Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Quan điểm toàn diện của triết học Mác - Lênin với việc phân tích quá trình xây dựng kinh tế thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.82 KB, 15 trang )

Phần I : Đặt vấn đề
Dới ngọn cờ lÃnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh và
Bác Hồ vĩ đại, nhân dân ta đà từng đánh bại 2 đế quốc hùng mạnh nhất thế giới: đế
quốc Pháp và đế quốc Mĩ. Ngày nay trong công cuộc xây dựng kinh tế đất nớc,
Đảng lại lÃnh đạo nhân dân đi hết từ thành công này đến thành công khác, mang
lại sự đổi thay từng ngày từng giờ cho nỊn kinh tÕ ViƯt Nam, cịng nh mang ®Õn
søc sèng mới cho nhân dân cả nớc. Tuy rằng trớc đây chúng ta đà duy trì kinh tế
bao cấp, việc đó làm trì trệ nền kinh tế, thế nhng Đảng ta đà nhanh chóng nắm bắt
tình thế và đà vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào tình hình mới, thời đại
mới, Đảng ta đà chủ trơng chuyển từ kinh tÕ bao cÊp sang kinh tÕ thÞ trêng cã sự
quản lý của Nhà nớc vào năm 1986. Công cuộc xây dựng kinh tế thị trờng đà đa nớc ta thoát khỏi khủng hoảng trầm trọng sang phát triển nhanh chãng. HiƯn nay
ViƯt Nam chóng ta lµ mét níc cã tốc độ phát triển kinh tế nhanh, năng động bậc
nhất trên thế giới, đợc bạn bè thế giới đánh giá cao và ghi nhận.
Dựa trên cơ sở quan điểm toàn diện của triết học Mác - Lênin để nhìn nhận
những thành tựu đà đạt đợc sau 15 năm đổi mới, có thể khẳng định đờng lối lÃnh
đạo của Đảng và Nhà nớc là hoàn toàn đúng đắn, hợp với ý nguyện của nhân dân.
Tuy nhiên trong quá trình xây dựng kinh tế thị trờng đà làm nảy sinh nhiều vấn đề
khiến chúng ta phải băn khoăn suy nghĩ, nhiều vấn ®Ị vỊ lÝ ln vµ thùc tiƠn cịng
nh nhiỊu quan điểm cần đợc làm sáng tỏ.
Ngay từ khi mới xây dựng kinh tế thị trờng đà có không ít ý kiến cho rằng
kinh tế thị trờng là mô hình kinh tế của t bản, chúng ta xây dựng kinh tế thị trờng
là từ bỏ xà hội chủ nghĩa là quá ®é sang t b¶n chđ nghÜa, cịng cã ngêi cho rằng đÃ
xây dựng kinh tế thị trờng (KTTT) thì không thể định hớng xà hội chủ nghĩa đợc
và còn rất nhiều ý kiến trái ngợc nhau đứng trên quan điểm toàn diện mà xét thì
chúng đều có rất nhiều hạn chế, không ít những quan điểm sai lạc, xuyên tạc, trái
với chủ trơng, đờng lối của Đảng.
1


Nhng những ý kiến phản hồi từ nhân dân cũng có nhiều ý kiến đúng đắn mà
chúng ta cần tiếp thu nh hiện nay trong nội bộ Đảng có nhiều bè phái, chia rẽ nên


dẫn tới nhiều hạn chế trong việc đa ra những t tởng chính sách đúng đắn. Hơn nữa
tình trạng một bộ phận Đảng viên bị tha hoá, biến chất là vấn đề đáng lo ngại và
cần lên tiếng báo động mà Đảng ta đà thừa nhận trong báo cáo chính trị của Ban
chấp hành Trung ơng Đảng khoá VIII, cũng nh trong Đại hội Đảng lần thứ IX vừa
mới kết thúc cách đây gần tháng. Hơn nữa những hạn chế lớn về hệ thống hành
chính, vấn đề tiền lơng cần phải có những chính sách mới phù hợp để tiến hành cải
cách triệt để và những mâu thuẫn lớn trong xà hội cần đợc giải quyết. Có nh vậy
thì mới có thể biến Việt Nam thành con rồng của Châu á, đa Việt Nam sánh
ngang cùng các cờng quốc năm châu nh Bác Hồ từng mong mỏi. Và hơn nữa còn
để xây dựng Việt Nam là một nớc "công bằng dân chủ văn minh" nh Đại hội IX
của Đảng đà xác định.
Do đó mà em đà chọn đề tài: "Quan điểm toàn diện của triết học Mác Lênin với việc phân tích quá trình xây dựng kinh tế thị trờng". Đây là một đề tài
mang ý nghĩa to lớn trong việc xây dựng kinh tế thị trêng. HiƯn nay chóng ta ë
trong thÕ kØ 21 thÕ kỷ với nhiều thời cơ và thách thức, nhiều nguy cơ lớn đang chờ
ở phía trớc. Chúng ta cần phải dựa vào quan điểm toàn diện của triết học Mác Lênin để tìm ra những biện pháp thích ứng, tự tìm ra con đờng cho mình do đó nó
còn có ý nghĩa phơng pháp luận to lớn. Đây là lần đầu tiên em viết một đề tài quan
trọng hơn nữa lại tham gia bàn luận những vấn đề to lớn của đất nớc. Trong khuôn
khổ hạn hẹp, em không thể trình bày kỹ càng mà chỉ đi sâu vào một số vấn đề
quan trọng nên khó tránh khỏi khiếm khuyết, phiến diện khi đánh giá, nhìn nhận
vấn đề. Em chân thành mong đợc thầy giáo bổ xung, phê bình để em đợc mở rộng
tầm nhìn thấy đợc khiếm khuyết của mình. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo
đà tận tình cung cấp phần lớn kiến thức và phơng pháp ®Ĩ em hoµn thµnh bµi TiĨu
ln nµy.

2


Phần II: Giải quyết vấn đề
1.


Cơ sở lí luận của việc xây dựng kinh tế thị trờng

a.

Quan điểm toàn diện và cơ sở khách quan của quan điểm toàn diện
Một là: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Ngay từ khi mới ra đời, triết học Mác - Lênin đà khẳng định đợc vai trò định

hớng, phơng pháp luận cho mäi khoa häc, lµ kim chØ nam cho mäi hµnh động của
con ngời trong cuộc sống đầy biến động và phức tạp này, giúp con ngời nhận thức
đúng hơn về thế giới. Mỗi một quan điểm của nó là một cách nhìn nhận về cuộc
sống, đặc biệt là quan điểm toàn diện trong triết học Mác - Lênin với nội dung:
"Các sự vật và hiện tợng muôn hình muôn vẻ trong thế giới, không cái nào tồn
tại một cách cô lËp, biƯt lËp mµ chóng lµ mét thĨ thèng nhÊt, trong đó các sự vật
hiện tợng tồn tại bằng cách tác động nhau, ràng buộc nhau quy định và chuyển
hoá lẫn nhau. Mối liên hệ này chẳng những diễn ra ở mọi sự vật hiện tợng trong
tự nhiên, trong xà hội, trong t duy mà còn diễn ra đối với các mặt, các yếu tố,
các quá trình của mỗi sự vật và hiện tợng" [Chủ biên: PGS. Vũ Ngọc Pha - Giáo
trình "Triết học Mác - Lênin" - NXB Giáo dục, 1997, trang 130]. Mối liên hệ phổ
biến là khách quan, là cái vốn có của các sự vật hiện tợng, nó bắt nguồn từ tính
thống nhất của vật chế của thế giới biểu hiện trong các quá trình tự nhiên, xà hội
và t duy.
Hai là: Vì sao cần phải thực hiện quan điểm toàn diện của triết học Mác - Lênin.
Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến đòi hỏi chúng ta phải có quan điểm toàn
diện khi nghiên cứu sự vật hiện tợng, bởi vì trong đánh giá nhìn nhận một vấn đề
chúng ta thờng nhìn nhận phiến diện, một chiều bỏ qua nhiều yếu tố tác động do
đó khi giải quyết các công việc trong cuộc sống chóng ta thêng thÊt b¹i do nhiỊu

3



tình huống bất ngờ, không lờng trớc. Mà thực ra nếu vận dụng đúng quan điểm
toàn diện thì mọi công việc có thể trở nên suôn sẻ, đơn giản: "Nguyên lí mối liên
hệ phổ biến đòi hỏi chúng ta phải có quan điểm toàn diện khi nghiên cứu sự vật,
hiện tợng, tức là xem xét sự vật hiện tợng phải đặt nó trong mối quan hệ với sự
vật, hiện tợng khác, xem xét tất cả các mặt, các yếu tố, kể cả các khâu trung
gian, thấy đợc vị trí của tõng mèi liªn hƯ trong tỉng thĨ cđa nã, cã nh vậy mới
nắm đợc bản chất của sự vật" [Chủ biên: PGS. Vũ Ngọc Pha - NXB Chính trị
Quốc gia, 1997, trang 44]. Tức là khi giải quyết một vấn đề trong cuộc sống chúng
ta phải đặt vấn đề ấy trong một môi trờng không gian thời gian xác định, xem xét
các mối liên hệ tác động vào nó, xác định vị trí và vai trò của mỗi mặt trong tổng
thể những nhân tố tác động vào sự vật hiện tợng xem đầu là nhân tố chính, cơ bản,
đâu là nhân tố phụ, đâu là nhân tố chủ quan, khách quan, đâu là nhân tố trực tiếp,
đâu là nhân tố gián tiếp. Có nh thế chúng ta mới có những giải pháp tốt nhất để
giải quyết vấn đề.
b.

Khái niệm, sự ra đời KTTT và đặc điểm phát triển KTTT
Lịch sử nhân loại đà chứng kiến nhiều mô hình kinh tế khác nhau, mỗi mô

hình là sản phẩm của một trình ®é nhËn thøc nhÊt ®Þnh trong ®iỊu kiƯn lÞch sư cụ
thể. KTTT đang là mô hình tối u trong giai đoạn hiện nay mà lịch sử thời gian qua
đà chứng minh. Vậy KTTT là gì? Kinh tế thị trờng đợc hiĨu lµ mét kiĨu kinh tÕ x· héi mµ trong đó sản xuất xà hội gắn chặt chẽ với thị trờng, tức là gắn chặt với
quan hệ hàng hoá tiền tệ, quan hệ cung cầu, tức là chịu sự điều tiết của thị trờng,
do sự tác động của các quy lt kinh tÕ vèn cã cđa nã, tõ thÞ trêng mà ta phải giải
bài toán hóc búa: sản xuất cái gì, sản xuất nh thế nào và sản xuất cho ai?.
KTTT đà ra đời ngay khi chủ nghĩa t bản ra đời, cho đến nay KTTT đà phát
triển trên khắp các nớc trên thế giới và phơng thức tối u để phát triển kinh tế
"Kinh tế thị trờng đà trải qua 3 giai đoạn phát triển; giai đoạn 1 là giai đoạn
chuyển từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang KTTT; giai đoạn 2 là giai đoạn KTTT

tự do; và giai đoạn 3 là giai đoạn KTTT hiện đại. Đặc trng của giai đoạn này là
Nhà nớc can thiệp vào kinh tế thị trờng và mở rộng giao lu với níc ngoµi". [Tg:
4


Dơng Bác Phơng - Nguyễn Minh Khải - Tạp chí Cộng sản - số 18 (9/1998)]. Nhng
Nhà nớc chỉ can thiệp ở tầm vĩ mô, tức là góp phần làm cho nền kinh tế phát triển
ổn định, nhanh chóng và có hiệu quả. Kinh tế thị trờng có sự điều tiết của Nhà nớc
đang tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế.
c.

Vận dụng quan điểm toàn diện vào hoạt động kinh tế.
Trong hoạt động kinh tế, vấn đề cơ bản là phải làm thế nào để tiết kiệm công

nhân tối đa, sử dụng nguồn nhân lực có hiệu quả cao, tiết kiệm chi phí và tổ chức
sản xuất tốt nhất cùng với phân phối hàng hoá nhanh chóng (chu kì luân chuyển
vốn ngắn) để thu hồi đợc vốn nhanh nhất, đạt hiệu quả cao nhất trong sản xuất
kinh doanh. Đó là những vấn đề nóng bỏng đối với các doanh nghiệp hiện nay. Do
đó chúng ta phải có một cái nhìn tổng thể, toàn diện để tìm ra giải pháp tốt nhất.
Chúng ta phải thấy đợc trong nền kinh tế, không có một sự kiện nào tồn tại trong
trạng thái cô lập, tách rời những sự kiện khác, nên ta phải nắm bắt đợc quy luật
cung - cầu, quy luật giá cả của thị trờng, chủng loại hàng hoá để xác định mặt
hàng cần sản xuất để tiêu thụ nhanh chóng, đem lại hiệu quả cao. Chúng ta phải
thấy đợc mối liên hệ giữa thị trờng hàng hoá, thị trờng vốn, thị trờng lao động,
chúng có sự chế ớc lẫn nhau, tác động qua lại lẫn nhau và có thể gây ra các biến
động lan truyền. Ví nh khi thị trờng lao động giảm thì thị trờng hàng hoá cũng
giảm theo dẫn đến thị trờng vốn cũng giảm xuống. Hơn nữa bản thân nền kinh tế
có mối quan hệ chặt chẽ với chính trị, ngoại giao, pháp quyền, khoa học,... khi có
biến động của chính trị hoặc các nhân tố khác thì giá cả của thị trờng cũng biến
động theo gây ra những tác động mạnh đối với nền kinh tế. Do đó khi nghiên cứu

một sự kiện kinh tế chúng ta phải xét trên quan điểm toàn diện. Khi tính toán đến
càng nhiều mối liên hệ càng tránh đợc rủi ro, thất bại. Chính các nhà t bản phơng
Tây là những ngời biết áp dụng tài tình quan điểm này vào hoạt động kinh tế, đÃ
đem lại cho họ nguồn lợi vô cùng lớn, trong đó không ít trong số họ là những ngời
giàu nhất thế giới, góp phần đa kinh tế nớc họ phát triển vợt bậc. Đến đây chúng ta
có thể khẳng định quan điểm toàn diện của triết học Mác - Lênin có ý nghÜa to lín

5


với lĩnh vực hoạt động kinh tế, đặc biệt là vai trò đó đợc phát huy tích cực trong
nền KTTT. Đó là điều kiện quan trọng bậc nhất cho sự thành công.
2.

Xây dựng kinh tế thị trờng.

a.

Thực trạng kinh tế Việt Nam trớc Đại hội VI của Đảng và yêu cầu đổi mới
Để thấu hiểu triệt để theo nguyên tắc toàn diện, chúng ta cần tìm hiểu xuất

phát điểm kinh tế nớc ta khi bắt đầu đổi mới. Chúng ta đi lên chủ nghĩa xà hội bỏ
qua giai đoạn t bản chủ nghĩa, nền kinh tế trớc đó là kinh tế nông nghiệp vô cùng
lạc hậu. Hơn nữa lại chịu sự tàn phá nặng nề của chiến tranh, chúng ta thiếu một
cái "cốt vật chất" để tiến hành xây dựng x· héi míi x· héi chđ nghÜa. Cã thĨ nãi
nỊn kinh tế Việt Nam từ trớc năm 1975 cho đến năm 1985 đà trải qua nhiều thăng
trầm và xáo trộn dữ dội đất nớc từng bị chia cắt, kinh tế bị tàn phá nặng nề trong
chiến tranh. Hậu quả là sau những năm giải phóng, bức tranh chung của kinh tế
Việt Nam 10 năm trớc đổi mới là tăng trởng thấp dới 3,7% và chủ yếu là khắc
phục hậu quả sau chiến tranh. Thực tế chúng ta làm không đủ ăn, nợ nớc ngoài lên

tới 8,5 tỉ Rúp và 1,9 tỉ USD, đặc biệt là những sai lầm trong cải cách giá cả, tiền lơng cùng đợt đổi tiền cuối năm 1985 đà đẩy nền kinh tế rơi vào khủng hoảng
nghiêm trọng, siêu lạm phát 774,7% kéo theo giá cả leo thang, vô phơng kiểm
soát. Trong khi đó thì tình hình các nớc trong hệ thống xà hội chủ nghĩa cũng
đang lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Năm 1986, Liên Xô cũng đà tiến
hành cải cách. Lúc này Tổng bí th Nguyễn Văn Linh phải lên tiếng "Đổi mới hay
là chết", Đảng ta đà nhận thức đợc vấn đề, chúng ta không thể chậm trễ hơn đợc
nữa. Việc cải cách toàn bộ nền kinh tế đà tiến hành từ sau Đại hội VI của Đảng
(12/1986) đà từng bớc đa nền kinh tế Việt Nam vợt qua khủng hoảng và phát triển.
b.

Công cuộc xây dựng KTTT và những chủ trơng giải pháp của Đảng và
Nhà nớc.
Đại hội lần VI của Đảng Cộng sản Việt Nam là cột mốc đánh dấu sự đổi mới

mạnh mẽ trong nền kinh tế Việt Nam, công cuộc cải cách diễn ra nhanh chóng đÃ
làm thay đổi bộ mặt kinh tế Việt Nam. Đảng ta xác định đổi mới cơ chế kinh tế là

6


một tất yếu khách quan, hoàn toàn đúng đắn, việc "xây dựng kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trờng đi đôi với tăng cờng vai trò
quản lý của Nhà nớc theo định hớng xà hội chủ nghĩa" [Văn kiện Đại hội VII].
Đảng ta coi kinh tế thị trờng chỉ là phơng thức phát triển kinh tế để thực hiện mục
đích xây dựng xà hội chủ nghĩa vì dân giàu nớc mạnh, một xà hội của dân do dân
và vì dân.
Vì sao Đảng và Nhà nớc ta lại chủ trơng chuyển kinh tế nớc ta sang nền
KTTT theo định hớng xà hội chủ nghĩa nhng phải có sự quản lý của Nhà nớc.
Chúng ta đà biết rằng "cơ chế thị trờng không phải là hiện thân của sự hoàn hảo,
mà nó vốn có những khuyết tật đặc biệt về mặt xà hội" [Chủ biên: PTS. Trần Sĩ

Lộc - Giáo trình Kinh tế chính trị - NXB Giáo dục, 1998, trang 151]. Với mục
đích hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa. Vì vậy không
chăm lo đến đời sống ngời lao động, gây ô nhiễm môi trờng sống mà xà hội phải
gánh chịu, do đó hiệu quả kinh tế xà hội không đợc bảo đảm. Sự tác động của cơ
chế thị trờng đa đến sự phân hoá giàu nghèo trong xà hội, tác động đến đạo đức,
tình cảm con ngời. Hơn nữa sự phát triển của KTTT dễ dẫn đến sự chệch hớng xÃ
hội chủ nghĩa, trái ngợc hoàn toàn với mục đích xây dựng chủ nghĩa xà hội với ớc
muốn ngàn đời của nhân dân ta là đợc giải phóng mình, đợc sống trong một xà hội
xà hội chủ nghĩa, x· héi cđa tù do d©n chđ: "mét nỊn kinh tế do cơ chế thị trờng
điều tiết khó tránh khỏi những thăng trầm, khủng hoảng có tính chu kỳ" [Chủ
biên: PTS. Trần Sĩ Lộc - Giáo trình "Kinh tế chính trị" - NXB Giáo dục, 1998,
trang 152]. Cùng với nó là nạn thất nghiệp, lạm phát nghiêm trọng đẩy các doanh
nghiệp đến chỗ phá sản, ngời lao động cơ cực. Trớc đây, dới sự điều tiết của "Bàn
tay vô hình" (Cơ chế thị trờng tự do - do A.Smith đề xớng) chủ nghĩa t bản đà trải
qua nhiều cuộc khủng hoảng trầm trọng, đặc biệt là cuộc khủng hoảng năm 19291933 đẩy lùi sự phát triển của các nớc này xuống 30-40 năm. Và sau đó chủ nghĩa
t bản đà phải phát triển KTTT có sự quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nớc theo lí
thuyết "Bàn tay hữu hình" của Samealson. Do đó trong thời kì hiện nay, chúng ta
xây dựng KTTT không thể thiếu sự điều tiết của Nhà nớc đồng thời phải thực hiện

7


theo định hớng xà hội chủ nghĩa để biến quá trình phát triển kinh tế thị trờng là
"quá trình thực hiện dân giàu nớc mạnh, tiến lên hiện đại, trong xà hội nhân dân
làm chủ, nhân ái, có văn hoá, có kỉ cơng, xoá bỏ áp bức bất công, tạo ®iỊu kiƯn
cho mäi ngêi cã cc sèng Êm no, tù do, hạnh phúc" [Văn kiện Đại hội VIII:
Chiến lợc ổn định và phát triển kinh tế - xà hội đến năm 2000 - NXB Sự thật, Hà
Nội 1996 - trang 8].
Quá trình thực hiện xây dựng KTTT của Việt Nam trong giai đoạn (19861999), đây là thời kì chúng ta đa ra quyết định quan trọng: xây dựng kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần. Chúng ta đà có những chính sách; quyết định đúng đắn đa

nền kinh tế đi lên khắc phục hậu quả do những quyết định sai lầm cũ để lại. Nhng
phải thực sự đến giai đoạn sau từ 1991 đến nay, giai đoạn này chúng ta thực sự bớc
sang KTTT và mở cửa. Đây là thời kỳ chúng ta chứng kiến nhiều thành công kì
diệu, chứng kiến sự lÃnh đạo tài tình của Đảng: chúng ta đà có những bớc đi phù
hợp: tự do hoá giá cả, với các công cụ tài chính, tiền tê chúng ta đà đẩy lùi và kiểm
soát đợc lạm phát từ khoảng 400% vào năm 1988 xuống 5,3% vào năm 1993. Giai
đoạn này tốc độ phát triển kinh tế của Việt Nam thuộc vào loại năng động bậc
nhất trên thế giới, trung bình cả giai đoạn là 7,5% trong khi giai đoạn (1986-1990)
chỉ là 3,9%. Thực hiện chiến lợc ổn định và phát triển kinh tế - xà hội (1991-2000)
đà đạt đợc thành tựu to lớn và rất quan trọng: "Tổng sản phẩm trong nớc năm
2000 tăng hơn gấp đôi so với năm 1990" [Báo cáo chính trị tại Đại hội IX của
Đảng Cộng sản Việt Nam, 4-2000], chúng ta đà xó bỏ đợc cơ chế bao cấp sang
xây dựng đợc kinh tế thị trờng theo định hớng xà hội chủ nghĩa, từ chỗ chỉ có hai
thành phần kinh tế là kinh tÕ Nhµ níc vµ kinh tÕ tËp thĨ sang nỊn kinh tế nhiều
thành phần. Đời sống nhân dân đợc cải thiện đáng kể, đất nớc ra khỏi khủng
hoảng, sức mạnh về mọi mặt của nớc ta đà lớn hơn nhiều so với 10 năm trớc. Nhng không vì mải mê với thắng lợi mà chúng ta không nhìn nhận thấy những yếu
kém, những hạn chế của mình, mà nếu không sữa chữa kịp thời sẽ dẫn đến những
hậu quả khôn lờng. Do đó chúng ta cần nhìn nhận lại toàn bộ vấn đề một cách
khách quan, toàn diện.

8


c.

Nhìn nhận công cuộc cải cách và mở cửa trên quan điểm toàn diện và
những biện pháp cần đề ra.
Một là: Chúng ta phải xây dựng cho mình hệ thống lí luận sắc bén.
Trong thời kì hiện nay, Việt Nam chúng ta là mũi nhọn chống phá của nhiều


thế lực thù địch trong và ngoài nớc, chúng tìm đủ mọi cách, mọi thủ đoạn để phá
hoại xà hội chủ nghĩa của chúng ta. Chúng ra sức tuyên truyền xuyên tạc về chủ
nghĩa xà hội. Hơn nữa ngày nay xà hội ta cũng có không ít kẻ thiếu lập trờng, bị
lung lạc trớc luận điệu lừa bịp, xuyên tạc của kẻ thù, mất lòng tin vào chủ nghĩa xÃ
hội, vào Đảng và Nhà nớc, cũng có không ít kẻ thiếu hiểu biết mà suy nghĩ lệch
lạc đờng lối của Đảng. Do đó mà ngay sau khi Đảng công bố chủ trơng xây dựng
KTTT theo định hớng xà hội chủ nghĩa, ở níc ta hiƯn nay cã rÊt nhiỊu ý kiÕn kh¸c
nhau, thậm chí có nhiều t tởng xuyên tạc, bóp méo sù thËt. "Cã ý kiÕn cho r»ng
KTTT vµ chđ nghÜa xà hội là nh nớc với lửa không thể dung nạp với nhau đợc,
do vậy chủ trơng xây dựng KTTT là từ bỏ lí tởng xà hội chủ nghĩa, cơ sở lí luận
cho loại ý kiến này là ở chỗ họ cho rằng Marx và Engels ngày xa dự đoán sẽ
không có thị trờng và tiền tệ trong chủ nghĩa xà hội" [TG: Phan Đình Quyền Tạp chí "Phát triển kinh tÕ", sè 88 (2/1998)] cịng cã lo¹i ý kiÕn khác cho rằng chỉ
cần nói xây dựng một nớc Việt Nam giàu mạnh, xà hội công bằng văn minh là đủ,
không cần nói "theo định hớng xà hội chủ nghĩa" vì dòng sông sẽ tự chảy ra biển
mà không việc gì phải uốn nắn, vì làm nh thế là trái quy luËt, l¹i cã lo¹i ý kiÕn cho
r»ng: sù lùa chọn KTTT theo định hớng xà hội chủ nghĩa ở níc ta chØ mang tÝnh
tÊt u chÝnh trÞ, chø cha mang tính tất yếu kinh tế và không thể định hớng cái cha
có. Còn các nớc đế quốc Mĩ yêu cầu chúng ta trong thời kỳ đổi mới thì phải bỏ
điểm 4 trong Hiến pháp, qui định quyền lÃnh đạo của Đảng ta là duy nhất, với lí
luận điều đó là điều không cần thiết và để tạo tự do. Đồng tình với việc này nhiều
kẻ có âm mu phản động trong nớc lên tiến đòi thực hiện đa nguyên, đa đảng, phá
bỏ thế độc tôn của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay. Hơn nữa lại có những ý
kiến nói rằng "trớc đây, chúng ta không nên tiến hành chiến tranh chỗng Mĩ, cứ
để Mĩ đô hộ Việt Nam, thì bây giờ miền Nam phát triển vợt bậc hơn b©y giê

9


nhiều, sau này chúng ta đòi lại nh Trung Quốc đòi Hồng Kông, Ma Cao của đế
quốc Anh và Bồ §µo Nha". LÝ ln cho viƯc nµy lµ vµo thêi kì Mĩ chiếm đóng

miền Nam, miền Nam chúng ta từng đợc mệnh danh là "Hòn ngọc của Viễn
Đông", nhân dân sung sớng, đỡ phải tiến hành chiến tranh, làm bao ngời ngÃ
xuống, bây giờ đổi lại thì không lợi .
Nhìn chung lại có thể nói các quan điểm trên có những dụng ý không tốt đẹp
gì, chỉ là t tởng của những kẻ thiếu hiểu biết, phản động, đánh mất lí tởng với t
cách là một chủ thuyết phát triển cđa mét d©n téc. Nhng cïng cã nhiỊu ý kiÕn tán
đồng chủ trơng chính sách của Đảng và Nhà nớc, đà góp phần luận giải làm sáng
tỏ những luận điểm mới mẻ. Tình hình hiện nay đa đến một yêu cầu: bổ xung và
hoàn thiện các luận điểm này, xây dựng nên một hệ thống lí luận sắc bén để đập
tan những t tởng bảo thủ, thiển cận và phản động.
Ngợc thời gian trở về với các nhà kinh điển của chủ nghĩa Marx - Lênin
chúng ta phải hiểu rằng trong thời kì của Mác, cha đủ các điều kiện về kinh tế xÃ
hội để Mác có thể dự đoán chính xác hoàn toàn đợc vấn đề. Marx và Engels đà dự
đoán là cách mạng vô sản nổ ra và giành thắng lợi trên phạm vi toàn thế giới, hoặc
ít ra là ở đại bộ phận các nớc t bản phát triển nhất, do đó tính chất xà hội hoá của
lực lợng sản xuất phát triển đến mức không còn sản xuất nhỏ, khi mà các nớc này
tiến lên chủ nghĩa xà hội thì sẽ không có thị trờng và tiền tệ. Nhng thực tế đÃ
không diễn ra nh vậy, cách mạng vô sản đà nổ ra ở những nớc t bản trung bình và
những nớc thuộc địa có nền sản xuất tiểu nông với nhiều hình thức sở hữu. Do đó
mà sau này sau những năm thử nghiệm không thành, mùa xuân năm 1921 Lênin
đà thay đổi quan điểm là xoá bỏ kinh tế cộng sản thời chiến, thay vào đó là chính
sách kinh tế mới (NEP). Trong đó có tồn tại thị trờng và tiền tệ. Tồn tại nhiều hình
thức sở hữu đa dạng. Đó là hớng đi đúng đắn mà Đảng ta đà tiếp thu và thực hiện
việc áp dụng nó vào KTTT của ta bởi KTTT không phải là một chế độ xà hội mà
chỉ là một biện pháp phát triển lực lợng sản xuất, là phơng thức xây dựng chủ
nghĩa xà hội. Những ý kiến cho rằng không cần "định hớng xà hội chủ nghĩa" là
hoàn toàn sai lầm, chúng ta phải hiểu xà hội chúng ta đang xây dựng là xà hội

10



"của dân do dân và vì dân", tất cả vì mục tiêu "dân giàu nớc mạnh xà hội dân chủ
công bằng văn minh" nh trong Đại hội IX xủa Đảng đà xác định. Định hớng xÃ
hội chủ nghĩa thể hiện ý chí ớc mơ, lí tởng cao cả của toàn Đảng, toàn dân nếu
không có định hớng xà hội chủ nghĩa thì việc phát triển KTTT rất dễ có thể chệch
hớng xà hội chủ nghĩa, trái với ớc nguyện ngàn đời của nhân dân. Vì thế không
thể hời hợt, mơ hồ cho rằng không cần phải định hớng xà hội chủ nghĩa, còn
những t tởng còn lại, không phải nói chúng ta cũng biết đó là t tởng xuyên tạc,
phản ®éng, chèng ®èi. Chóng mn t×m sù đng hé cđa dân chúng hòng bóp chết
Nhà nớc xà hội chủ nghĩa của ta, xây dựng lại "thiên đờng đà mất" của chúng trên
đất nớc Việt Nam, chúng muốn đa đất nớc ta đi theo t bản, đặt ách đô hộ của
chúng trên đất Việt Nam một lần nữa. Nhng đất nớc Việt Nam với 4.000 năm lịch
sự hào húng, với bao chiến công lẫy lừng, bao ngời đà ngà xuống để giành lại độc
lập tự do, lập nên Đảng Cộng sản Việt Nam ngời là đại diện cho giai cấp công
nhân, giai cấp tiên tiến nhất hiện nay, sẽ lÃnh đạo đất nớc ta, nhân dân ta đi trên
con đờng mơ ớc - con đờng đi lên chủ nghĩa xà hội.
Hai là: Sự thiếu đồng bộ trong cải cách và những nguy cơ lớn trong thời kỳ
hiện nay.
Công cuộc cải cách và mở cửa đà đem lại nguồn sinh khí mới cho đất nớc
chúng ta, mang lại sự đổi thay về mọi mặt trong đời sống nhân dân. Thế nhng hÃy
thử nhìn lại toàn bộ công cuộc cải cách của chúng ta và hÃy thử nhìn sang đất nớc
Trung Hoa, đất nớc láng giềng núi liền núi, sông liền sông với ta, hÃy thử nhìn lại
23 năm công cuộc cải cách của nớc bạn. Chúng ta sẽ thấy rằng công cuộc cải cách
của ta tuy đà thành công nhng còn nhiều hạn chế cần khắc phục. Đặc biệt là sự
thiếu đồng bộ và chỉ thực hiện trên chiều rộng mà không chú ý đến chiều sâu
trong cải cách. Chúng ta tiến hành cải cách không triệt để, tiến hành cải cách về
kinh tế không đi đôi với cải cách về thể chế chính trị vốn có nhiều khuyết tật. Và
không đồng thời với nó là cải cách về mặt văn hoá xà hội. Khi cuộc cải cách kinh
tế đợc triển khai toàn diện và ngày càng đi sâu nó sẽ đặt ra yêu cầu bức thiết phải
cải cách thể chế chính trị nh Đặng Tiểu Bình - Kiến trúc s trởng và Tổng công


11


trình s trởng của kinh tế Trung Quốc đà nêu ra: "Cải cách thể chế chính trị và cải
cách thể chế kinh tế phải dựa vào nhau, phối hợp với nhau, không cải cách thể
chế chính trị, cải cách thể chế kinh tế sẽ không thành công", có nh vậy mới thúc
đẩy kinh tế phát triển.
Đảng ta đà sáng suốt nhìn thấy vấn đề cấp bách hiện nay: "Đổi mới thể chế
chính trị để khai phóng nguồn lực", trong Đại hội IX của Đảng vừa qua có nêu ra:
"Đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng bộ máy Nhà nớc trong sạch vững
mạnh". Những ngày họp Quốc hội đang diễn ra, đang chủ trơng sửa đổi lại Hiến
pháp và Pháp luật cho phù hợp với tình hình mới, chủ trơng cải cách lại bộ máy
Chính phủ với mục tiêu: "Xây dựng hệ thống hành chính gọn nhẹ, hiệu quả cao,
vận hành nhịp nhàng". Do đó trong thời gian tới chúng ta sẽ tiến hành "tinh binh
giản chính" với qui mô lín. HiƯn nay níc ta cã sè lỵng ngêi hëng lơng Nhà nớc
quá cao, cứ 11 ngời thì có một ngời hởng lơng Nhà nớc, trong khi ở Trung Quốc
thì trên 40 ngời mới có một ngời hởng lơng Nhà nớc, và họ đà tiến hành tinh giản
đợc 47,5% tổng số biên chế cán bộ công chức. ở các công sở chúng ta thì ngời
nhiều việc ít, bộ máy quá cồng kềnh phức tạp, nhiều "tham quan" đục khoét của
Nhà nớc và nhân dân, sách nhiễu, phiền hà đến dân. Tệ tham ô, hối lộ quan liêu
đang là quốc nạn của đất nớc ta nhng để tiến hành giải quyết tận gốc việc này cần
phải có hệ thống luật pháp nghiêm chỉnh, cải cách lại hệ thống tiền lơng cho hợp
lí, đảm bảo cho cán bộ công nhân viên chức có một cuộc sống đầy đủ đồng thời
phải tinh giản biên chế, đào thải ra khỏi các cơ quan Nhà nớc những phần tử kém
phẩm chất, kém năng lực, nâng cao hiệu quả hoạt động của khối các cơ quan Nhà
nớc. ở Việt Nam chúng ta hệ thống lơng tiền có nhiều bất cập, cán bộ công chức
không sống bằng lơng mà bằng thu nhập bởi lơng quá thấp so với thực tế cuộc
sống đòi hỏi, tuy ai cũng kêu lơng thấp nhng không ai đói rách mà ai cũng có cuộc
sống khá giả, đó là điều mâu thuẫn, do đó chúng ta phải công khai hoá tiền lơng,

kiểm kê tài sản, có biện pháp xử lí đối với những kẻ bất chính. Tuy lơng cán bộ
công chức thấp, nhng những chi phí cho một thứ trởng của ta tơng đơng với một
đơn vị hành chính 100 ngời, đó là điều nghịch lý, nên chăng chúng ta phải tính tất

12


cả các chi phí vào lơng, khoán tiền lơng cho các cơ quan để họ tự quản lý sẽ tốt
hơn, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Đi đôi với cải cách và mở cửa, hàng loạt vấn đề văn hoá xà hội phát sinh cần
có biện pháp giải quyết phù hợp, hàng loạt tệ nạn xà hội phát sinh nh tệ chích hút,
tệ mại dâm, tệ làm hàng giả đang làm đâu đầu các nhà quản lý. Sự suy thoái về
mặt đạo đức diễn ra nghiêm trọng, xâm phạm đến những giá trị đạo đức tốt đẹp từ
ngàn đời xa để lại, ngời ta chỉ vì tiền, chạy theo đồng tiền, coi của cải tiền bạc là
tất cả mà quên đi yếu tố văn hoá, yếu tố tinh thần. Nhiều sự việc khiến ta phải đau
lòng, xà hội lên tiếng, đà có không ít vụ con giết bố, anh em đam chém nhau, vợ
chồng li dị, mẹ kế khâu mồm con, tình trạng trẻ em lang thang cơ nhỡ, ngời già cô
đơn không đợc chăm sóc. Chúng ta cần phải gióng lên hồi chuông cảnh báo, nếu
tình trạng này cứ tiếp diễn thì xà hội sẽ đi đến đâu, mục tiêu xây dựng chủ nghĩa
xà hội sẽ đi đến đâu. Đó là bài toán nan giải, là câu hỏi vang vọng day dứt mÃi
trong ta.
Trong thời kì hiện nay, việc đề cao tinh thần dân tộc, đoàn kết, tơng thân, tơng ái có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Để phát triển kinh tế thì phải tận dụng đợc
nguồn lực từ chÝnh néi bé qc gia vµ bµ con KiỊu bµo trên khắp hành tinh. Chúng
ta có hơn 2 triệu Kiều bào ở nớc ngoài thì hầu hết đều chống đối lại Nhà nớc của
ta họ có hàng trăm tờ báo, hàng trăm đài phát thanh liên tục chĩa mũi nhọn để
tuyên truyền, xuyên tạc, chống phá lại Nhà nớc xà hội chủ nghĩa. Còn nhân dân ta,
tuy vốn cần cù chịu khó thế những khi có quyền lực trong tay thì tham ô hối lộ,
bao che cho nhau. Đà có ai cã ý thøc ngêi ViƯt Nam gióp ®ì ngêi Việt Nam, dùng
hàng Việt Nam cha, bảo tồn văn hoá Việt Nam cha? Tất nhiên là có nhng không
nhiều. Bạn sẽ thật ngạc nhiên khi sang Đài Loan, có thể nói bạn "soi kính hiển vi"

cũng không thấy hàng ngoại trong nhà ngời dân Đài Loan. Nói tới có thể là hơi
quá, nhng ngời dân của họ thực sự có ý thức dân tộc sâu sắc, họ sẵn sàng hy sinh
lợi ích cá nhân vì lợi ích quốc gia. Và bạn cũng sẽ phải ngạc nhiên khi nghe một
cô gái häc sinh trung häc Hµn Quèc nãi khi cã mét ngời tặng một món đồ cho cô
ấy: "Món quá ấy đợc làm ra ở đâu, nếu nó không phải đợc lµm ra ë Hµn Quèc

13


thì anh không nên tặng nó cho tôi, nó không phải là đồ của nớc tôi". Nhiều ngời
thán phục, ngạc nhiên trớc những sự đổi thay của Đài Loan và Hàn Quốc, họ
nhanh chóng trở thành những con rồng Châu á, chỉ bởi nhân dân, bởi ý thức dân
tộc đà thấm vào máu thịt của họ. Nghe câu chuyện này chúng ta phải lấy làm
buồn, làm hổ thẹn, chúng ta làm việc thì kém hiệu quả thế nhng lại thích tiêu xài
quá khả năng cho phép mà lại tiêu xài toàn hàng ngoại nh ô tô ngoại, xe máy
ngoại, quần áo ngoại,... và đến cả cái tăm cũng của ngoại. Mà những cái đó chúng
ta đà sản xuất đợc thế nhng không ai muốn mua vì lợi ích cá nhân, đặt lợi ích cá
nhân lên trên lợi ích dân tộc, đất nớc. Và thế là hàng ngoại cứ ngập thị trờng của
ta, hàng ta ứ đọng, nợ nớc ngoài ngày càng nhiều.
Trong tình hình hiện nay Việt Nam chúng ta phải đối mặt với những nguy cơ
lớn. Chủ nghĩa đế quốc bên ngoài thì tìm mọi biện pháp để phá hoại nền kinh tế
của ta, phá hoại hệ thống chính trị của ta, coi ta nh cái gai trong mắt. Đặc biệt là
chúng dùng "diễn biến hoà bình" để mục đích lật đổ chính quyền mà không hề có
tiếng súng. Các thế lực phản động trong nớc cấu kết với các thế lực phản động bên
ngoài tiến hành chống phá cách mạng xà hội chủ nghĩa chờ thời cơ để thực hiện
bạo loạn lật đổ chính quyền.
Đó là những tác động về chính trị, quân sự, còn trong kinh tế, quá trình toàn
cầu hoá đang diễn ra rộng khắp thế giới, hiện nay chúng ta không có những chính
sách thích hợp để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, không biết ứng dụng thành
tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, không biết phát triển nền kinh tế tri

thøc, chóng ta sÏ tơt hËu so víi thÕ giíi. Đó là những nguy cơ mà chúng ta không
thể không tìm giải pháp tháo gỡ khắc phục. Thế nhng thời cơ cũng không nhỏ nên
chúng ta phải biết cách áp dơng, tËn dơng thµnh tùu khoa häc kü tht vµo sản
xuất, tận dụng tốt nguồn nhân lực trong và ngoài nớc, đặc biệt là vận động bà con
Kiều bào đầu t trở lại tổ quốc, thực hiện tốt cải cách thể chế chính trị đi đôi với cải
cách kinh tế. Cũng nh phát huy tinh thần dân tộc thì chúng ta sẽ tiến kịp các nớc
phát triển trên thế giới.

14


d.

Phơng hớng phát triển cho tơng lai
Đại hội IX của Đảng đà kết thúc tốt đẹp, nhiều đờng lối chính sách mới đợc

đề ra, Đảng đà nhận thức đợc hạn chế yếu kém của mình và đang có biện pháp
khắc phục. Đảng đề ra phơng hớng cho giai đoạn sau: Nâng cao đời sống nhân dân
nhanh chóng biến nớc ta thành nớc công nghiệp phát triển, tăng cờng sức mạnh về
mọi mặt cho đất nớc, nâng cao vị thế của đất nớc trên trờng quốc tế. Hy vọng
những năm tới đây đất nớc ta sẽ bớc vào thời kỳ mới, thời kì phát triển và thịnh vợng.

15


Phần III: Kết luận
Sau hơn một thập kỷ đổi mới và phát triển chúng ta đà vợt qua nhiều khó
khăn, thử thách. Qua đó cho chúng ta bài học kinh nghiệm quý báu. Đổi mới xây
dựng kinh tế thị trờng không tách rời "định hớng xà hội chủ nghĩa có sự quản lý
của Nhà nớc" có nh vậy chính trị mới ổn định kinh tế mới phát triển, mục tiêu xây

dựng chủ nghĩa xà hội mới không bị chệch hớng. Đồng thời muốn cải cách thì
phải cách cách đồng bộ, triệt để, cải cách kinh tế phải đi đôi với cải cách chính trị,
đổi mới về t duy nhận thức, đề cao tinh thần dân tộc, bản sắc văn hoá riêng có của
ta. Giải quyết tốt các mối quan hệ kinh tế dựa trên cơ sở toàn diện của chủ nghĩa
Mác - Lênin: không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, công tác t tởng lý luận
phải theo kịp sự phát triển của thực tiễn và yêu cầu của cuộc cách mạng. Công tác
tổ chức cán bộ cần phải đổi mới nhanh chóng, liên tục. Yêu cầu sự lÃnh đạo của
Đảng hiệu lực quản lý, điều hành của Nhà nớc trong thời kỳ mới cần có sự phân
công rõ ràng, không bao biện, không làm thay nhau cần xử lý tốt hơn nữa mối
quan hệ giữa Đảng với dân, tạo sự tin tởng tuyệt đối của dân với Đảng. Giai đoạn
hiện nay chúng ta cần có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh thống nhất, tạo điều
kiện thông thoáng thuận lợi cho sự phát triển kinh tế.
Hiện nay hệ thống xà hội chủ nghĩa trên thế giới đà sụp đổ bởi vận dụng mô
hình kinh tế không phù hợp: mô h×nh kinh tÕ bao cÊp. ThÕ nhng ViƯt Nam chóng
ta đà đứng vững qua cơn bÃo táp của thời kỳ trớc, hiện nay chúng ta tự dò tìm cho
mình một con đờng đi trong bao nhiều khó khăn và thử thách. Qua những thành
công bớc đầu của 15 năm đổi mới, chúng ta có thể khẳng định việc chuyển đổi
sang nền kinh tế thị trờng là một quyết định sáng suốt, mang tính sáng tạo cao của
Đảng. Chúng ta có thể tự hào mà nói với thế giới rằng: Quá trình đổi mới vì chủ
nghĩa xà hội cũng là quá trình biến những quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
về chủ nghĩa xà hội đà từng bớc thành hiện thực. Thành tựu nổi bật trong những
năm đổi mới vừa qua không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế xà hội mà còn tạo niềm
tin vào con đờng đổi mới góp phần ổn định về chính trị - xà hội của đất nớc, đồng
thời cảnh giác với mọi âm mu "diễn biến hoà bình" của các thế lực phản động, tiếp
tục đa đất nớc phát triển lên chủ nghĩa xà hội - con đờng đi đến dân giầu nớc
mạnh xà hội công bằng dân chủ văn minh và tiến bé.

16



Danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Triết học Mác - Lênin. Tập II
Nhà xuất bản chính trị Quốc gia - Hà Nội 1999.
2. Giáo trình Triết học Mác - Lênin. Tập I
Nhà xuất bản Giáo dục - 1999.
3. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin. Tập II
Nhà xuất bản Giáo dục - 1999.
4. Tạp chí cộng sản số 18, 19 năm 1998.
5. Tạp chí Phất triển kinh tế số 92, 99 năm 1998.
6. Tạp chí Triết học số 3 tháng 6 năm 1998.
7. Dự thảo các văn kiện trình Đại hội IX của Đảng.
8. Các văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI, VII, XIII.
9. Kinh tÕ häc. PAULA. SAMUELSON & WILLIAMD. NORDHAUS
ViÖn Quan hÖ quèc tÕ - 1994.

17



×