Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

chiếc thuyền ngoài xa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (353.6 KB, 45 trang )


I. Tìm hiểu chung:
1. Tác giả:
a. Cuộc đời:
- Nguyễn Minh Châu (1930 - 1989) sinh ra trong một gia đình nông
dân, ở huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
- Năm 1950, đang học chuyên khoa trường Huỳnh Thúc Kháng, ông
vào bộ đội và theo học trường sĩ quan Trần Quốc Tuấn.
- Từ 1952 - 1958 công tác và chiến đấu tại sư đoàn 320.
- Năm 1960, Nguyễn Minh Châu công tác tại phòng văn nghệ quân
đội, bắt đầu viết văn, nhưng tên tuổi của ông chỉ thực sự được bạn đọc chú ý
từ tiểu thuyết Cửa Sông (1967).
- Năm 1972 được kết nạp vào hội nhà văn Việt Nam.
- Nguyễn Minh Châu được nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí
Minh về văn học nghệ thuật năm 2000.
b. Hành trình sáng tác của Nguyễn Minh Châu:
- Nguyễn Minh Châu là người suốt đời đi tìm cái đẹp và cái thật, tha
thiết kiếm tìm “ cái hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người” từ
những ngày còn trong khói lửa, Nguyễn Minh Châu đã tâm niệm “ Bây giờ
ta phải chiến đấu cho quyền sống của dân tộc, sau này ta phải chiến đấu cho
quyền sống của từng người, làm sao cho con người ngày càng tốt đẹp, chính
cuộc chiến đấu ấy mới lâu dài”. Tâm niệm ấy thể hiện rất rõ thành hai giai
đoạn sáng tác của cây bút này.
+ Trước 1975, Nguyễn Minh Châu được biết đến với những tác phẩm
đậm chất sử thi như Cửa Sông(1967), Những vùng trời khắc nhau(1970),
Dấu chân người lính(1972). Người đọc chắc hẳn sẽ không thể quên được
hình ảnh Nguyệt cô thanh niên xung phong đẹp đến trong suốt, đẹp đến mức
như được “bao bọc trong một bầu không khí vô trùng” khi đọc một sáng tác
được viết vào thời kì đấu tranh chống chiến tranh phá hoại miền Bắc của
Nguyễn Minh Châu, thiên tình ca Mảnh trăng cuối rừng.
+ Sau 1975, đặc biệt là những năm đầu thập niên 80, chính Nguyễn


Minh Châu lại là người đi tiên phong, là người mở đường đầy tinh anh và tài
năng cho công cuộc đổi mới văn học. Sau 1975, đất nước thoát khỏi hoàn
cảnh chiến tranh, cuộc sống trở lại với thời bình, Nguyễn Minh Châu có
những trăn trở cách tân dũng cảm và đầy bản lĩnh, cảm hứng sử thi đã được
thay bằng cảm hứng thế sự, đời tư, con người sử thi đã được thay bằng con
người đời thường với cái đa chiều muôn mặt của nó. Từ Dấu chân người
lính (1970) đến Bức tranh(1982), Chiếc thuyền ngoài xa(1983), là một bước
tiến dài rất đáng trân trọng trong hành trình khám phá vào tầng chìm, vào
chiều sâu cuộc sống con người của Nguyễn Minh Châu. Các tác phẩm tiêu
biểu trong giai đoạn này: Miền cháy(1977), Những người đi trong rừng ra
(1982), Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983), Bến quê (1985), Cỏ
lau ( 1989)
2. Tác phẩm:

- Xuất xứ: Chiếc thuyền ngoài xa thuộc giai đoạn sáng tác thứ hai của
Nguyễn Minh Châu. Lúc đầu được in trong tập Bến quê, sau được Nguyễn
Minh Châu lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn (1987).
- Tóm tắt tác phẩm: Theo yêu cầu của trưởng phòng, nghệ sĩ nhiếp
ảnh Phùng đến một vùng ven biển miền Trung để chụp một tấm ảnh cho tấm
lịch năm sau. Sau nhiều ngày kiên nhẫn "phục kích" anh đã chụp được một
bức ảnh đẹp - Đó là cảnh một chiếc thuyền ngoài xa đang ẩn hiện trong biển
sớm mờ sương. Nhưng anh hết sức kinh ngạc khi chững kiến cảnh chiếc
thuyền vào bờ: một gã chồng vũ phu đánh đập vợ dã man, đứa con vì bảo vệ
mẹ đã đánh trả lại cha. Những ngày sau đó vẫn tiếp diễn cảnh tượng đau
lòng đó nên Phùng đã can thiệp. Người đàn bà làng chài được mời đến toà
án huyện nhưng chị đã từ chối sự giúp đỡ của anh .Chị đã kể câu chuyện về
cuộc đời mình.
Rời vùng biển với khá nhiều ảnh , người nghệ sĩ đã có một tấm ảnh
được chọn vào lịch năm ấy.Và mỗi lần đứng trước tấm ảnh , người nghệ sĩ
đều thấy hiện lên cái màu hồng hồng của sương mai và nếu nhìn lâu hơn bao

giờ anh cũng thấy hình ảnh người đàn bà nghèo khổ lam lũ ấy bước ra từ
bức tranh.
- Khái quát : Chiếc thuyền ngoài xa rất tiêu biểu cho hướng tiếp cần
đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Cái nhìn
hiện thực đa chiều đã giúp ông nhận ra đời sống con người bao gồm Chiếc
thuyền ngoài xa những quy luật tất yếu lẫn yếu tố ngẫu nhiên may rủi khó bề
lường hết. Ông day dứt về việc con người phải chấp nhân những nghịch lí
không dáng có. Gánh nặng mưu sinh đè trĩu trên đôi vai Chiếc thuyền ngoài
cặp vợ chồng hàng chài, giam hãm họ trong hình ảnh tối tăm, đói khổ, bấp
bênh. Người chồng tha hóa dần, trở tha thành kẻ vũ phu, thô bạo, người vợ
vì thương con nên nhẫn nhục chịu đựng sự ngược đãi của chồng mà không
biết rằng đã làm tổn thương tâm hồn đứa con thơ dại. Cậu bé yêu mẹ, bênh
vực mẹ thành ra thù địch với cha và ai biết rằng liệu trong tương lại cậu có
sống khác cha mình? Phía sau câu chuyện rất buồn này, trái tim nhân hậu
của Nguyễn Minh Châu vẫn ấm áp tình thương yêu, sự trân trọng trước vẻ
đẹp của tuổi thơ, của tình mẫu tử, sự can đảm và bao dung của người phụ
nữ. Đó không phải là kiểu vẻ đẹp chói sáng, hào hùng mà là những hạt ngọc
khuất lấp, lẫn trong cái lấm láp, lam lũ của đời thường. Theo ông, tình yêu
của người nghệ sĩ,” vừa là một niềm hân hoan, say mê, vừa là một niềm đau
đớn, khắc khoải, một mối quan hoài thường trực về số phận, hạnh phúc của
những người xung quanh mình.
II. CÁC ĐỀ BÀI THƯỜNG GẶP:
Đề 1: Từ nội dung câu chuyện, anh chị hãy suy nghĩ gì về nhan đề của
truyện: Chiếc thuyền ngoài xa?
Đề 2: Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn
Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
Đề 3: Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” được tổ chức xung quanh một
“tình huống nhận thức” mà hai nhân vật Phùng và Đẩu trải qua. Hãy phân
tích quá trình nhận thức cảu hai nhân vật này.
Đề 4: Từ cuộc đời người đàn bà trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài

xa của Nguyễn Minh Châu, suy nghĩ về vấn đề bình đẳng giới ở Việt Nam.
Đề 5: Chọn và phân tích một đoạn văn trong tác phẩm để thấy được
vẻ đẹp văn xuôi của nguyễn Minh Châu.
Đề 6: Phân tích giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm.
Đề 7: Vấn đề mà Nguyễn Minh Châu đặt ra trong Chiếc thuyền ngoài
xa đã qua vãng hay chưa?
Đề 8: Bức thông điệp thẩm mĩ mà Nguyễn Minh Châu gửi gắm qua
Chiếc thuyền ngoài xa
Đề 9: Từ tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, bàn về vai trò của gia đình
trong đời sống mỗi con người.
Đề 10: Anh(chị) suy nghĩ gì về thái độ sống cam chịu của người đàn
bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa.
Đề 11: Từ truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
hãy bàn về vấn đề bạo lực gia đình.
Đề 12: Qua sự đối lập giữa “cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh” mà
phóng viên Phùng vừa thu vào ống kính với hiện thực cuộc sống nhọc nhằn,
cay cực của những người dân chài, anh (chị) suy nghĩ gì về mối quan hệ
giữa văn chương nghệ thuật với cuộc đời.
III. CÁC HƯỚNG TIẾP CẬN
1. Thông qua hệ thống nhân vật
a. Người đàn bà hàng chài:
- Tên gọi : người đàn bà hàng chài. Nguyễn Minh Châu đã không gọi
tên cụ thể mà chỉ gọi phiếm định.  Chị cũng giống như trăm người đàn bà
vùng biển khác, nhỏ bé, vô danh. Dường như cuộc sống chẳng có gì đáng
nói nhưng trong chị lại chứa đựng nhiều điều kì diệu khiến người khác phải
suy nghĩ.
- Ngoại hình: trạc ngoài 40, hình dáng thô kệch, rỗ mặt, khuôn mặt
mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn
ngủ  người đàn bà xấu xí, mệt mỏi  gợi ấn tượng về cuộc đời nhọc nhằn,
lam lũ, vất vả, đau khổ làm cho diện mạo chị đã xấu giờ trở nên thô kệch.

- Số phận: Bất hạnh
Dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên chị, xấu,
nghèo khổ, lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của chồng
vũ phu, tổn thương, đau xót cho các con phải nhìn cảnh bố đánh mẹ...
+ Cái xấu đã đeo đuổi chị như định mệnh, suốt từ khi còn nhỏ
+ Có mang với một anh hàng chài, đến mua bả về đan lưới, rồi thành
vợ chồng. Cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh
+ Gia đình nghèo lại còn đông con, thuyền thì chật,...
+ Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ: ba ngày một trận nhẹ,
năm ngày một trận nặng. Cứ khi nào lão thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh,
như là để trút giận, như đánh 1 con thú, với lời lẽ cay độc" Mày chết đi cho
ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ". Khi bị đánh chị không hề kêu
một tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy trốn và dường như người
đàn bà coi đó là một lẽ đương nhiên Đây là một người phụ nữ, người vợ
nhẫn nhục, cam chịu, thầm lặng chịu đựng mọi đau đớn.
 Số phận đầy bi kịch được tác giả tái hiện đầy cảm thông và chia sẻ.
- Phẩm chất, tính cách:
+ Nhẫn nhục, chịu đựng: chị coi việc mình bị đánh đó như 1 phần đã
rất quen thuộc của cuộc đời mình, chị chấp nhận, không kêu van, không trốn
chạy. Khi được đề nghị giúp đỡ thì : "Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù
con cũng được nhưng đừng bắt con bỏ nó".
 Chị hiểu cơ cực của của cuộc sống mưu sinh trên biển không có người
đàn ông.
+ Yêu thương con tha thiết(“ phải sống cho con chứ không thể sống
cho mình”)
Nguyên nhân sâu xa của sự cam chịu chính là tình thương con vô bờ
bến của chị. Sự cần thiết của việc có người đàn ông làm chỗ dựa, để chèo
chống khi phong ba bão táp, cùng nuôi dạy các con " Đàn bà trên thuyền
chúng tôi phải sống cho con, ko thể sống cho mình như trên đất được".
Tình thương vô bờ đối với những đứa con Phân tích ty của chị với

thằng Phác, chị gưiỏ nó lên rừng, chị đau xót khi thấy nó vì thương mẹ mà
hận bố,....
=> Tình mẫu tử vút lên, trên cái nền của 1 cuộc sống cơ cực, ngang trái, đau
đớn đầy xót xa .
+ Người đàn bà vị tha
Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm
hạnh phúc nhỏ nhoi ( “...nhìn con được ăn no, có khi vợ chồng, con cái sống
vui vẻ, hào thuận”)
+Người đàn bà thất học nhưng lại rất sắc sảo, thấu hiểu lẽ đời
Ý thức được thiên chức của người phụ nữ (“Ông trời sinh ra người
đàn bà là để đẻ con và nuôi con cho đến khi khôn lớn”)
Vì hoàn cảnh: trong cuộc mưu sinh đầy cam go: thuyền ở xa biển, cần
một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề.
Đó là sự cam chịu, nhẫn nhục đáng cảm thông, chia sẻ. Bởi nếu hiểu sự
việc một cách đơn giản chior vần yêu cầu người đàn bà bỏ chồng là xong.
Nhưng nhìn vấn đề một cách thấu suốt thì suy nghĩ và cách xử sự của người
đàn bà là không thể khác được.
 Đắng sau sự nhẫn nhục ấy là bản năng sinh tồn mãnh liệt và một tấm lòng
yêu thương mê muội, đáng thương. Người đàn bà hàng chài vừa lam lũ, chất
phác, có tình thương con vô bờ bến, vừa luôn mang nỗi đau, vừa có cái thâm
trầm trong việc thấu hiểu các lẽ đời.
Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao phụ nữ Việt
Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh.
Qua câu chuyện của người đàn bà, ta càng thấy rõ: Không thể dễ dãi,
đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự vật, hiện tượng của cuộc sống, không
thể có cái nhìn một chiều, phiến diện với con người và cuộc sống.
b. Người chồng
- Vốn là anh con trai chất phác, cục mịch nhưng hiền lành
- Giờ là một người chồng vũ phu, một lão đàn ông độc ác, khốn khổ:
+ Lưng rộng và cong như một chiếc thuyền.

+ Mái tóc tổ quạ.
+ Chân đi chữ bát, bước từng bước chắc chắn.
+ Hàng lông mày cháy nắng.
+ Hai con mắt độc dữ.
- Là người chồng lầm lì, vũ phu, đánh vợ như một thói quên để giải
tỏa tâm lí và nỗi khổ đời thường. Người đàn ông này vừa là nạn nhân của
cuộc sống khốn khổ, vừa là thủ phạm gây đau khổ cho người thân.
 Những cư dân vùng biển qua ngòi bút của Nguyễn Minh Châu có cái gì
bí ẩn, hoang sơ, dữ dội như sóng, như cuồng phong.
c.Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng
- Là nghệ sĩ nhiếp ảnh, từng là một người lính vào sinh ra tử; Phùng là
nhân vật tư tưởng cảu tác phẩm. Nhân vật Phùng trở về với mảnh đất từng
chiến đấu, một người lính năm xưa giờ là phóng viên ảnh trở về ghi lại
những vẻ đẹp cuộc sống đời thường cho bộ ảnh lịch quê hương đất nước,
phản ánh cuộc sống lao động khoẻ khoắn tươi rói của những con người dựng
xây đất nước, đi tìm vẻ đẹp bí ẩn của màn sương buổi sáng bổ sung cho tấm
ảnh lịch hoàn chỉnh.
- Vốn là người lính chiến trường nên Phùng căm ghét mọi áp bức, bất
công. Anh xúc động ngỡ ngàng trước vẻ đẹp tinh khôi của chiếc thuyền trên
biển lúc bình minh bao nhiêu thì lại càng bàng hoàng, sửng sốt, kinh ngạc,
bất bình khi chứng kiến cảnh người chồng ngược đãi, vũ phu bấy nhiêu.
- Câu chuyện người đàn bà đã làm thay đổi cách nhìn người, nhìn đời
ở Phùng. Anh nhận thức rõ hơn chân lí nghệ thuật của người nghệ sĩ. Cái
nhìn và cảm nhận của Phùng là sự khám phá và phát hiện sâu sắc về đời
sống con người. Chứng kiến và thấu hiểu nguyên do người đàn bà không thể
bỏ chồng, anh vỡ lẽ ra nhiều điều trong cách nhìn nhận cuộc sống. Phùng
như thấy chiếc thuyền nghệ thuật ở ngoài xa còn sự thật cuộc đời lại ở rất
gần. Câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện giúp anh hiểu rõ hơn cái
có lí tưởng như nghịch lí ở gia đình hàng chài. Anh hiểu thêm tính cách Đẩu
và hiểu thêm chính mình.

d. Phác
- Phác không còn là 1 cậu bé như những cậu bé cùng trang lứa nữa,
mà cậu thật sự là 1 người lớn, hiểu biết, giàu tình cảm tuy lòng cậu đầy vết
xước trong trái tim.
- Cảm động nhất là hình ảnh " ... cái thằng nhỏ lặng lẽ đưa mấy ngón
tay khẽ sờ trên khuôn mặt người mẹ, như muốn lau đi những giọt nước mắt
chứa đầy những nốt rỗ chằng chịt" hay như chi tiết thằng Phác từng tuyên bố
rằng "Nó còn có mặt ở dưới biển này thì mẹ nó không bị đánh".
- Có lẽ trg lòng thằng bé vẫn hết mực yêu thương mẹ và ba của mình
nhưng nó cũng rất rạch ròi, cương quyết với hành động sai trái của bố khi
đối xử tàn bạo với mẹ của nó.
 Với nhân vật Phác Nguyễn Minh Châu đã đặt ra vấn đề lớn cho xã hội.
Đó là tương lai của những đứa trẻ sống trong cảnh bạo hành gia đình rồi sẽ
ra sao?
e. Đẩu
-Nhân vật Đẩu chỉ là nhân vật phụ, nhưng lại không thể thiếu trong tác
phẩm. Bởi chính Đẩu đã cho chúng ta thấy được rõ nhất cái nhìn đời qua qua
lý thuyết, chỉ nhìn vào cái bề ngoài của sự việc mà quên đi tìm hiểu nguồn
gốc của nó.
- Nhân vật Đẩu- vị Bao Công của phố biển, người đại diện cho công
lí, sau khi tiếp xúc với người đàn bà hàng chài đã vỡ ra ban nhiều điều cay
đắng của cuộc đời: cuộc mưu sinh quá nghiệt ngã đã đẩy con người vào bế
tắc. Đẩu từng là một người lính. Anh từng chiến đấu để giải phóng mảnh đất
này nhưng giờ đây lại không thể giải phóng nổi số phận của người đàn bà
hàng chài. Đẩu nắm trong tay luật pháp - cán cân công lí của xã hội nhưng
không thể giúp được người đàn bà này.
- Qua nhân vật Đẩu, ta như hiểu thêm rằng pháp luật đội khi cũng bất lực
nếu như con người không tự nhận thức và cứu chính bản thân mình.
2. Kết cấu tác phẩm:


Đoạn 1: (Từ đầu đến....”chiếc thuyền lưới vó đã biến mất”): Hai phát
hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh.
- Cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh: (Bức tranh thiên nhiên hoàn mĩ)
+ Phóng viên Phùng gặp một cảnh rất đắt trời cho: mũi thuyền in một
nét mơ hồ vào bầu trời mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh
mặt trời chiếu vào. Vài bóng người ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc
mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua
những cái mắt lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y
hệt cánh một con dơi Bức tranh toàn bích
+ Cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh mang đến khoảnh khắc hạnh phúc
tràn ngập tâm hồn anh - đó là niềm hạnh phúc của khám phá và sáng tạo =>
“Bản chất cái đẹp là đạo đức”
 Mối quan hệ giữa người nghệ sĩ và cuộc đời.
+ Hiện thực đằng sau cảnh đẹp
Khi chiếc thuyền đó đâm thẳng vào bờ thì sự thật về cuộc sống lam
lũ,khắc nghiệt hiện ra:
 Người đàn ông hùng hổ thô bạo dùng dây lưng quật tới tấp vào lưng
người đàn bà vừa đánh vừa thở hồng hộc, nghiến
răng ken két, vừa nguyền rủa bằng giọng "rên rỉ đau đớn"...
 Người đàn bà nhẫn nhục không kêu, không chống trả, không tìm
cách trốn.
 Phác chạy đến, giằng lấy chiếc thắt lưng, vung chiếc khóa sắt quật
vào người đàn ông.
Tâm hồn đang thăng hoa bởi cái đẹp >< choáng váng vì sự xuật hiện
của đôi vợ chồng thuyền chài, hành động vũ phu của người chồng và hành
động phản kháng cảu đứa con trai.
Bức tranh thiên nhiên >< Bức tranh Hiện thực cuộc sống
 Mâu thuẫn nghịch lý tồn tại giữa cái đẹp vẫn có cảnh sống tối tăm, cực
nhọc -> Phùng sống trong nhiều cảm xúc mạnh: từ ngỡ ngàng, ngơ ngác đến
cảm thông rồi thấm thía. Niềm tin trong anh bị lung lay...

=> Anh bắt đầu "ngộ" ra mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời.
Bức tranh cuộc sống đầy bất ngờ và nghịch lí.
Tình huống ấy khiến người nghệ sĩ nhận ra rằng: Đằng sau cái đẹp
không phải bao giờ cũng là chân lí của sự hoàn thiện, là đạo đức.
* Nghịch lý (bên ngoài- bên trong):
+ Trong bức ảnh mà Phùng chụp thì chiếc thuyền ngoài xa là chân lý
của sự toàn bích cảnh, cùng với bối cảnh của nó là bình minh trên biển
thiện, hoàn mĩ.
+ Nhưng khi vài bóng người lớn lẫn trẻ con… trên chiếc mui khum
khum ấy lần lượt hiện lên bờ và cảnh bạo hành diễn ra cùng nỗi đau đớn,
nhức nhối của các nhân vật đã khiến Phùng có cái nhìn nghệ thuật gần cuộc
đời Đó chính là dụng ý nghệ thuật của nhà văn.◊hơn
Mối quan hệ giữa văn học nghệ thuật và cuộc đời.Mối quan hệ nghệ thuật
và cuộc sống: Nghệ thuật vốn nảy sinh từ cuộc đời nhưng không phải bao
giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật ý nghĩa
Đoạn 2: (Tiếp đến . sóng gió giữa phá): Câu chuyện của người đàn bà
hàng chài ở tòa án huyện.
- Thái độ của các nhân vật
+ Người đàn bà hàng chài: Ban đầu có vẻ sợ sệt, lúng túng, vừa đặt
chân vào phòng liền tìm đến một góc tối để ngồi  rón rến đến ngồi ghé vào
mép ghế và cố thu người lại  cúi mặt xuống, chắp tay vái lạy lia lịa khi
được đè nghị li hôn chồng  mất hết vẻ khúm núm, sợ sệt, lộ vẻ sắc sảo khi
kể chuyện đời mình.
+Đẩu: cố làm ra vẻ thân mật, tự nhiên khi tiếp chuyện người đàn bà
 giọng trở nên giận dữ khi kết tội người đàn ông  nói với vẻ hào hứng
của một người bảovệ công lí  Vỡ ra nhiều điều, Đẩu trông rất nghiêm nghị
và đầy suy nghĩ.
+ Phùng: cảm thấy ngột ngạt khi nghe người đàn bà nhất quyết không
bỏ chồng  đầy băn khoăn và vỡ lẽ khi nghe người đàn bà trần tình về cuộc
đời mình.

- Cách xưng hô
+ Người đàn bà: Thưa đã,… con lạy quý tòa  xưng chị, gọi các chú
 xưng tôi, gọi các chú
+Đẩu: gọi chị  bà  chị
- Lí lẽ:
+ Đẩu, Phùng:
“ Chị không sống nỗi với gã vũ phu ấy đâu”,“Chủ trương của chúng
tôi là kêu gọi hòa thuận”
+ Người đàn bà hàng chài:
“ Quý tòa bắt tộ con cúng được, phạt tù con cúng được, đừng bắt con
bỏ nó”
“…cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của người làm ăn lam
lũ, khó nhọc,…”
“ Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn,
từ ngày cách mạng về đã đỡ đối khổ hơn trước kia”
“ Cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá mà thuyền lại
chật”
“Từ ngày cách mạng về đã cấp đất nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ
nghề được”
“Là bởi các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như
thế nào nào nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn
ông”
“Ông trời sinh ra đàn bà là để đẻ con và nuôi con cho không lớn nên
phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi sống cho con chứ không
thể sống cho mình như ở trên đất được”
“Vui nhất là lúc nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”
- Cách nhìn nhận về người chồng:
+ Đẩu, Phùng: vũ phu, tàn bạo
+Người đàn bà hàng chài: đáng thương, bà thấu hiểu cho sự bế tắc của
người chồng trong cuộc sống.

=> Người đàn bà hàng chài nhìn nhận người chồng của mình toàn diện hơn,
sâu sắc hơn.
=> Đối với mọi sự việc hiện tượng trong cuộc sống phải có cái nhìn đa diện,
nhiều chiều.
=> Mọi người đặc biệt là người nghệ sỹ cần gắn bó với cuộc đời, phải tìm
trong hiện thực vẻ đẹp của cuộc sống, phải dũng cảm ghi lại những số phận,
cảnh đời lam lũ, cực khổ. Nghệ thuật phải gắn liền với cuộc sống con người,
tìm ra lối thoát thực tế cho cảnh đời đói nghèo tối tăm.
 Hóa ra, ở người đàn bà xấu xí và tội nghiệp này là cả một hiện thực
“bất khả tri”. Bà nhẫn nhục chịu đựng sự hành hạ của chồng như chức phận
mà mình có được, thỏa nguyện vì chức phận đó. Trong thâm tâm bà, những
nỗi đau đớn mà mình gánh chịu xứng đáng như thế vì bởi bà… đẻ nhiều con
quá. Điều đó đồng nghĩa với cái đói, cái nghèo khổ còn bám riết lấy gia đình
này.
Nhưng thực tế, cái đói, cái nghèo khổ đâu chỉ bởi bà đẻ nhiều, mà nó
cũng là một thiên chức rất đàn bà thôi. Trong lời thú tội ngậm ngùi, chân
thật và tê tái của bà, có những câu hỏi không dễ trả lời, những mâu thuẫn
khó giải thích: để yêu thương và sống qua muôn nỗi khó khăn, cơ cực, đôi
khi người ta phải chấp nhận sự tàn nhẫn, tha hóa, phi đạo đức.Người chồng
vốn dĩ hiền lành, nghĩa hiệp. Sự khốn cùng, mong manh của đời sống chài
lưới đã biến ông ta thành vũ phu. Hành động vũ phu hay là sự bế tắc, hay là
sự giải thoát của những con người tội nghiệp?. “Bất kể lúc nào thấy khổ quá
là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu…Sau này
con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh…”. Rõ
ràng, đây là một giải thoát trong bế tắc, một giải thoát đẫm nước mất và đau
đớn. Cả Đẩu và Phùng đều thốt lên: “Không thể nào hiểu được, không thể
nào hiểu được”. Họ không thể hiểu tại sao hai con người nhỏ bé kia lại chấp
nhận sống và yêu thương bằng kiểu lạ lùng như vậy. Dù lời kể của người
đàn bà phần nào giúp họ nhận ra những ẩn ức thẳm sâu nhưng họ vẫn dừng
lại trên bờ vực của sự nhận thức hiện thực. Họ chưa thể nào dò thấu đáy sâu

của nỗi ẩn ức kia cũng như hiện thực đang diễn ra trước mặt họ.
Cơn bão biển khơi lại nổi lên, biển động, gia đình thuyền chài này rất
có thể lại phải nhịn ăn, đói rách. Cái cảnh tượng thường tình kia, sẽ lại xẩy
ra. “Con sói con” - cậu bé Phác, lại phải thủ một con dao trong mình để trấn
áp người cha, trấn áp người đàn ông lầm lũi kia… Những dự cảm buồn như
vết xước trở đi trở lại trong tâm hồn. Những tâm hồn đầy vùng tối.
Đoạn 3: (Còn lại) Mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống
“ Tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ, tôi vẫn thấy hiện lên
cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe
tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà bước ra
khỏi tấm ảnh...”
- Qua “Chiếc thuyền ngoài xa”, Nguyễn Minh Châu đã nêu lên mối
quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống:
- Nghệ thuật không ở đau xa mà hiện hữu ngay trong cuộc sống hằng
ngày cảu chúng ta. Nghệ thuật không chỉ là một bức tranh đẹp mà còn là số
phận, cuộc sống của những người nghèo khổ như người đàn bà hàng chài,...
- Nghệ thuật chỉ thực sự cần cho con người, có ích cho tiến bộ xã hội
khi nó chưa đựng tính nhân văn, nghĩa là nó không thể xa lạ với số phận con
người.
- Bằng sự đối lập giữa “cái đẹp tuyệt đỉnh” của ngoại cảnh với hiện
thực nhọc nhằn mà những người dân chài đang phải chấp nhận, có thể thấy
rằng nghệ thuật có trách nhiệm can dự vào cuộc đời, phải đóng góp tiếng nói
tích cực vào việc giải phóng con người khỏi sự nghèo đói, tăm tối và bạo
lực.
- Nghệ thuật không thể nhân danh bất cứ điều gì để lảng tránh sự thật
về con người.
- Nghệ thuật đòi hỏi người nghệ sĩ phải có lòng yêu thương, có can
đảm đối diện với cái xấu, cái ác và nhất là khả năng thấu hiểu đời sống.
3. Chi tiết nghệ thuật:
a. Nhan đề

- Nghĩa tường minh:
+ Chiếc thuyền ngoài xa–cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh.
+ Chiếc thuyền ngoài xa–hiện thực nhọc nhằn cay đắng của người dân
chài.
- Nghĩa hàm ẩn:
Mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. Nghệ thuật nói chung phải
là tiếng nói trung thực, thấu hiểu về số phận con người. Chủ nghĩa nhân đạo
trong nghệ thuật không thể xa lạ với số phận con người
Tên truyện ngắn là "Chiếc thuyền ngoài xa", và quả thật, hình ảnh
chiếc thuyền gần như xuất hiện xuyên suốt trong câu chuyện mà nhà văn
mang đến cho người đọc. Bắt đầu từ yêu cầu của người trưởng phòng "lắm
sáng kiến" đối với nhân vật xưng "tôi" - người nghệ sỹ nhiếp ảnh: "...Chúng
ta sẽ mang đến cho mỗi gia đình một bộ sưu tập về thuyền và biển, không có
người. Hoàn toàn thế giới tĩnh vật". Tiếp đó là hình ảnh chiếc thuyền "mới
đóng xong vẫn còn thơm mùi gỗ lẫn mùi dầu rái", rồi tiếp theo nữa là "một
nhóm chừng dăm bảy chiếc thuyền vó vừa tắt đèn" và cuối cùng tập trung
vào "một chiếc thuyền lướt vó ...đang chèo thẳng vào trước mặt tôi". Đây
chính là "Chiếc thuyền ngoài xa".
Hình ảnh "Chiếc thuyền ngoài xa" được nhà văn khắc hoạ rất ấn
tượng: "Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu trời sương mù trắng
như sữa pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người
lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum,
đang hướng mặt vào bờ". Hình ảnh đó mang một "vẻ đẹp thực sự đơn giản
và toàn bích" - vẻ đẹp của "một bức tranh bằng mực Tàu của một danh hoạ
thời cổ", và tất cả vẻ đẹp đó đã được nhà nghệ sỹ nhiếp ảnh của chúng ta thu
vào một tấm ảnh mà nó "được treo ở rất nhiều nơi, nhất là trong các gia đình
sành nghệ thuật".
Hình ảnh "Chiếc thuyền ngoài xa" giờ đã hoá thân thành một tác
phẩm nghệ thuật để mọi người nhìn ngắm, chiêm ngưỡng với tất cả những
vẻ đẹp về màu sắc, đường nét, bố cục...và khi thưởng thức bức ảnh đó,

những người sành nghệ thuật thể có cái cảm giác "trở nên bối rối", cảm thấy
"trái tim như có cái gì bóp thắt vào" và "khám phá thấy cái chân lý của sự
hoàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn"...như
cái cảm giác mà "tôi" đã từng có.
Song, dù có là người sành nghệ thuật đến đâu, cũng không ai khám
phá ra được: Đó là những con nguời, những cuộc đời, những số phận đầy trớ
trêu, nghịch lý đã, đang và sẽ còn tiếp tục sống quay quắt bên trong chiếc
thuyền ấy. Một người vợ nhẫn nhục cam chịu một cách tự nguyện những
trận đòn thịnh nộ của anh chồng với "ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một
trận nặng" chỉ vì chiếc thuyền ấy, gia đình ấy (với trên dưới mười con
người) cần có ông ta chèo chống lúc phong ba; Một đứa con trai yêu mẹ đến
nỗi định giết cả bố mình... Cái sự thật bên trong ấy chỉ được người thợ chụp
ảnh nhận ra khi "chiếc thuyền đâm thẳng vào chỗ tôi đứng" - Tức là ở một
khoảng cách gần, rất gần!
Với chi tiết này, câu chuyện dường như đã mở ra hai hình ảnh, hai thế
giới khác hẳn: Chiếc - thuyền - ngoài - xa mang lại vẻ đẹp hoàn mỹ cho một
tấm ảnh, còn chiếc - thuyền - khi - đến - gần lại làm vỡ ra một hiện thực
nghiệt ngã đến xót xa của số phận con người. Vậy nên, có thể nói hình tượng
"Chiếc thuyền ngoài xa" đích thực là một ẩn dụ nghệ thuật hoàn toàn có
dụng ý của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Giải mã hình tượng ản dụ đó, người
đọc sẽ nhận ra một thông điệp mà nhà văn truyền đi, rằng cuộc đời vốn dĩ là
nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời
cũng là nghệ thật, và rằng con người ta cần có một khoảng cách để chiêm
ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn bên
trong thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với cuộc đời, đi vào
bên trong cuộc đời và sống cùng cuộc đời.
Chính vì thế, cho dù chỉ là một bức ảnh "hoàn toàn thế giới tĩnh
vật"(hay nói đúng hơn là vẫn có con người nhưng đó chỉ là "những bóng
người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng") nhưng nhà nghệ sỹ
nhiếp ảnh của chúng ta - cũng là người đã trực tiếp nhận ra những số phận

ẩn tàng bên trong nó - bao giờ cũng như thấy "một người đàn bà bước ra "
sau mỗi lần suy tư, ngắm nhìn thành quả nghệ thuật mà mình tạo ra nhờ cái
giây phút "trời cho" ấy.
Trước Nguyễn Minh Châu, nhà văn Nam Cao từng quan niệm "Nghệ
thuật không phải là ánh trăng lừa dối, không cần là ánh trăng lừa dối... Nghệ
thuật chỉ có thể là tiếng kêu đau khổ thoát ra từ những kiếp lầm than"(Trăng
sáng). Là người đi sau, Nguyễn Minh Châu không lặp lại quan niệm đó, vì
hình ảnh "chiếc thuyền ngoài xa" mang vẻ đẹp nghệ thuật thực sự chứ không
hề là "ánh trăng lừa dối". Điều mà nhà văn muốn người đọc lưu tâm là cần
phải có cái nhìn đa chiều, phổ quát mới có thể cảm nhận hết cái gai góc,
phức tạp của cuộc đời này, bởi như ông đã nói "con người thì đa đoan, cuộc
đời thì đa sự".
b. Tình huống
+ Tình huống 1: Người nghệ sĩ choáng ngợp trước vẻ đẹp tuyệt đỉnh
của thiên nhiên.(III/ kết cấu tác phẩm/ đoạn 1/ cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại
cảnh)
+ Tình huống 2: Người nghệ sĩ kinh ngạc khi chứng kiến cảnh người
đàn ông đánh vợ dã man trên bờ biển(III/kết cáu tác phẩm/đoạn 1/hiện thực
đằng sau bức ảnh)
+ Tình huống 3: người phụ nữa cam chịu bị đánh, không kêu rên,
không thốt lên một lời(III/ kết cấu tác phẩm/ hiện thực đằng sau bức ảnh)
+ Tình huống 4: Phùng ngạc nhiên trước cảnh người đàn bà nhất
quyết không chịu bỏ chồng -> người nghệ sĩ nhiếp ảnh đã thay đổi quan
điểm về đối tượng nghệ thuật(III/kết cấu tác phẩm/ đoạn2, đoạn3)
Sức hấp dẫn của truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa trước hết là ở tình
huống truyện-một tình huống bất ngờ và đầy nghịch lí, một tình huống nhận
thức. Tác phẩm bắt đầu bằng cái vẻ ngoài bình dị của một câu chuyênh bình
thường với những chi tiết bình thường của dòng đời sống. Phùng- một phóng
viên nhiếp ảnh tìm về một vùng biển miền trung để tìm cảnh cho một tấm
ảnh lịch trong chuyên đề về biển. Anh đã tìm kiếm, đã bấm máy và có lúc đã

ngập tràn hạnh phúc như mình vừa chứng kiến, vừa đối diện với vẻ đẹp tòan
diện, tòan bích. Tất cả những gì anh chứng kiến thật đẹp, thật đáng yêu,
đáng ca ngợ. Đó là một cuộc sống lao động đầm ấm khỏe khoắn, những con
người gặp gỡ thật đáng yêu…Nhưng ngay sau sự phát hiện về cái đẹp, cái
lãng mạn của đời sống là sự phát hiện thứ hai đầy trớ trêu đến tàn nhẫn, một
hiện thực đến trần trụi khắc nghiệt. Hình ảnh người đàn bà khốn khổ với cặp
mắt mệt mỏi vì thiếu ngủ, bànn chân nhợt trắng phải nhẫn nhục chịu dựng
cơn thịnh nộ vô cớ của chồng, và hình ảnh lão đàn ông đọc ác vũ phu đang
trút lên người vợ mình những đòn roi dã man. Không còn đâu những hình
ảnh đẹp mà anh đã từng chứng kiến – những vẻ đẹp toàn bích, toàn mĩ. Thay
vào đó, tất cả nhứng gì chứng kiến đã gây một chấn động tinh thần lớn lao
đối với người nghệ sĩ. Lần đối chứng ấy đã buộc anh phải có sự điều chỉnh
lại cách nhìn cuộc đời và con người. Sự thật ở đời không phải là dòng chảy
xuôi chiều của ý nghĩ chủ quan, những mảnh đời bất hạnh đanhg bủa vay
cuộc sống chúng ta.
c. Hình ảnh, chi tiết biểu trưng
Hình ảnh biểu trưng là một phương diện cách tân nghệ thuật độc đáo
trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, đặc biệt ở thể loại truyện ngắn.
Chính những biểu tượng có sức hàm nghĩa lớn đã đưa đến chiều sâu mới cho
hành trình khám phá nội tâm con người, khám phát hiện thực cuộc sống tác
phẩm: “ Những biểu tượng ấy mở rộng khả năng bao quát hiện thực của ông,
giúp ông lí giải được nhiều điều “vô thường” nơi cõi nhân gian đầy tục lụy,
làm sáng tỏ những khoảnh khắc “bừng ngộ” của nhận thức àm lí trí tỉnh táo
không lí giải được”(Dương Thị Thanh Hiên).
- Hình ảnh “ chiếc thuyền ngoài xa”: vẻ đẹp toàn bích của thiên nhiên.
- Trước hết là cảnh người đàn ông đánh vợ một cách thô bạo và man
rợ đằng sau chiếc xe tăng hỏng. Trên mảnh đất đàm phá đầy tinh thần cách
mạng ấy, chiến tranh đã đi qua từ lâu. Những chiếc xe tăng, chứng tích của
một thời bom đạn ác liệt giờ trở thành phế tích đang dần mục sét qua năm
tháng và chất muối ămnj của vùng biển. Những chiếc xe rà phá bom mìn

đang cố gắng thu dọn những gì còn sót lại của chiến tranh có thể gây thêm
nỗi đau. Thế nhưng bên cạnh cuộc chiến đấu ấy, bên cạnh nỗi đau ấy là một
cuộc chiến đấu mới, một nỗi đau mới. Cuộc chiến đấu ấy còn cam go hơn,
nỗi đau ấy e chừng dai dẳng hơn. Đó là cuộc chiến đấu với nghèo đói và tăm
tối. Trên thuyền phải có người đàn ông dù có man rợ và tàn bạo đến đâu đi
nữa. Sự khẳng định như chân lí của người đàn abf làm vị chánh án chỉ biết
“trút một tiếng thở dài đầy chua chát”. Đẩu từng là người línhbams trụ và
chiến đấu thắng lợi trên vùng biển này. Anh hiểu cặn hẽ từng chiếc xe tăng
hỏng kia, anh cũng am hiểu cặn kẽ từng chiếc xe tăng điều khoản của pháp
luật nhưng anh không thể hiểu nổi cái cơ sự về người đàn ông đánh vợ, anh
không thể lí giải nổi cái chân lí bình dị mà người đàn bà đã thổ lộ. Anh đi từ
ngạc nhiên, sững sờ đến chua chát và cuối truyện là sự nhận thức bi đát của
những cảnh đời khốn khổ. Chiến tranh có quy luật của chiến tranh, dữ dội
nhưng đơn giản, đời thường thì muôn vàn đa sự, đa đoan. Qua hình ảnh biểu
tượng đày hàm nghĩa: những chiếc xe tăng cũ nát của chiến tranh và những
xung đột đau đớn của đời thường, nguyễn Minh Châu muốn thủ thỉ với
chúng ta về cái Đẹp và cái Thật, vè những cay đắng, cam go còn giày vò bao
cuộc đời cơ cực. Ông cũng khắc khoải nói với chúng ta rằng: hãy cúi xuống
nếm lấy vị ămnj của muối, cúi xuống để hiểu đời sốn, hiểu con người, để có
cái nhìn cận nhân tâm hơn.
- Hình ảnh:” ...lúc nào cũng nhìn vào tấm lưng áo bạc phếch và rách
rưới, nửa thân dưới ướt sũng của người đàn bà”, hình ảnh người đàn ông vừa
đánh vừa rên rỉ: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông
nhờ”, hình ảnh “lão như một con gấu đang đi tìm nguồn nước uống, hai bàn
chân chữ bát để lại những vết chân to và sâu trên bãi cát hoang vắng”: Sự
bất lực, bế tắc của người đàn ông trước tình cảnh khốn khó của gia đình.
- Hình ảnh người nghệ sĩ nhiếp ảnh và bức ảnh nghệ thuật về chiếc
thuyền ngoài xa: Bức tranh nghệ thuật và cuộ đời quả có sự lệch pha nhau.
Bức ảnh nghệ thuật gợi lên bao thức nhận đau đớn. Ở đó không chỉ có
những giọt sương mai thưo mộng như trong tranh thủy mặc mà là những giọt

muối mặn đầy xót xa của cuộ sống trần trụi đời thường. Nghệ thuật chính là
cuộ sống, người nghệ sĩ phải có góc nhìn và cự li khám phá cuộc sống gần
gũi hơn, có như vậy anh mới pahrn ánh đúng, mới thấu hiểu hết muôn sự đa
đoan của cõi đời, khốn khổ đấy, đau đớn đấy nhưng vô cùng đẹp đẽ.
IV. MỞ RỘNG
1.Giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực:
a.Giá trị hiện thực:
b. Giá trị nhân đạo:
- Nhà văn thật sự cảm thông, đau xót trước tình trạng bạo lực trong
gia đình hàng chài, trước bi kịch gia đình khủng khiếp, trước thân phận của
người phụ nữ miền biển; bày tỏ tình yêu thương đối với những con người
nhỏ bé, bất hạnh, lam lũ, nhọc nhằn
- Đề cập đến tình trạng bạo lực trong gia đìn, Nguyễn Minh Châu đã
làm dấy lên trong lòng người đọc nỗi xót thương pha lẫn lo âu về tình trạng
phụ nữ và trẻ em bị ngược đãi, về nguy cơ trẻ em sẽ sơm nhiễm thói vũ phu,
thô bạo do bị tổn thương tâm hồn, đánh mất niềm tin vào cuộc sống.
- Nhà văn không chỉ lên án bạo lự, kẻ vũ phu mà còn tỏ ra thấu hiểu,
cảm thông cho gánh ănngj mưu sinh và sự chịu đựng của người phụ nữ.
- Nhà văn phát hiện, khẳng định vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài,
người phụ nữ Việt Nam: Chăm chỉ, nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và
đức hi sinh.
- Tác giả trăn trở và chỉ ra nguy cơ đáng sợ nếu không giải phóng con
người khỏi đói nghèo, tăm tối thì không thể tiêu diệt được cái xấu, cái ác.
2. Quan niệm nghệ thuật
- Tấm ảnh trên tờ lịch chỉ là bức ảnh nghệ thuật chứ không phải là bức
tranh đời sống. Bằng biểu tượng chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu
đã thể hiện thành công một quan niệm đã trưor thành chân: Nghệ thuật phải
bắt nguồn từ mạch ngầm đời sống, văn chương nghệ thuật phải phản ánh
chân thực hiện thực(đây không chỉ là hiện thực bên ngoài mà là hiện thực đa
chiều của cuộc sống, kể cả mảng hiện thực trừu tượng là hiện thực tâm hồn.

Văn học nghệ thuật phải quan tâm đến vấn đề cốt lõi: số phận con người, cái
đẹp không tách rời với chân thật.
- Chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, nhưng sự thật cuộc đời lại ở
rất gần. Và phải chăng qua tình huống phát hiện của nhân vật Phùng,
Nguyễn Minh Châu bày tỏ quan niệm: Đừng vì nghệ thuật mà quên cuộc đời
bởi lẽ nghệ thuật chân chính luôn là cuộc đời và vì cuộc đời. Trước khi là
một người nghệ sĩ rung động trước cái đẹp thì hãy là một người biết yêu,
ghét, vui, buồn trươc mọi lẽ đời thường, biết hành động để có một cuộc sống
xứng đáng với con người.
- Nguyễn Minh Châu là nhà văn trăn trở trên từng trang viết về chức
năng của văn học và thiên chức của người nghệ sĩ như ông đã từng tâm sự:
“Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản mà nhà văn cần
phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử
3. Nghệ thuật thể hiện:
- Tình huống truyện độc đáo.
- Giọng điệu trần thuật đa dạng:
+ Khách quan ngạc nhiên khi tả cảnh đời, cảnh biển.
+ Lo âu khi tái hiện lời thoại của người đàn bà
+ Xót thương, căm phẫn khi chứng kiến cảnh người đàn ông ngược
đãi vợ con.
+ Day dứt khắc khoải khi thấy người đàn bà chưa tìm được lối thoát...
- Nghệ thuật khắc họa nhân vật (Phùng, người phụ nữ hàng chài,
Phác, Đẩu .)
- Lựa chọn các chi tiết đặc sắc (bãi xe tăng cũ, vái lạy thằng Phác &
Đẩu, chiếc thuyền xuất hiện.)
- Lời văn giản dị, giọng văn nhỏ nhẹ mà thấm thía ý nghĩa triết lí tự
nó toát ra từ đời sống, từ trải nghiệm.
V. KẾT LUẬN
1. Nội dung:
Thông qua tác phẩm, Nguyễn Minh Châu không chỉ xót xa thương

cảm người phụ nữ bất hạnh mà còn lên án sự tàn nhẫn, thô bạo của người
chồng trong gia đình. Đồng thời báo động tình trạng bạo lực trong gia đình
đang làm khô héo, rạn vỡ tâm hồn con người. Ca ngợi tình mẫu tử, trân
trọng khát vọng được sống trong yêu thương, yên bình của trẻ em.
=> Giá trị nhân đạo sâu sắc
2. Nghệ thuật
- Tình huống truyện độc đáo.
Chiếc thuyền là biểu tượng của bức tranh thiên nhiên đẹp và cuộc
sống sinh hoạt của người dân làng chài.
Chiếc thuyền ngoài xa là một hình ảnh gợi cảm, có sức ám ảnh về sự
bấp bênh, dập dềnh của những thân phận, những cuộc đời trôi nổi trên sông
nước.
Chiếc thuyền ngoài xa biểu tượng cho mối quan hệ giữa nghệ thuật và
đời sống.
VI. ĐỀ TÀI
VII. TƯ LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×