: có vẻ ngoài xâu xí, thô kệch “vốn là đứa con gái xấu lại rỗ mặt sau một bận lên đậu
mùa”. Người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn này đâu có được một chút nhan sắc mà chị rất xấu xí,
khuôn mặt rỗ càng khó nhìn hơn khi chị ta bước sang cái tuổi trạc ngoài bốn mươi.
* Số phận, cuộc đời:
+ Số phận kém may mắn: Trong câu chuyện về cuộc đời mình, chị đã nhận thức được rất rõ sự kém
may mắn của mình: “cũng vì xấu, trong phố không ai lấy, tôi có mang với một anh con trai của một
hàng chài giữa phá hay đến nhà tôi mua bả về đan lưới”.
+ Cuộc đời lam lũ, vất vả.
* Tính cách:
– Một người đàn bà cam chịu, nhẫn nhục.
+ Hành động và lời nói của người chồng: “trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng
quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ
mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ, đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ.
Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”.
+ Trước hành động rất tàn bạo của người chồng, người đàn bà hàng chài đã không hề kêu một tiếng,
không chống trả cũng không tìm cách chạy trốn.
– Giàu lòng tự trọng.
+ Chồng đánh như vậy, chị ta đâu có khóc
+ Nhưng chỉ sau khi biết được hành động vũ phu của chồng đã bị thằng Phác và người khách lạ (nghệ
sĩ Phùng) phát hiện chị lại cảm thấy đau đớn, vừa đau đớn, vừa vô cùng xấu hổ và nhục nhã. Nhiều khi,
sự đau đớn do đòn roi không thể làm con người ta bật khóc, điều này đúng trong trường hợp của người
đàn bà hàng chài. Những giọt nước mắt đau đớn chứa đựng biết bao sự nhọc nhằn chỉ thực sự rơi khi
thấy đứa con yêu của mình chứng kiến cảnh tượng mình bị chồng đánh, chỉ thực sự rơi khi có người
khách lạ chứng kiến
– Sống rất sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời, hiểu chồng, thương con vô bờ bến, một người phụ nữ vị tha
giàu đức hy sinh.
+ Được mời đến tòa án huyện để giải quyết việc gia đình, lúc đầy chị ta rụt rè, tìm một góc tường ở
chốn công đường kia để ngồi. Nhà văn có miêu tả, đây không phải là lần đầu người đàn bà đến chốn
công đường nhưng người đàn bà ấy vẫn có cái vẻ sợ sệt, lúng túng- cái sợ sệt lúng túng ấy ngay lúc chị
ta đứng ở bãi xe tăng cũng không hề thấy có. Chị thấy sợ hãi khi đến một không gian lạ. Chị ta thật tội


G

Page: />

CREST EDUCATION-GIA SƯ 27

nghiệp, cái thế ngồi bị động, ngồi vào mép ghế và cố thi người lại, ngồi như thể để tự vệ cho dù đã
được Đẩu nói bằng những lời rất thân mật, chia sẻ, cảm thông.
+ Nguyễn Minh Châu đã dụng công nhấn vào sự thay đổi ngôn ngữ và tâm thế của người đàn bà hàng
chài. Ban đầu, khi gặp chánh án Đẩu, chị còn xưng “con” và có lúc đã van xin, “con lạy quý tòa” …
“Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Nhưng khi thấy Phùng
xuất hiện, đang cúi gục lập tức người đàn bà hàng chài ngẩng lên, nhìn thẳng, “chị cám ơn các chú….
Lòng cách chú tốt nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái
việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc”. Vẻ bề ngoài khúm núm, sợ sệt, điệu bộ khác, ngôn ngữ
khác đã làm cho cả Đẩu và Phùng hết sức ngạc nhiên. Người đàn bà hàng chài kia không hề giản đơn
như Đẩu và Phùng nghĩ. Thì ra, cái nghề chài lưới trên một chiếc thuyền vó bè lênh đênhh không thể
thiếu bàn tay và sức lực của người đàn ông. Để duy trì sự tồn tại cho cả gia đình thì họ phải hợp sức lại
mà làm quần quật để nuôi một đàn con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Tình cảnh của người đàn bà
hàng chài kia cũng như của bao gia đình hàng chài khác, trừ phi chị nói “giá tôi đẻ ít đi hoặc chúng tôi
sắm được một chiếc thuyền rông hơn”
+ Trong câu chuyện kể về cuộc đời mình, người đàn bà hàng chài kia đã chấp nhận đau khổ, coi nỗi
khổ vận vào đời mình như một lẽ đương nhiên. Chị sống cho con chứ không phải là sống cho mình.
Nếu những phụ nữ trên các thuyền khác chấp nhận người đàn ông uống rượu thì chị cũng chấp nhận để
chồng đánh chỉ xin chồng là đánh ở trên bờ, đừng để các con nhìn thấy. Đó là một cách ứng xử rất nhân
bản.
+ Ở đây, lẽ đời đã chiến thắng. Người lao động lam lũ, nghèo khổ không có uy quyền nhưng có cái tâm
của một người thương con, thấu hiểu lẽ đời cũng là một thứ quyền uy có sức công phá lớn. Nó đã làm
chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng nhận thức được nhiều điều. Nhận thức được, nỗi nhọc nhằn vất vả
trong công việc làm ăn của cư dân vùng biển. Nhận thức được cuộc sống bấp bênh khiến họ phải chấp

nhận không ít những nghịch cảnh, những ngang trái. Nhận thức được người đàn bà kia không hề chịu
đòn roi một cách vô lí, cả Đầu và Phùng chua chát nhận ra rằng: trên thuyền cần có một người đàn
ông… dù hắn man rợ, tàn bạo, cần có một người đàn ông để chèo chống khi biển phong ba bão táp.
Nhận thức được ở người phụ nữ ấy chứa đựng mẫu tính sâu xa như một bản năng: “Ông trời sinh ra
người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”, những lời
lẽ ấy của người đàn bà hàng chài được thốt lên từ một niềm tin đơn giản mà vững chắc vào cái thiên
chức mà trời đã giao phó cho người đàn bà. Nhận thức được rằng, người đàn bà hàng chài kia rất biết
tìm cho mình những niềm vui, hạnh phúc dẫu rất nhỏ nhoi trong cuộc sống đầy khó khăn. Ở chị vững
bền một niềm tin, một tình yêu và sự lạc quan vào cuộc sống. Hãy biết sống ngay khi cả cuộc đời
không thể chịu được nữa, nụ cười chợt ửng sáng lên trên khuôn mặt rỗ chằng chịt chị nghĩ đến “trên
thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận vui vẻ” và niềm vui “nhìn đàn con tôi
chúng nó được ăn no”. Hạnh phúc với người đàn bà hàng chài kia thật giản dị mà không kém phần sâu
sắc. Nhận thức được nỗi đau, cũng như sự thâm trầm trong việc thấu hiểu các lẽ đời người đàn bà kia
không bao giờ để lộ ra bên ngoài cả
Kết thúc truyện ngắn, người đọc vẫn không biết người đàn bà hàng chài kia tên gì, phải chăng là nhà
văn đã sơ xuất? Không phải, đó chính là dụng ý nghệ thuật của nhà văn, người nghệ sĩ nhiếp ảnh kể
rằng mỗi khi nắm thật kĩ bức ảnh mà mình chụp anh lại thấy người đàn bà hàng chài ấy bước ra từ bức
ảnh “mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân rậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông….”
nghĩa là người đàn bà ấy chỉ là một người trong đám đông của những con người lam lũ, nhọc nhằn,
những con người lao khổ, đông đúc và vô danh. Qua nhân vật người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh
Châu cũng khẳng định: sự lam lũ, vất vả, nhọc nhằn không làm mất đi ở người phụ nữ vùng biển nói
riêng, người phụ nữ Việt Nam nói chung tấm lòng yêu thương, nhân hậu bao dung, vị tha. Và với người
phụ nữ, gia đình hạnh phúc là gia đình trọn vẹn các thành viên cho dù đây đó vẫn có những tính cách
chưa hoàn thiện.
Qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện sự cảm thông sâu sắc đối với
những cảnh đời, những thân phận trớ trêu, gặp nhiều bất hạnh trong cuộc sống đồng thời gửi gắm
những chiêm nghiệm sâu sắc của mình về nghệ thuật: nghệ thuật chân chính phải luôn luôn gắn bó với
G

Page: />


CREST EDUCATION-GIA SƯ 27

cuộc đời và vì cuộc đời; người nghệ sĩ không thể nhìn đời một cách giản đơn, cần phải nhìn nhận cuộc
sống và con người một cách đa diện, nhiều chiều.
Hồn Trương Ba, da hàng thịt
Lưu Quang Vũ
1. Nhan đề:
Nhan đề của tác phẩm được xây dựng trong nghệ thuật tương phản giữa hồn Trương Ba và xác hàng
thịt. Nếu hồn Trương Ba là ẩn dụ biểu tượng cho tâm hồn, cho thế giới nội tâm sâu kín bên trong của
con người, là biểu tượng cho vẻ đẹp trong sáng thanh cao; da hàng thịt là ẩn dụ biểu tượng cho vẻ bề
ngoài thể xác con người, biểu tượng cho cái xấu xa, cái dung tục tầm thường, cái bản chất thấp kém
trong một con người. Thì nhan đề trên không chỉ diễn tả sinh động sự mâu thuẫn giữa thể xác và linh
hồn Trương Ba mà còn là sự mâu thuẫn giữa hình thức và nội dung của sự vật hiện tượng trong cuộc
sống.
Thông qua nhan đề mang tính hình tượng này Lưu Quang Vũ đã phản ánh một hiện thực cuộc sống con
người khi bị rơi vào nghịch cảnh, phải sống giả tạo bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo, không
được sống đích thực là chính mình. Đồng thời, nhà văn cũng cảnh tỉnh chúng ta: khi không làm chủ
được hoàn cảnh, không làm chủ được bản thân để lối sống dung tục tầm thường lấn át lối sống thanh
cao trong sáng, để thể xác sai khiến linh hồn, để những ham muốn bản năng thấp kém làm cho nhân
cách lệch lạc, nhoà mờ khiến tâm hồn và thể xác không còn là một thể hài hoà thống nhất. Nhan đề hồn
Trương Ba da hàng thịt là một hình tượng nghệ thuật đã thâu tóm cả giá trị phản ánh hiện thực lẫn nội
dung nhân đạo của tác phẩm
2. Xung đột kịch
*Tình huống dẫn đến đối thoại Hồn – Xác.
- Sau mấy tháng sống trong tình trạng “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”, nhân vật Hồn Trương
Ba ngày càng trở nên xa lạ với bạn bè, người thân trong gia đình và tự chán ghét chính mình, muốn
thoát ra khỏi nghịch cảnh trớ trêu.
+ Trước khi diễn ra cuộc đối thoại giữa hồn và xác, nhà viết kịch đã để cho Hồn Trương Ba “ngồi ôm
đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy” với một lời độc thoại đầy khẩn thiết:

“- Không. Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải là của tôi này
lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng, thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc! Nếu cái
hồn của ta có hình thù riêng nhỉ, để nó tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát”.
* Xung đột trong cuộc đối thoại Hồn – Xác.
Bức xúc vì phải sống nhờ trong thân xác người hàng thịt, vì mình không còn là mình nữa, hồn Trương
Ba đòi thoát ra khỏi vỏ bọc kềnh càng thô lỗ. Nhưng xác hàng thịt cho rằng linh hồn mờ nhạt của
Trương Ba không thoát khỏi thân xác mình được vì xác thịt có tiếng nói của mình nhiều khi còn sai
khiến, lấn át cả linh hồn. Hồn Trương Ba lại cho rằng Linh hồn có đời sống riêng: Nguyên vẹn trong
sạch và thẳng thắn; xác là cái “không có tiếng nói”, “âm u đui mù”, “chỉ là cái vỏ bên ngoài, không có
nghĩa lí gì hết, không có tư tưởng, không có cảm xúc”, hoặc nếu có thì “chỉ là những thứ thấp kém” chứ
không thể có được sự “cao khiết” như tâm hồn được.
– Xác hàng thịt đưa ra lí lẽ: “Hai ta đã hoà với nhau làm một rồi ông phải tồn tại nhờ tôi; tôi cho ông
sức mạnh; tôi là cái bình để chứa đựng linh hồn; nhờ có tôi mà ông có thể làm lụng cuốc xới, ngắm
nhìn trời đất, cảm nhận thế giới và vì thế linh hồn không thể chối bỏ được thân xác mà còn phải biết
“chiều” theo những đòi hỏi của thân xác, thoả mãn những “thèm khát” của xác thịt.
– Không chỉ có vậy, thể xác còn an ủi vuốt ve lòng tự ái của linh hồn bằng cách đổ cho hoàn cảnh và tự
nhận lỗi về mình: Những lúc có một mình một bóng, ông cứ việc nghĩ rằng ông có một tâm hồn bên
trong cao khiết, chẳng qua vì hoàn cảnh vì để sống mà ông phải nhân nhượng tôi. Làm xong điều xấu gì
ông cứ việc đổ lỗi cho tôi, để ông được thanh thản…miễn là ông vẫn làm đủ mọi việc để thoả thãm
những thèm khát của tôi! Trước những “lí lẽ ti tiện” của xác thịt, Trương Ba đã nổi giận, đã khinh bỉ,
G

Page: />

CREST EDUCATION-GIA SƯ 27

đã mắng mỏ xác thịt hèn hạ nhưng đồng thới cũng ngậm ngùi thấm thía nghịch cành mà mình đã lâm
vào, đành nhập trở lại vào xác thịt trong tuyệt vọng.
Trong cuộc đối thoại với xác anh hàng thịt, Hồn Trương Ba ở vào thế yếu, đuối lí bởi xác anh hàng thịt
gợi lại tất cả những sự thật (cái đêm khi ông đứng cạnh vợ anh hàng thịt với “tay chân run rẩy”, “hơi

thở nóng rực”, “cổ nghẹn lại” và “suýt nữa thì…”. Đó là cảm giác “xao xuyến” trước những món ăn mà
trước đây Hồn cho là “phàm”. Đó là cái lần ông tát thằng con ông “tóe máu mồm máu mũi”,) Dù muốn
hay không muốn Hồn vẫn phải thừa nhận sự xấu hổ, sự ti tiện của mình. Vì thế hồn chỉ buông những
lời thoại ngắn với giọng nhát gừng kèm theo những tiếng than, tiếng kêu
+ Còn xác anh hàng thịt thắng thế nên rất hể hả cười nhạo vào cái lí lẽ mà hồn Trương Ba đưa ra để
ngụy biện: “Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”. Lời thoại của xác hành
thịt dài với chất giọng khi thì mỉa mai cười nhạo khi thì lên mặt dạy đời, chỉ trích, châm chọc.
Qua cuộc dối thoại với xác anh hang thịt, ta thấy Trương Ba là người có phẩm chất cao đẹp: luôn tự hào
về đời sống tâm hồn của mình; dũng cảm nhìn thẳng vào sự tha hoá của bản thân; nỗ lực đấu tranh với
nghịch cảnh, với dục vọng tầm thường để vươn tới những giá trị tinh thần cao quý
à Với màn đối thoại dặc sắc này, Lưu Quang Vũ đã tạo ra một tình huống nghệ thuật đặc sắc, giàu tính
biểu tượng.
Xác hàng thịt là ẩn dụ về thể xác của con người. Hồn Trương Ba là ẩn dụ về linh hồn con người. Cuộc
đối thoại giữa xác hàng thịt và hồn Trương Ba thực chất là cuộc đấu tranh giữa thể xác và linh hồn
trong một con người. Thể xác và linh hồn là hai thực thể có quan hệ hữu cơ. Thể xác có tính độc lập
tương đối, có tiếng nói của nó, có khả năng tác động linh hồn, linh hồn phải đấu tranh với những đòi
hỏi không chính đáng của thể xác. Đây là xung đột giữa cái phàm tục với cái thanh cao, giữa nội dung
và hình thức, giữa linh hồn và thể xác trong một con người. Đây cũng là cuộc đấu tranh dai dẳng giữa
hai mặt tồn tại để hoàn thiện nhân cách bản thân
Vấn đề quan hệ giữa linh hồn và thể xác trong đoạn trích có thể khiến ta liên tưởng đến mối quan hệ
giữa nội dung và hình thức trong mỗi sự vật của đời sống. Khi nội dung và hình thức phù hợp với nhau
thì sự vật cùng tồn tại và phát triển, khi nội dung và hình thức không phù hợp với nhau thì sự phát triển
bị kìm hãm. Hình thức là phương tiện biểu hiện nội dung, nội dung đóng vai trò chủ đạo và quyết định.
Sự vật luôn cần có sự thống nhất giữa nội dung và hình thức cũng như con người luôn cần có sự hài hoà
giữa thể xác và linh hồn.
Thông qua màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt, tác giả muốn gửi gắm một thông điệp
giàu giá trị triết lí: Sống phải là chính mình, không thể sống thay người khác. Mỗi người có một nhu
cầu, ham muốn riêng, không thể bắt con người theo những điều giả dối. Sự sống chỉ có ý nghĩa khi con
người có sự hài hoà giữa đời sống thể xác và đời sống tinh thần. Để sống có ý nghĩa, con người cần biết
đấu tranh với cái dung tục, tầm thường, giả dối, vươn lên cái thật, cái đẹp của cuộc đời.

* Xung đột trong màn đối thoại giữa Trương Ba với người thân.
- Hồn Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ bởi không thể nào thoát ra khỏi cái
thân xác mà hồn ghê tởm. Hồn đau khổ bởi mình không còn là mình nữa. Trương Ba bây giờ vụng về,
thô lỗ, phũ phàng lắm. Ông cũng càng lúc càng rơi vào trạng thái tuyệt vọng khi ông đối thoại với
những người thân
– Người vợ mà ông rất mực yêu thương giờ đây buồn bã và cứ nhất quyết đòi bỏ đi. Với bà “đi đâu
cũng được… còn hơn là thế này”. Bà đã nói ra cái điều mà chính ông cũng đã cảm nhận được: “ông
đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa”.
– Cái Gái cháu ông giờ đây đã không cần phải giữ ý. Nó một mực khước từ tình thân (tôi không phải là
cháu ông… Ông nội tôi chết rồi). Cái Gái yêu quý ông nó bao nhiêu thì giờ đây nó không thể chấp nhận
cái con người có “bàn tay giết lợn”, bàn chân “to bè như cái xẻng” đã làm “gãy tiệt cái chồi non”,
“giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm” trong mảnh vườn của ông nội nó. Nó hận ông vì ông chữa cái
diều cho cu Tị mà làm gãy nát khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền. Với nó,
“Ông nội đời nào thô lỗ, phũ phàng như vậy”. Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến thành sự xua đuổi quyết
liệt: “Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!”.

G

Page: />

CREST EDUCATION-GIA SƯ 27

– Chị con dâu là người sâu sắc, chín chắn, hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm thấy thương bố chồng trong
tình cảnh trớ trêu. Chị biết ông khổ lắm, “khổ hơn xưa nhiều lắm”. Nhưng nỗi buồn đau trước tình cảnh
gia đình “như sắp tan hoang ra cả” khiến chị không thể bấm bụng mà đau, chị đã thốt thành lời cái nỗi
đau đó: “Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ
lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy… mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như
lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nối có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa…”
Tất cả những người thân yêu của Hồn Trương Ba đều nhận ra cái nghịch cảnh trớ trêu. Họ đã nói ra
thành lời bởi với họ cái ngày chôn xác Trương Ba xuống đất họ đau, họ khổ nhưng “cũng không khổ

bằng bây giờ”.
+ Sau tất cả những đối thoại ấy, mỗi nhân vật bằng cách nói riêng, giọng nói riêng của mình đã khiến
Hồn Trương Ba cảm thấy không thể chịu nổi. Ông lâm vào bi kịch: không được người thân thừa nhận.
Sự tha hóa, biến chất của bản thân làm cho gia đình ông trao đảo có nguy cơ tan vỡ. Với Trương Ba
mất gia đình, ý nghĩa sống còn đâu nữa. Trong đau khổ tuyệt vọng, hồn nhận rõ hiện thực chua chát
ấy cứ lớn dần… lớn dần, khiến ông muốn đứt tung, muốn bứt phá.
+ Như vậy, màn kịch này là sự tô đậm, khắc sâu bi kịch mà Trương Ba phải gánh chịu, bi kịch của một
người phải sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá chứ không được là chính mình. Và ở đây, tình huống kịch
đã thúc đẩy Trương Ba phải lựa chọn, phải quyết định
+ Nhà viết kịch đã để cho Hồn Trương Ba còn lại trơ trọi một mình với nỗi đau khổ, tuyệt vọng lên đến
đỉnh điểm, một mình với những lời độc thoại đầy chua chát nhưng cũng đầy quyết liệt: “Mày đã thắng
thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ… Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự
đánh mất mình? “Chẳng còn cách nào khác”! Mày nói như thế hả? Nhưng có thật là không còn cách
nào khác? Có thật không còn cách nào khác? Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không
cần!”. Đây là lời độc thoại có tính chất quyết định dẫn tới hành động châm hương gọi Đế Thích một
cách dứt khoát.
* Xung đột trong màn đối thoại giữa Trương Ba với Đế Thích.
- Gặp lại Đế Thích, Trương Ba thể hiện thái độ kiên quyết chối từ, không chấp nhận cái cảnh phải sống
bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo nữa và muốn được là mình một cách toàn vẹn “Không thể bên
trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn. Lúc đầu Đế Thích ngạc nhiên
nhưng khi hiểu ra thì khuyên Trương Ba nên chấp nhận vì thế giới vốn không toàn vẹn, dưới đất, trên
trời đều thế cả.
- Nhưng Trương Ba không chấp nhận lí lẽ đó. Trương Ba thẳng thắn chỉ ra sai lầm của Đế Thích:
“Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên này đến cái thân tôi cũng phải sống
nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống thế nào thì ông chẳng cần biết”.
Sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chấp vá,
khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa. Lòng tốt hời hợt thì chẳng đem lại điều gì thực
sự có ý nghĩa cho ai mà sự vô tâm còn tệ hại hơn, nó đẩy người khác vào nghịch cảnh, vào bi kịch!
- Đế Thích định tiếp tục sửa sai của mình và của Tây Vương Mẫu bằng một giải pháp khác, tệ hại ít
hơn là cho hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị. Trương Ba thử hình dung cảnh hồn của mình lại nhập

vào xác cu Tị để sống và thấy rõ “bao nhiêu sự rắc rối” vô lí lại tiếp tục xảy ra……Ông đã kiên quyết
từ chối, không chấp nhận cái cảnh sống giả tạo, mà theo ông là chỉ có lợi cho đám chức sắc tức lão lí
trưởng và đám trương tuần, không chấp nhận cái cuộc sống mà theo ông là còn khổ hơn là cái chết.
- Trương Ba kêu gọi Đế Thích hay sửa sai bằng một việc làm đúng, đó là trả lại linh hồn cho bé Tị. Đế
Thích cuối cùng cũng đã thuận theo đề nghị của Trương Ba với lời nhận xét: “Con người hạ giới các
ông thật kì lạ”. Quyết định dứt khoát xin Đế Thích cho cu Tị được sống lại, cho mình được chết hẳn
chứ không nhập hồn vào thân thể ai nữa của nhân vật Hồn Trương Ba là kết quả của một quá trình diễn
biến hợp lí. Hơn nữa, quyết định này cần phải đưa ra kịp thời vì cu Tị vừa mới chết. Nhận thức tỉnh táo
ấy cùng tình thương mẹ con cu Tị càng khiến Hồn Trương Ba đi đến quyết định dứt khoát. Qua quyết
định này, chúng ta càng thấy Trương Ba là con người nhân hậu, sáng suốt, giàu lòng tự trọng. Đặc biệt,
đó là con người ý thức được ý nghĩa của cuộc sống.

G

Page: />

CREST EDUCATION-GIA SƯ 27

- Cái chết của cu Tị có ý nghĩa đẩy nhanh diễn biến kịch đi đến chỗ “mở nút”. Dựng tả quá trình đi đến
quyết định dứt khoát của nhân vật Hồn Trương Ba, Lưu Quang Vũ đã đảm bảo được tính tự nhiên, hợp
lí của tác phẩm.
àNhư vậy, cuộc trò chuyện giữa Hồn Trương Ba với Đế Thích không chỉ chứng tỏ nhân vật đã ý thức
rõ về tình cảnh trớ trêu, vênh lệch giữa hồn và xác, cũng như quyết tâm giải thoát của mình. Mà qua
cuộc đối thoại này, tác giả còn gửi gắm những quan niệm về hạnh phúc, về lẽ sống và cái chết. Theo
Lưu Quang Vũ, con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa. Không thể có một tâm hồn
thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng
của thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác, không thể tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của
tâm hồn. sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống
chắp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa.
Và cũng qua cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và Đế Thích, kịch của Lưu Quang Vũ mở ra những

thông điệp vừa trực tiếp, vừa ngầm ẩn, vừa mãnh liệt vừa kín đáo về thời đại chúng ta đang sống: khi
con người phải sống trong dung tục thì tất yếu cái dung tục sẽ ngự trị, lấn át và sẽ tàn phá những gì
trong sạch, đẹp đẽ, cao quý trong con người. Và cũng qua xung đột kịch, Lưu Quang Vũ khẳng định và
ngợi ca vẻ đẹp con người trong sự chống lại sự dung tục, giả tạo để bảo vệ quyền được sống toàn vẹn
hợp lẽ với tự nhiên và nhân cách. Chất thơ của kịch Lưu Quang Vũ cũng được bộc lộ ở đây.
* Giải quyết xung đột.
Hành động chấp nhận cái chết, trả lại xác cho anh hàng thịt là một hành động đúng đắn, dũng cảm và
đạo đức. Nó xuất phát từ niềm tin mãnh liệt của Trương Ba vào cuộc sống. Và màn kết cảnh VII của vở
kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” đã thể hiện được điều đó
– Cảnh khu vườn của Trương Ba, Trương Ba hóa thân vào những hình ảnh quen thuộc trong gia đình:
“Ánh lửa bà nấu cơm, con dao bà giẫy cỏ, cầu ao bà vo gạo, trong mỗi trái cây cái Gái nâng niu”.
– Cu Tị sống lại và đang cùng ngồi với cái Gái trong khu vườn. Cái Gái “Lấy hạt na vùi xuống đất…”
cho nó mọc thành cây mới. Ông nội tớ bảo thế. Những cây sẽ nối nhau mà khôn lớn. Mãi mãi…”
* Thông điệp cuộc sống:
– Đoạn kết giàu chất thơ thể hiện tinh thần lạc quan của vở kịch. Trương Ba chết nhưng hình ảnh của
Trương Ba bất tử, bởi ông đã có chỗ để phục sinh. Đó chính là sự phục sinh trong trái tim của những
người thân yêu.
– Tác giả gửi gắm thông điệp về cuộc sống: sự sống thật sự có ý nghĩa khi con người được sống
tự nhiên, hài hòa giữa thể xác và tâm hồn. Hạnh phúc của con người là chiến thắng được bản thân,
chiến thắng sự dung tục, hoàn thiện được nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý
Qua các màn đối thoại trên, ta thấy Trương Ba là người biết quí trọng nhân cách. Bị thân xác anh hàng
thịt sỉ nhục, bọn cường hào nhũng nhiễu, lời người con dâu “mỗi ngày thầy một đổi khác dần mất mát
dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhoà mờ dần đi.” Trương Ba có thể chấp nhận tồn tại thân xác duy trì sự
sống trong cái vỏ của người khác, song là một con ngưòi có nhân cách nên Trương Ba rơi vào bi
kịch.Và khi đã lựa chọn đựơc, đã quyết định đúng đắn, con người Trương Ba trở về đúng nghĩa là
mình: Lạ thật từ lúc tôi có đủ can đảm đi đến quyết định này, tôi bỗng cảm thấy mình lại là Trương Ba
thật, tâm hồn tôi trở lại thanh thản trong sáng như xưa.Từ đó ta có thể thấy đây là điều quý giá nhất bởi
nếu không được sống đúng là mình con người sẽ rơi vào bi kịch, họ phải đau khổ dằn vặt và đó là điều
đáng sợ nhất. Không chỉ yêu quý vợ con, mà Trương Ba còn có lẽ sống cao đẹp, “ông tưởng tôi không
ham sống hay sao? Nhưng sống thế này còn khổ hơn là cái chết…Cuộc sống giả tạo này có lợi cho ai,

hoạ chăng chỉ lão lí trưởng và đám trương tuần hỉ hả thu lợi lộc. Và điều người đọc luôn khâm phục
Trương Ba chính là ở chỗ: không khuất phục trước thể xác, trước những điều xấu xa, dũng cảm đối mặt
với cái chết. Trước lời lẽ và sự thuyết phục của Đế Thích, Trương Ba vẫn thể hiện một thái độ kiên
quyết: ở đâu cũng đựoc, nếu ông không giúp tôi sẽ nhảy xuống sông hay đâm một nhát dao vào cổ, lúc
đó thì hồn tôi cũng chẳng còn, xácanh hàng thịt cũng mất.
Từ đó Trương Ba đi tới một quyết định sáng suốt đúng đắn: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài
một nẻo được. Tôi muốn là tôi toàn vẹn”. Một câu nói tưởng nhu đơn giản song đó là cả một sự đấu
tranh cả một niềm ước vọng mọi người sẽ nhớ tới mình đúng là Trương Ba của ngày xưa, mình vẫn là
G

Page: />

CREST EDUCATION-GIA SƯ 27

mình cho dù đã hình dung tất cả sự hư vô khủng khiếp của cái chết. Chính vì vậy Trương Ba đã lựa
chọn: Trả lại thân xác cho anh hàng thịt, chấp nhận cái chết., dũng cảm đối mặt với cái xấ u xa, kiên
cường giữ vững phẩm giá để mình được sống thành thực là mình
Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” chứng tỏ tài năng kiệt xuất của Lưu Quang Vũ trong việc kết
hợp kịch bản văn học và kịch bản sân khấu. Đoạn trích cho thấy nghệ thuật tạo dựng và phát triển xung
đột kịch, cách giải quyết tình huống và thể hiện tính cách nhân vật sắc sảo của Lưu Quang Vũ. Từ đó
gửi đến người đọc bức thông điệp về cuộc sống: cuộc sống và được sống làm người là quí giá thât
nhưng được sống làm mình, sống trọn vẹn hòa hợp giữa thể xác và tâm hồn còn quí giá hơn. Con người
luôn phải đấu tranh với nghịch cảnh. Đó là triết lí nhân sinh sâu sắc góp phần tạo sức hấp dẫn của tác
phẩm, sự tỏa sáng của tác giả.

G

Page: />

CREST EDUCATION-GIA SƯ 27


Ai đã đặt tên cho dòng sông
Hoàng Phủ Ngọc Tường
1. Sông Hương ở thượng nguồn
- Nhìn từ cội nguồn, sông Hương là dòng chảy có mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn. Trong mối
quan hệ đặc biệt này, sông Hương tựa như “một bản trường ca của từng già” với nhiều tiết tấu hùng
tráng, dữ dội: khi “rầm rộ giữa bong cây đại ngàn”, lúc “mãnh liệt vượt qua những ghềnh thác”, khi
“cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực sâu”, lúc “dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói
lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”.
- Bằng biện pháp nhân hoá, sông Hương hiện ra tựa “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại” với
“một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”. Theo tác giả, nếu chúng ta chỉ mải mê nhìn
ngắm khuôn mặt kinh thành mà không chú ý tìm hiểu sông Hương từ cội nguồn, thì khó mà hiểu hết cái
vẻ đẹp trong phần tâm hồn sâu thẳm của dòng sông mà chính nó đã không muốn bộc lộ. Sông Hương ở
vùng thượng lưu toát lên vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt, hoang dại và đầy cá tính.
2. Sông Hương trong mối quan hệ với kinh thành Huế (ở ngoại vi thành phố, khi ra khỏi rừng
già).
- Trước khi thành người tình dịu dàng và chung thuỷ của cố đô, sông Hương đã trải qua một hành trình
đầy gian truân và nhiều thử thách. Trong cái nhìn tinh tế và lãng mạn của tác giả, toàn bộ thuỷ trình của
dòng sông này như một cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân đích thực của người con gái trong một
câu chuyện tình yêu nhuốm màu cổ tích.
- Đoạn văn miêu tả sông Hương khi chảy xuôi về đồng bằng và ngoại vi thành phố bộc lộ được nét lịch
lãm và tài hoa trong lối hành văn của tác giả. Sức hấpdẫn của đoạn văn toát lên từ hàng loạt các động từ
diễn tả cái dòng chảy sống động qua những địa danh khác nhau của xứ Huế. Giữa cánh đồng Châu Hoá
đầy hoa dại, sông Hương là “cô gái đẹp ngủ mơ màng”; nhưng sau khi ra khỏi vùng núi, thì cũng như
nàng tiên được đánh thức, sông Hương bỗng bừng lên sức trẻ và niềm khát khao của tuổi thanh xuân
trong sự “chuyển dòng liên tục”, rồi “vòng những khúc quanh đột ngột”, “vẽ một hình cung thật tròn”,
“ôm lấy chân đồi Thiên Mụ”, rồi “vượt qua”, “đi giữa âm vang” “trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững
như thành quách”
- Vừa mạnh mẽ vừa dịu dàng, sông Hương có lúc “mềm như tấm lụa” khi qua Vọng Cảnh, Tam Thai,
Lựu Bảo; có khi ánh lên “những phản quang nhiều màu sắc sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” lúc qua

những dãy đồi núi phía tây nam thành phố và mang “vẻ đẹp trầm mặc” khi qua bao lăng tẩm, đền đài
mang niềm kiêu hãnh âm u được phong kín trong những rừng thôg u tịch cho đến lúc bừng sáng, tươi
tắn và trẻ trung khi gặp “ tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng
trung du bát ngát tiếng gà”…
- Hai bút pháp kể và tả được kết hợp nhuần nhuyễn và tài hoa trong đoạn văn đã làm nổi bật một sông
Hương đẹp bởi phối cảnh kì thú giữa nó và thiên niên xứ Huế phong phú mà hài hoà.
3. Vẻ đẹp sông Hương khi chảy vào thành phố
- Như đã tìm thấy chính mình khi gặp thành phố thân yêu, sông Hưong “vui tươi hẳn lên giữa những
biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”, dòng sông “kéo một nét thẳng thực yên tâm theo
hướng tây nam- đông bắc”, rồi “uốn một cánh cung thật nhẹ sang Cồn Hến” khiến “dòng sông mềm
hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”.
- Nằm ngay giữa lòng thành phố của mình, sông Hương cũng gống sông Xen của Pa-ri, sông Đa-nuýp
của Bu-đa-pét….nhưng trong cách biểu đạt tài hoa của tác giả, sông Hương được cảm nhận với nhiều
góc độ: nhìn bằng con mắt của hội họa, sông Hương và những chi lưu của nó tạo những đường nét thật
tinh tế làm nên vẻ đẹp cổ kính của cố đô; qua cách cảm nhận âm nhạc, sông Hương đẹp như điêu slow
chậm rãi, sâu lắng, trữ tình và, với cái nhìn say đắm của một trái tim đa tình, sông Hương là người tình
dịu dàng và chung thuỷ. Điều này được diễn tả trong một phát hiện thú vị của tác giả: “Rời khỏi kinh
thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương
khói, đang xa dàn thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau
vùng ngoại ô Vĩ Dạ. Và rồi như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt
sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ”. Theo tác giả, khúc
G

Page: />

CREST EDUCATION-GIA SƯ 27

quanh bất ngờ đó, tựa như một “nỗi vương vấn”, và như còn có cả “một chút lẳng lơ kín đáo của tình
yêu”….
4. Sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc và với thi ca và cuộc đời

- Trong quan hệ với lịch sử dân tộc, sông Hương mang vẻ đẹp của một bản hùng ca ghi dấu những thế
kỉ vinh quang từ thuở còn là một dòng sông biên thuỳ xa xôi của đất nước các vua Hùng, là “dòng sông
viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ
trung đại” “nó vẻ vang soi bong kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ” “nó sống hết
lịch sử bi tráng của thế kì XIX vói máu của các cuộc khởi nghĩa”, nó chứng kiến thời đại mới với Cách
mạng tháng Tám năm 1945 và bao chiến công rung chuyển qua hai cuộc chiến tranh vệ quốc sau này…
- Sông Hương với cuộc đời và thi ca
Sông Hương là nhân chứng nhẫn nại và kiên cường qua những thăng trầm của cuộc đời. Tuy nhiên điều
làm nên làm nên vẻ đẹp giản dị mà khác thường của ding sông là ở chỗ: Khi nghe tiếng gọi, nó biết
cách hiến mình làm một chiến công, để rồi nó trở về cuộc sống bình thường, làm một cô gái dịu dàng
của đất nước. Vì thế sông Hương không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ.
Bằng sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú, sự uyên bác về các phương diện: địa lí, lịch sử, văn
hóa, nghệ thuật..., ngôn từ phong phú, giàu hình ảnh, sử dụng nhiều biện pháp tu từ như; ẩn dụ, nhân
hóa, so sánh độc đáo, tài hoa, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã soi bằng tâm hồn mình và tình yêu quê
hương xứ sở vào sông Hương khiến cho nó trở nên lung linh đa dạng như đời sống tâm hồn con người.
Sông Hương hiện lên thật đẹp đẽ, thơ mộng, quyến rũ. Nhà văn đã nhìn Sông Hương như một cô gái
Huế dịu dàng mà sâu sắc, đa tình mà kín đáo, lẳng lơ nhưng rất mực chung tình, khéo trang sức mà
không phô phang giống như những cô dâu Huế ngày xưa trong sắc áo điều lục. Vẻ đẹp của sông Hương
cũng chính là vẻ đẹp của con người Huế. Đọc bài kí, ta càng thấy tự hào vì mình được sinh ra trên
vùng đát cố đô - nơi có nhiều danh lam thắng cảnh, với dòng sông Hương thơ mộng, hiền hòa.
Việt Bắc
Tố Hữu
1. Kết cấu của bài thơ
+ Đối đáp giữa đồng bào Việt Bắc và người cán bộ kháng chiến từ giã Việt Bắc. Đây là cuộc
chia tay mang ý nghĩa lịch sử, cuộc chia tay giữa những người đã từng gắn bó dài lâu, đầy tình nghĩa
sâu nặng, mặn nồng, từng chia sẻ mọi đắng cay, ngọt bùi, nay trong giờ phút chia tay, cùng nhau gợi lại
bao kỉ niệm đẹp đẽ, cùng cất lên nỗi hoài niệm tha thiết về những ngày đã qua, khẳng định nghĩa tình
bền chặt và hẹn ước trong tương lai.
+ Lời đối đáp gần gũi, thân thuộc như trong ca dao, dân ca.
+ Bài thơ vì thế mà như lời tâm tình chan chứa yêu thương của những người yêu nhau.

+ Trong đối đáp Tố Hữu sử dụng đại từ mình – ta với ý nghĩa vừa là ngôi thứ nhất, vừa là ngôi
thứ hai. Tình cảm chan chứa yêu thương vì thế mà như được nhân lên. Chuyện nghĩa tình cách mạng,
kháng chiến đến với lòng người bằng con đường của tình yêu.
+ Nhìn sâu hơn vào kết cấu bài thơ thì đối thoại chỉ là lớp kết cấu bên ngoài, còn ở chiều sâu
bên trong chính là lời độc thoại của chính nhân vật trữ tình đang đắm mình trong hoài niệm về quá khứ
gian khổ mà tươi đẹp ấm áp nghĩa tình, nghĩa tình nhân dân, nghĩa tình kháng chiến và cách mạng, khát
vọng về tương lai tươi sáng. Kẻ ở- người đi; lời hỏi- lời đáp có thể xem là sự phân thân để tâm trạng
được bộc lộ đầy đủ hơn trong sự hô ứng, đồng vọng, vang ngân.
2. Phân tích văn bản.
2.1. Tám câu đầu: những phút giây đầu tiên của buổi chia tay đầy bâng khuâng, lưu luyến
giữa kẻ ở người đi.
- Bốn câu đầu: lời ướm hỏi của người ở lại.
+ Câu hỏi ngọt ngào, khéo léo “mười lăm năm” cách mạng gian khổ hào hùng, cảnh và người
VB gắn bó nghĩa tình với những người kháng chiến; đồng thời khẳng định tấm lòng thủy chung của
mình.
G

Page: />

CREST EDUCATION-GIA SƯ 27

+ Nghĩa tình của kẻ ở- người về được biểu hiện qua các đại từ mình- ta quen thuộc trong thơ ca
dân gian gắn liền với tình yêu đôi lứa, cách xưng hô: mình- ta tạo nên sự thân mật, gần gũi. Điệp từ
nhớ, láy đi, láy lại cùng với lời nhắn nhủ “mình có nhớ ta”, “mình có nhớ không” vang lên day dứt
khôn nguôi.
+ Các từ thiết tha, mặn nồng thể hiện bao ân tình gắn bó.
- Bốn câu sau: tiếng lòng của người cán bộ về xuôi
+ Tuy không trả lời trực tiếp câu hỏi của người ở lại nhưng tâm trạng bâng khuâng, bồn chồn,
cùng với cử chỉ “cầm tay nhau” xúc động bồi hồi đã nói lên tình cảm: chưa xa đã nhớ, sự bịn rịn luyến
lưu của người cán bộ với cảnh và người Việt Bắc.

Câu thơ bỏ lửng “cầm tay…” diễn tả thái độ nghẹn ngào không nói lên lời của người cán bộ giã
từ Việt Bắc về xuôi.
+ Hình ảnh “áo chàm”- nghệ thuật hoán dụ, trang phục quen thuộc của người dân Việt Bắc khúc
dạo đầu của bản tình ca về nỗi nhớ.
2.2. Mười hai câu tiếp: gợi lại những kỉ niệm chiến khu gian khổ mà nghĩa tình:
- Nhớ về thiên nhiên, cuộc sống, tình người Việt Bắc:
+ Nhớ một thiên nhiên khắc nghiệt: “mưa nguồn, suối lũ, mây cùng mù”
+ Nhớ một chiến khu đầy gian khổ, nhưng sẵn lòng căm thù giặc sâu sắc: cơm chấm muối, mối
thù nặng vai.
+ Nhớ những sản vật miền rừng: trám bùi, măng mai.
+ Nhớ những mái nhà nghèo nàn nhưng ấm áp tình người, tình cách mạng.
+ Nhớ những năm đầu kháng Nhật với những địa danh lịch sử: Tân Trào Hồng Thái mái đình
cây đa.
- Nỗi nhớ ấy được thể hiện bằng những dòng thơ lục bất đâm chất dân gian, những cặp câu thơ
lục bát có sự phối hợp thanh điệu hài hòa. Sáu dòng lục tào thành một điệp khúc âm thanh: nó đan dày
thành những cấu trúc thanh bằng- trắc- bằng tạo ra nhạc điệu ngân nga trầm bổng nhẹ nhàng, khoan
thai.
- Hầu hết các câu thơ ngắt theo nhịp 4/4 làm nên những tiểu đối cân xứng, hô ứng về câu trúc,
nhạc điệu: Mưa nguồn suối lũ/những mây cùng mù; Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai… Có
những cặp tiểu đối khắc ghi những sự kiện, có những cặp tiểu đối vế đầu nói về hiện thực gian khổ, vế
còn lại khắc sâu vẻ đẹp tâm hồn của con người Việt Bắc gắn bó son sắt cùng với lối sống ân nghĩa thủy
chung. Người đọc như gặp lại hồn xưa dân tộc trong những trang thơ lục bát của Tố Hữu.
- Câu thơ “Mình đi mình lại nhớ mình”: nhớ mình- tức nhớ người ở lại nhưng cũng như là nhắc
nhở chính mình hãy nhớ về quá khứ gian khổ nhưng thấm đẫm nghĩa tình.
2.3.Từ câu 25 đến câu 42: Nỗi nhớ những kỉ niệm sinh hoạt nghèo khổ mà ấm áp nghĩa
tình.
“Nhớ gì như nhớ người yêu
……
Chày đêm nện cối đều đều suối xa”
- Nỗi nhớ được so sánh với nhớ người yêu: Nỗi nhớ mãnh liệt và da diết.

- Từ nỗi nhớ như nhớ người yêu, Việt Bắc hiện lên với những nét đẹp rất riêng: Trăng đầu núi,
nắng lưng nương cùng những tên gọi, địa danh cụ thể.
- Điệp từ “nhớ từng” lặp đi lặp lại làm cho nỗi nhớ thêm da diết. Trong kí ức của người đi còn
in dấu khoảnh khắc thời gian (trăng đấu núi, nắng chiều lưng nương), từng khoảng không gian của cây,
sông, suối (Nhớ từng rừng nứa… vơi đầy). Vẻ đẹp thiên nhiên nên thơ sẽ còn đọng mãi trong nỗi nhớ
nhung của người ra đi.
- Tuy nhiên, da diết và đậm sâu hơn cả vẫn là nỗi nhớ về con người, về ân tình Việt Bắc: bình
thường, giản dị mà ân nghĩa thủy chung:
+ Nhớ Việt Bắc là nhớ đến tấm lòng biết sẻ chia: bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
+ Nhớ đến nghĩa tình:người mẹ địu con, bẻ từng bắp ngô.
+ Nhưng cũng là nhớ đến đồng chí, đồng đội với bao gian nan vất vả: Nhớ sao… núi đèo
G

Page: />

CREST EDUCATION-GIA SƯ 27

- Việt Bắc vì thế tuy gian khổ, vất vả nhưng trong kí ức vẫn thanh bình, đẹp đẽ: Nhớ sao tiếng
mõ … suối xa
à Đoạn thơ đủ sức gợi ra thật rõ nét và thấm thía khung cảnh bản làng, tình người, tình quân dân
của chiến khu những năm kháng Pháp với tất cả những dáng nét, âm thanh, không khí, tâm tình. Những
câu thơ cất lên nghe sao trìu mến, nói về mẹ, về trẻ thơ, về người thương yêu dấu.
2.4. Từ câu 43 đến câu 52: bức tranh tứ bình về thiên nhiên, con người Việt Bắc.
“Ta về mình có nhớ ta
.....
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
- Hai dòng thơ đầu là lời khẳng định vể nỗi nhớ thương da diết và tình cảm thủy chung của
người ra đi dành cho quê hương Việt Bắc. Nỗi nhớ đã làm sống dậy trong tâm tưởng hình ảnh thiên
nhiên, con người nơi chiến khu cách mạng.
- Thiên nhiên Việt Bắc đẹp trong sự đan cài với vẻ đẹp của con người “hoa” cùng “người”:

Đoạn thơ có bốn cặp câu lục bát: câu 6 miêu tả thiên nhiên, câu 8 miêu tả con người.
- Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên trong vẻ đẹp bốn mùa:
+ Mùa đông trên nền xanh bạt ngàn cây lá bỗng bất ngờ hiện lên sắc màu đỏ tươi của hoa
chuối. Màu đỏ ấy làm ấm cả không gian
+ Mùa xuân với sắc trắng của hoa mơ- loài hoa đặc trưng của Việt Bắc, một màu trắng miên
man, tinh khiết, đẹp đến nao lòng.
+ Mùa hè, với tiếng ve kêu vang ngân và sắc vàng của rừng phách.
+ Mùa thu với ánh trăng chan hòa trên mặt đất, đem lại không khí bình yên.
- Hình ảnh con người đã trở thành tâm điểm của bức tranh tứ bình, tạo nên sức sống của thiên
nhiên cảnh vật. Những con người Việt Bắc hiện về trong nỗi nhớ thật thân quen, bình dị, thầm lặng
trong những công việc của đời thường:
+ Mùa đông trở nên ấm áp với “ánh nắng dao giài thắt lưng”.
+ Bức tranh mùa xuân hòa cùng với dáng vẻ cần mẫn chút chăm của “người đan nón”
+ Bức tranh màu hè hoá dịu dàng với hình ảnh cô em gái hái măng một mình
+ Mùa thu là tiếng hát nghĩa tình thủy chung của con người cất lên giữa đêm trăng.
- Đoạn thơ mang nét đẹp cổ điển mà hiện đại
+ Vẻ đẹp cổ điển: Bức tranh tứ bình hiện lên qua những nét gợi tả
+ Vẻ đẹp hiện đại: Hình ảnh con người đã trở thành tâm điểm, tạo nên vẻ đẹp, sức sống của bức
tranh.
2.5. Từ câu 53 đến câu 83: khung cảnh Việt Bắc kháng chiến, lập nhiều chiến công, vai trò
của Việt Bắc trong cách mạng và kháng chiến.
a. Từ câu 53 à 74
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
………………..
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”
Trong hoài niệm bao trùm có ba mảng thống nhất hòa nhập đó là: nỗi nhớ thiên nhiên- nỗi nhớ
con người cuộc sống ở Việt Bắc- nỗi nhớ về cuộc kháng chiến chống Pháp. Theo dòng hồi tưởng,
người đọc được sống lại những giây phút của cuộc kháng chiến với không gian rộng lớn, những hoạt
động tấp nập, sôi động được vẽ bằng bút pháp của những tráng ca. Cảnh Việt Bắc đánh giặc được miêu
tả bằng những bức tranh rộng lớn, kì vĩ.

+ Rừng núi mênh mông hùng vĩ trở thành bạn của ta, chở che cho bộ đội ta, cùng quân và dân
ta đánh giặc.
+ Chiến khu là căn cứ vững chắc, đầy nguy hiểm với quân thù.
+ Nghệ thuật so sánh, nhân hoá: núi giăng…luỹ sắt, rừng che, rừng vây…
+ Những cái tên, những địa danh ở chiến khu Việt Bắc: phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, CaoLạng…vang lên đầy mến yêu, tự hào, cũng trở thành nỗi nhớ của người cán bộ kháng chiến về xuôi.
+ Không khí chiến đấu sôi nổi hào hùng, khí thế hừng hực trào sôi:
G

Page: />

CREST EDUCATION-GIA SƯ 27

~ Sức mạnh của quân ta với các lực lượng bộ đội, dân công… sự hợp lực của nhiều thành phần
tạo thành khối đoàn kết vững chắc.
~ Các từ: Rầm rập, điệp diệp, trùng trùng…thể hiện khí thế dồn dập.
~ Hình ảnh người chiến sĩ được gợi lên qua chi tiết giàu chất tạo hình: “ánh sao đầu mũ bạn
cùng mũ nan”à ánh sáng của sao dẫn đường, ánh sáng của niềm tin, của lí tưởng.
~ Thành ngữ “Chân cứng đá mềm” đã được nâng lên thành một bước cao hơn “bước chân nát
đá muôn tàn lửa bay”.
+ Chiến công tưng bừng vang dội khắp nơi: Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên, đèo De, núi
Hồng… Niềm vui chiến thắng chan hoà bốn phương: Vui từ…vui về…vui lên…
+ Đoạn thơ ngập tràn ánh sáng: ánh sao, ánh đuốc, ánh đèn pha… như ánh sáng của niềm tin
tưởng, niềm vui tràn ngập.
+ Nhịp thơ dồn dập gấp gáp, ấm hưởng hào hùng náo nức tạo thành khúc ca chiến thắng.
b.Từ câu 75- câu 83.
Đoạn thơ phác họa hình ảnh giản dị mà trang trọng của một cuộc họp Chính phủ trong hang núi
mà vẫn rực rỡ dưới ánh cờ đỏ sao vàng trong nắng trưa và kết thúc bằng sự thâu tóm hình ảnh Việt Bắc
quê hương cách mạng, đầu não của cuộc kháng chiến, nơi đặt niềm tin tưởng và hy vọng của con người
Việt Nam từ mọi miền đất nước, đặc biệt là những nơi còn “u ám quân thù”.
3. Đặc sắc nổi bật : Đoạn trích đậm đà tính dân tộc ở cả nội dung lẫn hình thức

Việt Bắc là một trong những đỉnh cao của thơ ca cách mạng Việt Nam. Tiếng thơ trữ tình- chính
trị của Tố Hữu đậm đà tính dân tộc.
Nội dung
- Những bức tranh chân thực, đậm đà bản sắc dân tộc về thiên nhiên và con người Việt Bắc
được tái hiện trong tình cảm tha thiết , gắn bó sâu sắc của tác giả.
- Tình nghĩa của người cán bộ và đồng bào Việt Bắc với cách mạng, kháng chiến, với Bác Hồ là
những tình cảm cách mạng sâu sắc của thời đại mới. Những tình cảm ấy hòa nhập và tiếp nối mạch
nguồn tình cảm yêu nước, đạo lí ân tình thủy chung vốn là truyền thống sâu bền của dân tộc.
Hình thức
+ Thể thơ: thể thơ lục bát truyền thống đã được vận dụng tài tình trong một bài thơ dài, vừa tạo
âm hưởng thống nhất mà lại biến hóa đa dạng.
+ Kết cấu: lối kết cấu đối đáp trong ca dao dân ca được vận dụng một cách thích hợp, tài tình
+ Những lối nói giàu hình ảnh, các cách chuyển nghĩa truyền thống (so sánh, ẩn dụ, tượng
trưng, ước lệ).
+ Giọng thơ ngọt ngào, tâm tình, cách xưng hô mình- ta quen thuộc trong ca dao khiến bài thơ
như một bản tình ca về lòng thủy chung son sắt của người cách mạng với người dân Việt Bắc.
Việt Bắc là một câu chuyện lớn, một vấn đề tư tưởng được diễn đạt bằng một cảm nhận mang
tính chất riêng tư. Bài thơ gợi về những ân nghĩa, nhắc nhở sự thủy chung của con người đối với con
người và đối với quá khứ cách mạng nói chung.

Rừng xà nu
Nguyễn Trung Thành
1. Nhan đề
-Nhan đề là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà văn. Hình ảnh rừng xà nu là linh hồn của tác
phẩm. Cảm hứng chủ đạo và dụng ý nghệ thuật của nhà văn được khơi nguồn từ hình ảnh này.
– Rừng xà nu là hình ảnh trung tâm có vẻ đẹp riêng, gắn bó mật thiết với cuộc sống vật chất và tinh
thần của người dân Tây Nguyên, biểu tượng cho những phẩm chất cao đẹp của con người Tây Nguyên:
sức sống mãnh liệt, kiên cường, bất khuất, khao khát tự do.
– Nhan đề còn gợi chủ đề, cảm hứng sử thi cho truyện ngắn.
G


Page: />

CREST EDUCATION-GIA SƯ 27

2. Hình tượng cây xà nu
- Vị trí xuất hiện: nhan đề, đầu và cuối tác phẩm, xuất hiện trong sự đối chiếu so sánh với các nhân vật
ở trong truyện.
– Cây xà nu gắn bó với cuộc sống con người Tây Nguyên:
+ Cây xà nu có mặt trong đời sống hằng ngày của người dân làng Xô Man.
+ Cây xà nu tham dự vào những sự kiện trọng đại của dân làng Xô Man.
+ Cây xà nu gắn với cuộc sống của người dân làng Xô Man đến mức nó đã thấm sâu vào nếp suy nghĩ
và cảm xúc của họ, cụ Mết nói về cây xà nu với tất cả tình cảm yêu thương, gần gũi xen lẫn tự hào
“không có gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”. Cây xà nu đã trở thành một phần máu thịt trong đời sống vật
chất và tinh thần của mảnh đất này. Tương tự: Những quy tắc an toàn khi lái xe có thể bạn chưa biết
– Cây xà nu tượng trưng cho số phận và phẩm chất của con người Tây Nguyên trong chiến tranh
cách mạng.
+ Thương tích mà rừng xà nu phải gánh chịu do đại bác của kẻ thù tượng trưng cho những mất mát, đau
thương vô bờ mà dân làng Xô Man nói riêng (anh Xút, bà Nhan, mẹ con Mai…) và đồng bào Tây
Nguyên nói chung đã phải trải qua trong cuộc chiến đấu.
+ Đặc tính ham ánh sáng của cây xà nu tượng trưng cho niềm khát khao tự do, lòng tin vào lý tưởng
cách mạng của người dân Tây Nguyên, của đồng bào miền Nam trong cuộc kháng chiến.
+ Khả năng sinh sôi mãnh liệt của cây xà nu gợi nghĩ đến sự tiếp nối của nhiều thế hệ người dân Tây
Nguyên (cụ Mết, Tnú, Mai, Dít, Heng) đoàn kết bên nhau trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ.
+ Sự tồn tại kỳ diệu của rừng xà nu qua những hành động hủy diệt của kẻ thù tượng trưng cho sức sống
bất diệt, sự bất khuất, kiên cường và sự vươn lên mạnh mẽ của con người Tây Nguyên trong cuộc chiến
mất còn với kẻ thù.
– Nghệ thuật miêu tả:
+ Kết hợp miêu tả cụ thể lẫn khái quát, khi dựng lên hình ảnh cả rừng xà nu, khi đặc tả cận cảnh một số
cây

+ Phối hợp cảm nhận nhiều giác quan trong việc miêu tả những cây xà nu với vóc dáng tràn đầy sức
lực, tràn trề mùi nhựa thơm, ngời xanh giữa ánh nắng
+ Hình tượng cây xà nu vừa hiện thực lại vừa mang đậm ý nghĩa biểu tượng. Miêu tả cây xà nu trong
sự so sánh đối chiếu thường xuyên với con người. Các hình thức ẩn dụ, nhân hóa, tượng trưng đều
được vận dụng nhằm thể hiện sống động, hùng vĩ, khoáng đạt của thiên nhiên đồng thời gợi ra nhiều
suy tưởng sâu xa về con người, về đời sống.
+ Hình ảnh cây xà nu xuất hiện ở đầu tác phẩm rồi kết thúc tác phẩm lại hiện ra cánh rừng xà nu bạt
ngàn. Đây là một kết cấu vòng tròn. Kết cấu ấy cho phép ta nghĩ: cây xà nu không chỉ là tượng trưng
cho một làng Xô Man nhỏ bé hay cho một vùng núi rừng Tây Nguyên. Có thể đó còn là biểu tượng của
cả miền Nam, của cả dân tộc Việt Nam trong những tháng năm chống đế quốc Mĩ.
3. Hình tượng nhân vật Tnú
– Tnú là người có tính cách trung thực, gan góc, dũng cảm, mưu trí:
+ Giặc giết bà Nhan, anh Xút nhưng Tnú (lúc bấy giờ còn nhỏ) không sợ. Tnú vẫn cùng Mai xung
phong vào rừng nuôi giấu cán bộ.
+ Học chữ thua Mai, Tnú đập vỡ bảng, lấy đá đập vào đầu đến chảy máu.
+ Khi đi liên lạc không đi đường mòn mà “xé rừng mà đi”, không lội chỗ nước êm mà “lựa chỗ thác
mạnh vượt băng băng như con cá kình”. Bởi theo Tnú những chỗ nguy hiểm giặc “không ngờ” đến.
+ Bị giặc phục kích bắt, bị tra tấn dã man nhưng Tnú quyết không khai. Khi bọn giặc kéo về làng, bắt
Tnú khai cộng sản ở đâu anh đặt tay lên bụng dõng dạc nói “cộng sản ở đây này”.
– Tnú là người có tính kỷ luật cao, tuyệt đối trung thành với cách mạng
+ Tham gia lực lượng vũ trang, nhớ nhà, nhớ quê hương nhưng khi được phép của cấp trên mới về
thăm.
+ Tính kỉ luật cao trong mối quan hệ với cách mạng biểu hiện thành lòng trung thành tuyệt đối: khi bị
kẻ thù đốt mười đầu ngón tay, ngọn lửa như thiêu đốt gan ruột nhưng Tnú không kêu nửa lời, anh luôn
tâm niệm lời dạy của anh Quyết: “người cộng sản không thèm kêu van”.
G

Page: />

CREST EDUCATION-GIA SƯ 27


– Một trái tim yêu thương và sục sôi căm giận
+ Tnú là một người sống rất nghĩa tình: Tnú đã tay không xông ra cứu vợ con. Động lực ghê gớm ấy
chỉ có thể được khơi nguồn từ trái tim cháy bỏng ngọn lửa yêu thương và ngọn lửa căm thù. Tnú là con
người tình nghĩa với buôn làng: anh lớn lên trong sự đùm bọc yêu thương của người dân làng Xô Man.
+ Lòng căm thù ở Tnú mang đậm chất Tây Nguyên: Tnú mang trong tim ba mối thù: Thù của bản thân;
Thù của gia đình; Thù của buôn làng
– Ở Tnú, hình tượng đôi bàn tay mang tính cách, dấu ấn cuộc đời
+ Khi lành lặn: đó là đôi bàn tay trung thực, nghĩa tình (bàn tay cầm phấn viết chữ anh Quyết dạy cho;
bàn tay cầm đá đập vào đầu mình để tự trừng phạt vì học hay quên chữ …
+ Khi bị thương: đó là chứng tích của một giai đoạn đau thương, của thời điểm lòng căm hận sôi trào
“Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy trong
bụng”. Đó cũng là bàn tay trừng phạt, bàn tay quả báo khi chính đôi bàn tay tàn tật ấy đã bóp chết tên
chỉ huy đồn giặc trong một trận chiến đấu của quân giải phóng.
– Hình tượng Tnú điển hình cho con đường đấu tranh đến với cách mạng của người dân Tây Nguyên
làm sáng tỏ chân lí của thời đại đánh Mĩ: “Chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”.
+ Bi kịch của Tnú khi chưa cầm vũ khí là bi kịch của người dân STrá khi chưa giác ngộ chân lý (bà
Nhan, anh Xút). Tnú là người có thừa sức mạnh cá nhân nhưng anh vẫn thất bại đau đớn khi không có
vũ khí. Với bàn tay không có vũ khí trước kẻ thù hung bạo anh đã không bảo vệ được vợ con và bản
thân.
+ Tnú chỉ được cứu khi dân làng Xô Man đã cầm vũ khí đứng lên. Cuộc đời bi tráng của Tnú là sự
chứng minh cho chân lí: phải dùng bạo lực cách mạng để tiêu diệt bạo lực phản cách mạng.
+ Con đường đấu tranh của Tnú từ tự phát đến tự giác cũng là con đường đấu tranh đến với cách mạng
của làng Xô Man nói riêng và người dân Tây Nguyên nói chung. Tóm lại, câu chuyện về cuộc đời và
con đường đi lên của Tnú mang ý nghĩa tiêu biểu cho số phận và con đường của các dân tộc Tây
Nguyên trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ. Vẻ đẹp và sức mạnh của Tnú là sự kết tinh vẻ đẹp
và sức mạnh của con người Tây Nguyên nói riêng và người Việt Nam nói chung trong thời đại đấu
tranh cách mạng.
4. Cụ Mết, Dít, bé Heng
– Cụ Mết: “Pho sử sống” của làng Xô man; Người giữ lửa truyền thống của cả bộ tộc, người kết nối

quá khứ và hiện tại, hôm qua và hôm nay; “thủ lĩnh” tinh thần, người định hướng con đường đi theo
cách mạng cho cả bộ tộc; nhân vật tiêu biểu cho tính cách quật cường, bất khuất của dân làng Xô Man
nói riêng, người Tây Nguyên nói chung, thâm chí rộng ra là cả dân tộc. Nếu ví làng Xô Man như một
khu rừng Xà nu đại ngàn, thì cụ Mết chính là cây đại thụ.
– Dít: một cô bé gan dạ, dũng cảm, sớm tiếp bước các thế hệ đi trước khi đến với cách mạng; tiêu biểu
thế hệ trẻ của làng Xô man trưởng thành trong cuộc kháng chiến; Cùng với Tnú, Dít là lực lượng chủ
chốt của cuộc đấu tranh ngày hôm nay, đó là sự tiếp nối tự giác và quyết liệt. Cũng như Tnú, Mai và
nhiều thanh niên khác trong làng, Dít là một trong “những cây xà nu đã trưởng thành” của “đại ngàn
Xô Man” hùng vĩ.
– Bé Heng: Một cậu bé hồn nhiên, ngộ nghĩnh đáng yêu; Sớm tham gia vào cuộc kháng chiến chung
của cả làng; Là hình ảnh tiêu biểu về một thế hệ đánh Mĩ mới, sẽ tiếp bước một cách mạnh mẽ những
Tnú, Mai, Dít; Trong “Rừng xà nu”, bé Heng chính là một trong những “cây xà nu con” “mới mọc lên”.
5. Biểu hiện của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn
+ Đề tài: Viết về cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến
chống đế quốc Mĩ; số phận và con đường giải phóng của dân làng Xô Man) không chỉ là vấn đề sinh tử
của một ngôi làng ở Tây Nguyên mà còn là của cả dân tộc Việt Nam.
+ Hệ thống nhân vật mà điển hình là Cụ Mết, Tnú, Dít: đều là những cá nhân anh hùng kết tinh cao
độ vẻ đẹp và phẩm chất của cả cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên, thậm chí của con người Việt Nam
trong chiến đấu (yêu nước, căm thủ giặc sâu sắc, gan dạ, dũng cảm, kiên cường, trung thành với cách
mạng…
+ Không gian nghệ thuật: rộng lớn.
G

Page: />

CREST EDUCATION-GIA SƯ 27

+ Cách kể chuyện: Chuyện được kể bên bếp lửa qua lời kể của một già làng, đông đảo dân làng từ già
đến trẻ đều đang quây quần bên bếp lửa để lắng nghe, không khí rất trang nghiêm
+ Xây dựng thành công những hình tượng nghệ thuật độc đáo – hình tượng cây xà nu, rừng xà nu

không chỉ thể hiện tư tưởng chủ đề, đem lại chất sử thi mà còn tạo nên giá trị lãng mạn bay bổng cho
thiên truyện.
+ Giọng điệu: ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng; ngôn ngữ trang trọng, hào hùng.

Vợ nhặt
Kim Lân
1. Ý nghĩa nhan đề
– Nhan đề gợi tình huống éo le, kích thích trí tò mò người đọc. Thông thường, người ta có thể nhặt thứ
này, thứ khác, chứ không ai “nhặt” “vợ”. Bởi dựng vợ gả chồng là việc lớn, thiêng liêng, có ăn hỏi, có
cưới xin theo phong tục truyền thống của người Việt, không thể qua quýt, coi như trò đùa.
– “Vợ nhặt” là điều trái khoáy, oái ăm, bất thường, vô lí. Song thực ra nó lại rất có lí. Vì đúng là anh
Tràng đã nhặt được vợ thật. Chỉ một vài câu bông đùa của Tràng mà có người đã theo về làm vợ. Điều
này đã thực sự khiến một việc nghiêm túc, thiêng liêng trở thành trò đùa và ngược lại, điều tưởng như
đùa ấy lại chính là sự thực. Từ đây, bản thân nhan đề tự nó đã gợi ra cảnh ngộ éo le, sự rẻ rúng của giá
trị con người. Chuyện Tràng nhặt được vợ đã nói lên tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của
người nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.
2.Tình huống truyện
– Tình huống truyện: Anh Tràng vừa nghèo, vừa xấu lại là dân ngụ cư thế mà lấy được vợ ngay giữa
lúc đói khát, ranh giới giữa sự sống và cái chết hết sức mong manh.
– Tình huống lạ, độc đáo: người như Tràng mà lấy được vợ, thậm chí có vợ theo! Thời buổi đói khát
này, người như Tràng nuôi thân chẳng xong mà dám lấy vợ! Chẳng phải thế mà việc Tràng có vợ đã tạo
ra sự lạ lùng, ngạc nhiên với tất cả mọi người trong xóm ngụ cư, với bà cụ Tứ, thậm chí đã có những
thời điểm chính Tràng cũng chẳng thể nào tin được vào điều đó.
– Tình huống truyện không chỉ tạo ra một hoàn cảnh “có vấn đề” cho câu chuyện mà còn nén trong đó
ý đồ nghệ thuật của nhà văn đồng thời gợi mở các khía cạnh giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
3. Nhân vật Tràng
*Tràng là người dân lao động nghèo, “nhặt” được vợ trong thời buổi đói khát:
– Bản thân anh là dân ngụ cư, Tràng sống với mẹ già trong một căn nhà xiêu vẹo trên bãi đất hoang
mọc lổn nhổn những búi cỏ dại. Hoàn cảnh xuất thân: khó lấy được vợ.
– Tuy nhiên, giữa cái khung cảnh tối sầm lại vì đói khát, Tràng bỗng nhiên “nhặt” được vợ. Cuộc gặp

gỡ giữa Tràng và người đàn bà không tên diễn ra thât chóng vánh chỉ qua hai lần gặp mà chỉ gặp ở
đường và chợ để rồi “nên vợ, nên chồng”:
+ Lần gặp thứ nhất: Trên đường kéo xe thóc lên tỉnh, Tràng hò chơi cho đỡ mệt “Muốn….”. Không
ngờ, thị ra đẩy xe cho anh và còn liếc mắt cười tít nữa. Tràng thích lắm vì từ khi cha sinh mẹ đẻ đến giờ
mới có một người con gái cười với hắn tình tứ đến như thế.
+ Lần gặp thứ 2, ở quán nước ngoài chợ. Ban đầu, Tràng không nhận ra vì thị khác quá, trên khuôn mặt
lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt. Khi nhận ra rồi, trong lời đáp “ăn gì thì ăn, chả ăn giầu” Tràng
sẵn sàng đãi thị bốn bát bánh đúc. Trong bối cảnh mà người ta lo thân không xong, ai cũng đứng trên
miệng vực thẳm của cái chết hành động mà Tràng đãi thị bốn bát bánh đúc chứng tỏ rằng Tràng là một
người khá tốt bụng và cởi mở. Chính sự tốt bụng và cởi mở của Tràng đã đem đến cho Tràng hạnh
phúc, Tràng nói đùa với thị “Này … rồi cùng về”, nhưng thị đã theo Tràng về thật. Khi quyết định “đèo
bòng” Tràng cảm thấy “chợn” nhưng “chậc kệ”
* Niềm hạnh phúc khi có vợ:
G

Page: />

×