TĂNG HUYẾT ÁP
1. ĐẠI CƯƠNG
1.1. Y học hiện đại
1.1.1. Khái niệm
Bệnh tăng huyết áp còn gọi là tăng huyết áp nguyên phát, biểu hiện lâm sàng chủ
yếu là huyết áp động mạch tăng cao (có thể là tăng huyết áp tâm thu, tăng huyết áp
tâm trương hoặc tăng cả hai); kèm theo bệnh nhân thấy đau đầu, chóng mặt, mệt
mỏi; thời kỳ muộn sẽ có biểu hiện lâm sàng tổn thương thận, tim và não...
Bệnh nhân sau khi được khám lâm sàng 2 -3 lần khác nhau, mỗi lần khám được đo
huyết áp ít nhất 2 lần, nghỉ ngơi trước khi đo 5 phút mà phát hiện có trị số huyết áp
≥ 140/90mmHg thì được chẩn đoán là tăng huyết áp.
Tăng huyết áp phân thành hai loại là tăng huyết áp nguyên phát (bệnh tăng huyết
áp) và tăng huyết áp thứ phát (do một nguyên nhân bệnh nào đó gây nên tăng
huyết áp, còn gọi là tăng huyết áp triệu chứng). Tăng huyết áp thứ phát chiếm tỷ lệ
khoảng 10% trong số bệnh nhân có tăng huyết áp.
Tỷ lệ phát bệnh cao, có quan hệ chặt chẽ đến tuổi, nghề nghiệp, gia tộc. Theo Tổ
chức Y tế Thế giới, tỷ lệ tăng huyết áp chiếm 8 - 18% dân số thế giới. Ở Việt Nam,
theo điều tra của Viện Tim mạch (2008), tỷ lệ tăng huyết áp là 25,1% ở những
người ≥ 25 tuổi.
1.1.2. Chẩn đoán
1.1.2.1. Lâm sàng
Giai đoạn đầu của bệnh tăng huyết áp thì thường không thấy biểu hiện đặc biệt.
Khi bệnh nhân phát hiện được tăng huyết áp thì thường thấy biểu hiện: đau đầu,
chóng mặt, hoa mắt, hay quên, ù tai, mệt mỏi, hồi hộp trống ngực, đau mỏi cổ
gáy… Giai đoạn sau của bệnh tăng huyết áp sẽ gây tổn thương cơ quan đích như
tim, não, thận và các triệu trứng liên quan kèm theo.
- Giai đoạn đầu, ngoài việc đo thấy huyết áp tăng cao, đa số bệnh nhân không thấy
biểu hiện gì; một số bệnh nhân khi nghe tim có thể thấy tiếng T2 đanh, tiếng thổi
tâm thu nhẹ ở mỏm.
- Khi tăng huyết áp kéo dài, gây tổn thương cơ quan đích như tim, thận, não... thì
sẽ thấy các triệu chứng liên quan kèm theo.
1.1.2.2. Cận lâm sàng
- X quang: quai động mạch chủ vồng, cung tim trái giãn.
- Điện tim: dày thất trái, thiếu máu cơ tim, rối loạn nhịp tim.
- Soi đáy mắt: tăng huyết áp giai đoạn 2 thấy động mạch đáy mắt ngoằn nghèo
hoặc hẹp cục bộ; giai đoạn 3 thấy biểu hiện vữa xơ động mạch nhỏ hoặc xuất
huyết võng mạc, phù gai thị.
- Xét nghiệm:
+ Nước tiểu: giai đoạn đầu không thấy rối loạn đặc biệt; khi có tổn thương thận sẽ
thấy protein niệu, trụ hình…
+ Sinh hóa máu: khi có rối loạn chức năng thận sẽ thấy urê, creatinin tăng cao.
1.1.3. Phân độ tăng huyết áp
- Phân độ tăng huyết áp (THA) ở người lớn tuổi theo WHO/ISH 2003, phân loại
này dựa trên đo huyết áp (HA) tại phòng khám. Nếu huyết áp tâm thu (HATT) và
huyết áp tâm trương (HATTr) không cùng mức phân loại thì chọn mức huyết áp
cao hơn để xếp loại.
- Tham khảo thêm phân độ của JNC 7 năm 2003:
1.1.4. Phân giai đoạn tăng huyết áp
- Giai đoạn 1: tăng huyết áp, không có tổn thương cơ quan đích.
- Giai đoạn 2: tăng huyết áp, tổn thương cơ quan đích như dày thất trái phát hiện
được trên lâm sàng, X quang, siêu âm; hẹp toàn thể hay khu trú động mạch võng
mạc; protein niệu (±), creatinin máu tăng…
- Giai đoạn 3: tăng huyết áp kèm theo đột quỵ não, suy tim, tổn thương đáy mắt
(chảy máu võng mạc, xuất tiết, phù gai thị).
Một số biểu hiện thường thấy ở giai đoạn 3 nhưng không đặc hiệu cho bệnh tăng
huyết áp: cơn đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim, nhũn não, phồng tách động mạch,
tắc mạch, suy thận.
1.2. Y học cổ truyền
1.2.1. Khái niệm
Theo y học cổ truyền, các triệu chứng mô tả trong bệnh tăng huyết áp thuộc phạm
trù chứng huyễn vựng, đầu thống. Khi bệnh tiến triển nặng lên, gây tăng huyết áp
nguy hiểm hoặc gây đột quỵ não thì y học cổ truyền xếp trong phạm trù chứng
trúng phong.
1.2.2. Nguyên nhân bệnh sinh
1.2.2.1. Nhân tố tinh thần
Hoạt động tình chí là những phản ánh không giống nhau của cơ thể con người đối
với sự vật khách quan. Y học cổ truyền cho rằng hoạt động tình chí gồm bảy loại là
hỉ, nộ, ưu, tư, bi, khủng, kinh. Trong tình huống bình thường thì hoạt động tình chí
là các trạng thái tinh thần của cơ thể và những biểu hiện sinh lý, nói chung là
không gây nên bệnh. Chỉ khi kích thích tình chí đột ngột, mạnh mẽ, kéo dài, vượt
quá phạm vi hoạt động sinh lý bình thường thì sẽ gây nên rối loạn vận hành của
khí, khí huyết âm dương tạng phủ thất điều mới có thể phát bệnh. Rối loạn tình chí
trong bệnh tăng huyết áp thường gặp là do tình chí không thoải mái, hay lo lắng,
cáu giận làm cho can khí không thư thái, uất lại mà hóa nhiệt, tổn thương can âm,
can dương thăng vượng mà gây nên mặt đỏ, mắt đỏ, đau đầu, chóng mặt…
1.2.2.2. Nhân tố ăn uống
Thói quen hay ăn nhiều chất béo, ngọt hoặc uống quá nhiều bia, rượu làm tổn
thương tỳ vị, tỳ mất kiện vận làm thấp trọc nội sinh, hóa đàm hóa hỏa, đàm trọc
nhiễu loạn phía trên gây trệ tắc kinh mạch gây nên bệnh.
1.2.2.3. Nhân tố lao dục
Lao động quá sức, dục vọng quá nhiều làm hao thương khí âm hoặc tuổi cao, thận
hao hư, âm tinh bất túc làm thủy không hàm mộc gây âm hư dương cang, nội
phong nhiễu loạn gây nên bệnh.
2. BIỆN CHỨNG LUẬN TRỊ
2.1. Biện chứng quá trình phát triển bệnh
Do nhân tố thể chất hoặc do tác động lẫn nhau của các nguyên nhân trên làm rối
loạn cân bằng âm dương, trong đó chủ yếu tác động đến hai kinh can và thận. Nói
chung, thường thấy chứng thận âm bất túc, can dương thượng cang, hình thành
bệnh lý thượng thịnh hạ hư với các biểu hiện: đau đầu, chóng mặt, ù tai, mất ngủ.
Thận âm hao hư làm cho tâm thận bất giao, tâm mất đi sự nuôi dưỡng nên xuất
hiện chứng hồi hộp trống ngực và hay quên. Bệnh lâu ngày không khỏi, âm tổn
cập dương làm thận dương bất túc, xuất hiện chứng dương hư như sợ lạnh, chân
tay lạnh, liệt dương, đái đêm nhiều lần.
Từ góc độ phát triển bệnh cho thấy, đầu tiên là tổn thương phần âm, sau đó là tổn
thương phần dương, cuối cùng là âm dương cùng tổn thương. Dương thắng sẽ hóa
phong, hóa hỏa, can phong nhập lạc làm cho tứ chi tê nhức, nếu nặng sẽ thấy xuất
hiện chứng miệng và mắt méo lệch. Nếu can hỏa thượng xung sẽ thấy mặt và mắt
đỏ, tính tình dễ cáu giận. Nếu can dương bạo cang gây nên dương cang phong
động, huyết thuận theo khí nghịch, kết hợp đàm và hỏa, nhiễu động tâm thần, bưng
bít thanh khiếu mà xuất hiện chứng nguy hiểm trong trúng phong.
Phụ nữ bị bệnh tăng huyết áp còn liên quan đến hai mạch xung và nhâm. Mạch
xung chủ huyết, mạch nhâm chủ âm của toàn thân. Nếu xung nhâm thất điều sẽ
gây nên các biểu hiện của âm hư dương cang hoặc âm dương lưỡng hư.
2.2. Nguyên tắc điều trị
- Bệnh tăng huyết áp có quan hệ mật thiết đến chức năng của can và thận. Cho nên,
nguyên tắc quan trọng nhất trong điều trị chứng bệnh này là điều chỉnh cân bằng
chức năng của can thận và âm dương, hạ huyết áp hợp lý, chú trọng đến cải thiện
triệu chứng.
- Đối với thể can dương thượng cang, dùng pháp tiềm giáng bình can, không nên
dùng các vị thuốc có tính vị khổ hàn làm tổn thương can.
- Đối với thể can thận âm hư nên dùng pháp tư dưỡng can thận nhưng không nên
quá lạm dụng các vị thuốc nê trệ làm tổn thương tỳ.
- Đối với thể âm dương lưỡng hư nên dùng pháp dục âm trợ dương, âm dương
cùng điều trị.
- Trường hợp kiêm huyết ứ, đàm trọc nên gia các vị thuốc hoạt huyết thông lạc,
hóa đàm trừ thấp.
Trong quá trình sử dụng thuốc nên lưu ý: dùng thuốc tiềm giáng không được làm
tổn thương khí, thuốc tư bổ không để tổn thương can tỳ để đạt mục đích cân bằng
âm dương.
3. PHÂN THỂ ĐIỀU TRỊ
3.1. Can dương thượng cang
- Lâm sàng: đau đầu, đầu căng tức, hoa mắt, chóng mặt, sắc mặt hồng, mắt đỏ, dễ
cáu gắt, ngủ ít, ngủ hay mê, miệng và họng khô; bệnh thường nặng lên khi bệnh
nhân bực dọc hoặc cáu giận; chất lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng, mạch huyền.
- Pháp điều trị: bình can tiềm dương, tư dưỡng can thận.
- Bài thuốc: Thiên ma câu đằng ẩm gia vị.
Thiên ma
12g
Câu đằng
12g Thạch quyết minh
20g
Chi tử
12g
Hoàng cầm 12g Ích mẫu thảo
15g
Ngưu tất
15g
Đỗ trọng
12g Tang ký sinh
12g
Dạ giao đằng 12g
Phục thần
10g
Bài thuốc trên sắc uống, ngày 01 thang.
Trong bài thuốc trên thì thiên ma, câu đằng, thạch quyết minh có tác dụng bình can
tức phong tiềm dương; chi tử, hoàng cầm có tác dụng thanh nhiệt tả hỏa làm cho
nhiệt ở kinh can không thiên cang; ích mẫu thảo có tác dụng hoạt huyết lợi thủy;
ngưu tất có tác dụng đưa huyết xuống dưới, phối hợp với đỗ trọng và tang ký sinh
để bổ ích can thận; dạ giao đằng, phục thần có tác dụng an thần định chí.
Nếu phong dương thượng cang thì gia hạ khô thảo 12g, linh dương giác 15g.
Nếu không có chứng can thận bất túc thì có thể bỏ vị thuốc đỗ trọng.
- Khoa Y học cổ truyền - Bệnh viện 103 áp dụng bài “Giáng áp - 08” để điều trị
tăng huyết áp cho thấy hiệu quả tốt:
Câu đằng
20g
Hạ khô thảo 20g
Thạch quyết minh 20g
Đan sâm
20g
Ngưu tất
20g
Đan bì
15g
Trạch tả
20g
Đương quy 20g
Bạch thược
20g
Đại hoàng
05g
Chỉ xác
12g
Qua lâu
15g
Hoàng kỳ
20g
Đỗ trọng
15g
Bài thuốc trên sắc uống, ngày 01 thang.
3.2. Âm hư dương cang
- Lâm sàng: đau đầu, hoa mắt, chóng mặt, ù tai, đau lưng, mỏi gối, hay quên, ngũ
tâm phiền nhiệt, hồi hộp trống ngực, mất ngủ, chất lưỡi hồng, ít rêu lưỡi, mạch tế
sác.
- Pháp điều trị: dục âm tiềm dương.
- Bài thuốc: Kỷ cúc địa hoàng hoàn.
Thục địa
12g
Hoài sơn 12g
Sơn thù
10g
Trạch tả
15g
Đan bì
12g
Bạch linh 10g
Kỷ tử
10g
Cúc hoa
10g
Bài thuốc trên vận dụng liều thích hợp để sắc uống, ngày 01 thang.
Bài thuốc trên cấu tạo từ bài thuốc Lục vị địa hoàng hoàn và gia kỷ tử, cúc hoa.
Trong đó, bài Lục vị địa hoàng hoàn và vị thuốc kỷ tử đều có tác dụng tư dưỡng
can thận âm, cúc hoa có tác dụng bình tức can phong. Đây là bài thuốc thường
dùng để điều trị thể âm hư dương cang.
Nếu can dương cang thịnh điển hình gây hoa mắt và chóng mặt nặng thì gia thiên
ma 12g, câu đằng 15g, thạch quyết minh 30g để bình can tiềm dương.
Nếu âm hư gây đại tiện táo bón thì gia hỏa ma nhân 15g, bá tử nhân 12g để tăng
cường nhuận tràng thông tiện.
Nếu mất ngủ, hồi hộp trống ngực thì gia toan táo nhân 10g, phù tiểu mạch 12g để
tăng cường dưỡng tâm an thần.
3.3. Âm dương lưỡng hư
- Lâm sàng: đau đầu, chóng mặt, ù tai, hồi hộp, trống ngực, mất ngủ, ngủ hay mê,
vận động thì khó thở, đau lưng, mỏi gối, di tinh, liệt dương, tiểu tiện trong và số
lượng nhiều, mạch trầm tế vô lực.
- Pháp điều trị: dục âm trợ dương.
- Bài thuốc: Kim quỹ thận khí hoàn.
Sinh địa
12g
Hoài sơn 12g
Sơn thù 10g
Trạch tả
15g
Bạch linh 12g
Đan bì
12g
Quế chi 08g
Phụ tử
04g
Bài thuốc trên vận dụng liều thích hợp để sắc uống, ngày 01 thang.
Bài thuốc trên được cấu tạo từ bài Lục vị địa hoàng hoàn và gia quế chi, phụ tử.
Trong đó, bài Lục vị địa hoàng hoàn có tác dụng tư bổ thận âm; quế chi, phụ tử có
tác dụng trợ dương. Các vị thuốc này phối hợp có tác dụng bổ cả âm và dương.
Nếu khí hư thì gia đảng sâm 12g, hoàng kỳ 15g.
Nếu mất ngủ, hồi hộp, trống ngực thì gia bá tử nhân 12g, toan táo nhân 10g.
Để tăng cường tác dụng dục âm tiềm dương thì gia quy bản 12g, thạch quyết minh
30g.
3.4. Đàm trọc ứ trệ
- Lâm sàng: đầu căng nặng và đau, đầy tức ngực, hồi hộp, trống ngực, mệt mỏi,
buồn nôn hoặc xuất tiết nhiều đờm dãi, chân tay tê bì, rêu lưỡi dày trơn hoặc bẩn
nhớp, mạch hoạt.
- Pháp trị: hóa đàm khứ thấp.
- Bài thuốc: Bán hạ bạch truật thiên ma thang.
Bán hạ 08g
Thiên ma 12g Bạch linh 10g
Trần bì 10g
Bạch truật 12g Cam thảo 08g
Các vị trên gia sinh khương 10g, đại táo 12g; sắc uống ngày 01 thang.
Trong bài thuốc trên thì bán hạ có tác dụng táo thấp hóa đàm, giáng nghịch cầm
nôn; thiên ma có tác dụng hóa đàm tức phong để giảm đau đầu và chóng mặt; bạch
truật có tác dụng kiện tỳ táo thấp, phối hợp với bán hạ và thiên ma để khứ thấp hóa
đàm, giảm chóng mặt; bạch truật phối hợp với bạch linh có tác dụng kiện tỳ trừ
thấp; trần bì có tác dụng lý khí hóa đàm; sinh khương, đại táo có tác dụng điều hòa
tỳ vị; cam thảo có tác dụng kiện tỳ và điều hòa các vị thuốc.
Nếu thuộc chứng đàm nhiệt thì gia các vị thuốc thanh hóa nhiệt đàm như đởm nam
tinh 10g, trúc nhự 12g, bối mẫu 06g hoặc phối hợp với bài Ôn đởm thang (bán hạ,
trần bì, trúc nhự, chỉ thực, phục linh, cam thảo).
Nếu hồi hộp, trống ngực, ra mồ hôi nhiều thì gia đan sâm 15g, ngũ vị tử 08g, sơn
thù 10g để tăng cường cố sáp.
Nếu đàm trọc gây huyết ứ (đau tức ngực, hồi hộp, mất ngủ, chất lưỡi tím, có ban ứ
huyết, rêu lưỡi vàng nhớp, mạch hoạt sáp) thì phối hợp với bài Huyết phủ trục ứ
thang (đào nhân, hồng hoa, xuyên khung, xích thược, sài hồ, cát cánh, ngưu tất,
sinh địa, chỉ xác, cam thảo).
3.5. Xung nhâm thất điều
- Lâm sàng: đau đầu, chóng mặt, bứt rứt, dễ ra mồ hôi, phù thũng, ngủ ít, ngủ hay
mê, dễ bị lạnh, sợ nóng, huyết áp dao động, chất lưỡi nhợt, mạch huyền; kèm theo
thấy chân và tay căng tức, mặt phù, buồn bực, mất ngủ.
- Pháp điều trị: điều lý xung nhâm.
- Phương thuốc: Nhị tiên thang gia vị.
Tiên linh tỳ
15g
Tiên mao
12g
Tri mẫu
12g
Hoàng bá
10g
Đương quy
12g
Ba kích
12g
Hoàng kỳ
20g
Trạch tả
20g
Táo nhân
20g
Bài thuốc trên sắc uống, ngày 01 thang.
Trong bài thuốc trên thì tiên linh tỳ (dâm dương hoắc), tiên mao (rễ sâm cau), ba
kích có tác dụng ôn bổ thận dương, cường cân cốt; tri mẫu, hoàng bá có tác dụng
thanh nhiệt tả hỏa và táo thấp; đương quy có tác dụng dưỡng huyết và hoạt huyết;
hoàng kỳ có tác dụng kiện tỳ ích khí, phối hợp với trạch tả để tăng cường tác dụng
thấm thấp lợi thủy; táo nhân để dưỡng tâm an thần.
Nếu mệt mỏi nhiều thì gia bạch truật 12g, hoài sơn 12g để tăng cường bổ khí.
Nếu chân, tay, mặt bị phù thì gia xa tiền tử 20g, đông qua bì 30g.
Nếu mất ngủ nhiều thì gia bá tử nhân 15g, dạ giao đằng 20g.
Nếu đau đầu, chóng mặt thì gia câu đằng 20g, ngưu tất 15g.
4. BIỆN PHÁP ĐIỀU TRỊ KHÁC
- Châm cứu theo pháp hư bổ thực tả: các huyệt Khúc trì, Túc tam lý, Hành gian,
Thái xung.
Vận dụng huyệt Ngũ du để châm tả huyệt Hành gian (là huyệt huỳnh thuộc hỏa
của kinh can) để tả hỏa ở kinh can.
Nếu đau đầu nhiều, chóng mặt thì gia thêm huyệt Thái dương, Ấn đường, Hợp cốc,
Nội quan, Thần môn, Huyền chung, Dương lăng tuyền.
- Xoa bóp kết hợp.
5. KẾT LUẬN
- Y học cổ truyền xếp các triệu chứng của bệnh tăng huyết áp thuộc phạm trù các
chứng bệnh huyễn vựng, đầu thống...
- Nguyên nhân gây bệnh theo y học cổ truyền liên quan đến nhân tố tình chí rối
loạn, thói quen ăn uống không điều độ, lao động quá sức hay tham vọng quá lớn...
dẫn đến rối loạn công năng của tạng phủ và khí huyết mà gây nên bệnh.
- Cơ chế bệnh sinh chủ yếu liên quan đến mất cân bằng âm dương và gây tác động
đến tạng can và tạng thận làm cho can dương thượng cang, can thận âm hư hay
xung nhâm thất điều.
- Trong quá trình điều trị, người thầy thuốc phải hết sức chú trọng đến biện chứng
luận trị để gia giảm bài thuốc cho phù hợp.
- Chú ý: kết hợp với y học hiện đại để đánh giá hiệu quả điều trị và kết hợp dùng
thuốc hạ huyết áp khi cần thiết.