Luận văn thạc sĩ kỹ thuật
1
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG
XÂY DỰNG CÔNG TRÌNH
1.1. Dự án và dự án đầu tư xây dựng công trình
1.1.1 Khái niệm dự án và dự án đầu tư xây dựng công trình
1.1.1.1. Dự án
Dự án được hiểu là một công việc với các đặc tính như nguồn lực (con người,
chi phí, máy móc), có mục tiêu cụ thể, phải được hoàn thành với thời gian và chất
lượng định trước, có thời điểm khởi đầu và kết thúc rõ ràng, có khối lượng và công
việc cụ thể cần thực hiện, có ngân sách hạn chế và là sự kết nối hợp lý của nhiều
phần việc lại với nhau
Theo tổ chức Quốc tế về tiêu chuẩn hóa quốc tế ISO 9000:2000 dự án là một
quá trình đơn nhất, gồm một tập hợp các hoạt động có phối hợp và được kiểm soát,
có thời hạn bắt đầu và kết thúc, được tiến hành để đạt được một mục tiêu phù hợp
với các yêu cầu quy định, bao gồm cả các ràng buộc về thời gian, chi phí và nguồn
lực.
1.1.1.2. Dự án đầu tư xây dựng công trình
Dự án đầu tư có xây dựng công trình (XDCT) thì được gọi là dự án đầu tư xây
dựng công trình (XDCT)
Theo Luật Xây dựng số 16/2003/QH11, dự án đầu tư XDCT là tập hợp các đề
xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để xây dựng mới, mở rộng hoặc cải tạo những
CTXD nhằm mục đích phát triển, duy trì, nâng cao chất lượng công trình hoặc sản
phẩm, dịch vụ trong một thời hạn nhất định.
1.1.2. Đặc điểm của dự án đầu tư XDCT
Sản phẩm của dự án đầu tư XDCT thường mang tính đơn chiếc, được xây
dựng và sử dụng tại chỗ, vốn đầu tư lớn, thời gian xây dựng và thời gian sử dụng
lâu dài; kích thước và khối lượng công trình lớn, cấu tạo phức tạp. Do vậy, việc sản
xuất để tạo thành sản phẩm CTXD thường có tính biến động, chi phí sản xuất lớn
và công tác thực hiện tiến hành ngoài trời nên phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự
Học viên:
Lớp cao học: 18C21
Luận văn thạc sĩ kỹ thuật
2
nhiên. Ngoài ra, việc tổ chức quản lý quá trình thực hiện liên quan đến nhiều cấp,
nhiều ngành và trình độ phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội từng thời kỳ nên tương
đối phức tạp.
Do chịu tác động của nhiều yếu tố tự nhiên khu vực xây dựng công trình (đặc
biệt là yếu tố địa hình, địa chất, thời tiết), yếu tố thời gian và xã hội nên dự án đầu
tư XDCT nên đôi khi có tính rủi ro. Quá trình thực hiện thường phải điều chỉnh so
với kế hoạch tiến độ ban đầu; giá thành dự án thay đổi do biến động giá cả; một số
trường hợp khác gặp vấn đề rủi ro bởi chất lượng công trình không bảo đảm hay
mất an toàn khi có bất lợi của điều kiện tự nhiên.
Những đặc điểm của dự án đầu tư XDCT có ảnh hưởng trực tiếp đến phương
thức tổ chức và quản lý sản xuất xây dựng, điều đó dẫn đến việc thi công xây dựng
cũng có sự khác biệt so với việc sản xuất sản phẩm của các ngành công nghiệp
khác.
1.2. Chất lượng sản phẩm và quản lý chất lượng sản phẩm
1.2.1. Chất lượng sản phầm
1.2.1.1. Khái niệm về chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm được nhìn từ nhiều góc độ khác nhau: từ bản thân sản
phẩm, từ phía nhà sản xuất và cả phía thị trường. Nhưng hầu hết các quan điểm
đều thống nhất “Chất lượng là tập hợp các đặc điểm của một sản phẩm nhằm tạo
cho sản phẩm đó có khả năng thỏa mãn các nhu cầu đã nêu ra hoặc nhu cầu tiềm
ẩn”.
Theo tổ chức Quốc tế về tiêu chuẩn hóa quốc tế (ISO): “Chất lượng là khả
năng của tập hợp các đặc tính của một sản phẩm, hệ thống hay quá trình để đáp
ứng các yêu cầu của khách hàng và các bên có liên quan”.
Từ các khái niệm trên có thể rút ra một số đặc điểm chung của chất lượng:
Chất lượng được đo bởi sự thỏa mãn nhu cầu, nếu một sản phầm vì lý do nào
đó mà không được nhu cầu chấp nhận thì bị coi là có chất lượng kém, cho dù trình
độ công nghệ để chế tạo ra sản phẩm đó có thể rất hiện đại. Đây là một kết luận
then chốt và là cơ sở để các nhà chất lượng định ra chính sách, chiến lược kinh
Học viên:
Lớp cao học: 18C21
Luận văn thạc sĩ kỹ thuật
3
doanh của mình. Mặt khác, nhu cầu luôn biến động nên chất lượng cũng biến động
theo thời gian, không gian, điều kiện sử dụng.
Khi đánh giá chất lượng của một đối tượng, cần xem xét đặc tính của đối tượng
có liên quan đến sự thỏa mãn những nhu cầu cụ thể. Các nhu cầu này không chỉ từ
phía khách hàng mà còn từ các bên có liên quan, ví dụ như các yêu cầu mang tính
pháp chế, nhu cầu của cộng đồng xã hội. Ngoài ra, chất lượng không chỉ là thuộc tính
của sản phẩm, hàng hóa mà cần xuyên suốt trong cả hệ thống hay quá trình tạo ra sản
phẩm.
1.2.1.2. Phân loại chất lượng sản phẩm
Theo nghiên cứu và phân tích của các chuyên gia, chất lượng sản phẩm được
phân ra 6 loại như sau:
- Chất lượng thiết kế: là chất lượng thể hiện những thuộc tính chỉ tiêu của sản
phẩm được phác thảo trên cơ sở nghiên cứu và định ra để sản xuất. Chất lượng
thiết kế được thể hiện qua các bản vẽ, các yêu cầu về vật liệu chế tạo, thử nghiệm
và hướng dẫn sử dụng. Chất lượng thiết kế có thể được hiểu là chất lượng chính
sách nhằm đáp ứng về lý thuyết đối với yêu cầu sử dụng, điều này có đạt được
trong thực tế hay không thì nó còn phụ thuộc nhiều yếu tố trong quá trình thực
hiện.
- Chất lượng chuẩn: là loại chất lượng mà thuộc tính và chỉ tiêu của nó được
phê duyệt trong quá trình quản lý chất lượng của các cơ quan quản lý. Sau khi
được phê chuẩn thì chất lượng này trở thành pháp lệnh, văn bản pháp quy để các
bên liên quan thực hiện.
- Chất lượng thực tế: là mức độ thực tế đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của sản
phẩm và nó được thể hiện sau quá trình sản xuất, trong quá trình sử dụng sản
phẩm.
- Chất lượng cho phép: là mức độ cho phép về độ lệch giữa chất lượng chuẩn
và chất lượng thực tế của sản phẩm. Chất lượng cho phép do cơ quan quản lý chất
lượng sản phẩm và hợp đồng giữa hai bên quy định.
- Chất lượng tối ưu: biểu thị khả năng toàn diện đáp ứng nhu cầu của thị
Học viên:
Lớp cao học: 18C21
Luận văn thạc sĩ kỹ thuật
4
trường trong điều kiện xác định với những chi phí xã hội thấp nhất. Nó nói lên mối
quan hệ giữa chất lượng sản phẩm và chi phí.
- Chất lượng toàn phần: là mức chất lượng thể hiện mức tương quan giữa hiệu
quả có ích cho sử dụng sản phẩm có chất lượng cao và tổng chi phí để sản xuất và
sử dụng sản phẩm đó.
1.2.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố nhưng ta có thể chia
thành hai nhóm yếu tố chủ yếu bên ngoài và nhóm yếu tố bên trong.
Nhóm yếu tố bên ngoài: là ảnh hưởng của nhu cầu nền kinh tế. Ở bất cứ
trình độ nào và mục đích sử dụng khác nhau, chất lượng sản phẩm luôn bị chi phối,
rằng buộc bởi hoàn cảnh, điều kiện nhất định của nền kinh tế và được thể hiện ở
các mặt:
- Nhu cầu của thị trường: là xuất phát điểm của quá trình quản lý chất lượng.
Trước khi tiến hành thiết kế, sản xuất sản phẩm, cần phải tiến hành nghiêm túc và
thận trọng công tác điều tra nghiên cứu nhu cầu thị trường, phân tích môi trường
kinh tế - xã hội để nắm bắt chính xác các yêu cầu chất lượng cụ thể của khách hàng
cũng như những thói quen tiêu dùng, phong tục tập quán, khả năng thanh toán của
khách hàng …để có đối sách đúng đắn.
- Trình độ kinh tế, trình độ sản xuất: đảm bảo chất lượng luôn là vấn đề nội tại
của bản thân nền sản xuất xã hội nhưng việc nâng cao chất lượng không thể vượt
ra ngoài khả năng cho phép của nền kinh tế.
- Chính sách kinh tế: hướng đầu tư, hướng phát triển loại sản phẩm nào đó
cũng như mức thỏa mãn các nhu cầu được thể hiện trong chính sách kinh tế có tầm
quan trọng đặc biệt ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm.
Ảnh hưởng của sự phát triển của khoa học - kỹ thuật: với sự phát triển mạnh
của khoa học như hiện nay, trình độ chất lượng của bất cứ sản phẩm nào cũng gắn
liền và chịu sự chi phối của sự phát triển của khoa học - kỹ thuật, đặc biệt là sự ứng
dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Xu hướng chính của việc áp
dụng các kỹ thuật tiến bộ hiện nay là:
Học viên:
Lớp cao học: 18C21
Luận văn thạc sĩ kỹ thuật
5
- Sáng tạo ra vật liệu mới hay vật liệu thay thế;
- Cải tiến hay đổi mới công nghệ;
- Cải tiến sản cũ và chế thử sản phẩm mới.
Ảnh hưởng của hiệu lực của cơ chế quản lý: Có thể nói khả năng cải tiến,
nâng cao chất lượng sản phẩm của mỗi tổ chức phụ thuộc rất nhiều vào cơ chế
quản lý. Hiệu lực quản lý nhà nước là đòn bẩy quan trọng trong việc quản lý chất
lượng sản phẩm, đảm bảo cho sự phát triển ổn định của sản xuất, đảm bảo uy tín và
quyền lợi của nhà sản xuất và người tiêu dùng. Mặt khác, nó còn góp phần tạo tính
tự chủ, độc lập, sáng tạo trong cải tiến chất lượng sản phẩm của các tổ chức, hình
thành môi trường thuận lợi cho việc huy động các nguồn lực, các công nghệ mới,
tiếp thu ứng dụng những phương pháp quản lý chất lượng hiện đại.
Nhóm yếu tố bên trong tổ chức: Trong phạm vi một tổ chức có 4 yếu tố cơ
bản ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm (theo tiếng Anh được biểu thị bằng quy
tắc 4 M), đó là:
Con người (men): đây là lực lượng lao động trong tổ chức, bao gồm tất cả
thành viên trong tổ chức, từ cán bộ lãnh đạo đến người thực hiện. Năng lực, phẩm
chất của mỗi thành viên và mối liên kết giữa các thành viên có ảnh hưởng trực tiếp
đến chất lượng.
Phương pháp (methods): phương pháp công nghệ, trình độ tổ chức quản lý và
tổ chức sản xuất của tổ chức. Với phương pháp công nghệ thích hợp, trình độ quản
lý và tổ chức sản xuất tốt sẽ tạo điều kiện cho tổ chức có thể khai thác cao nhất khả
năng nguồn lực hiện có, góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm.
Máy móc thiết bị (machines): đó là khả năng về công nghệ, máy móc thiết bị
của tổ chức. Trình độ công nghệ, máy móc thiết bị có tác động rất lớn trong việc
nâng cao những tính năng kỹ thuật của sản phẩm và nâng cao năng suất lao động.
Nguyên vật liệu (materials): vật tư, nguyên nhiên liệu và hệ thống tổ chức
đảm bảo vật tư, nguyên nhiên liệu của tổ chức. Nguồn vật tư, nguyên nhiên liệu
được đảm bảo những yêu cầu chất lượng và được cung cấp đúng số lượng, đúng
thời hạn sẽ tạo điều kiện đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm.[1]
Học viên:
Lớp cao học: 18C21
Luận văn thạc sĩ kỹ thuật
6
1.2.2. Quản lý chất lượng sản phẩm
1.2.2.1. Khái niệm về quản lý chất lượng sản phẩm
Theo TCVN 8402-1994 “Quản lý chất lượng là tập hợp những hoạt động
chức năng quản lý chung nhằm xác định chính sách chất lượng, mục đích chất
lượng và thực hiện chúng bằng những phương tiện như lập kế hoạch, tổ chức thực
hiện, đảm bảo chất lượng và cải tiến chất lượng trong khuôn khổ một hệ thống”.
Theo định nghĩa của tiêu chuẩn ISO: Quản lý chất lượng là "hoạt động tương
tác và phối hợp lẫn nhau nhằm định hướng và kiểm soát một tổ chức về chất
lượng".
1.2.2.2. Các nguyên tắc quản lý chất lượng sản phẩm
a. Nguyên tắc thứ nhất là định hướng bởi khách hàng: Hoạt động của các
doanh nghiệp phụ thuộc vào khách hàng của mình và vì thế cần tìm hiểu những
nhu cầu hiện tại và tương lai của khách hàng để không chỉ đáp ứng mà còn vượt
cao hơn những yêu cầu của họ.
b. Nguyên tắc thứ 2 là sự lãnh đạo: Lãnh đạo thiết lập sự thống nhất đồng bộ
giữa mục đích và đường lối của doanh nghiệp. Lãnh đạo cần tạo ra và duy trì môi
trường nội bộ trong doanh nghiệp để hoàn toàn lôi cuốn mọi người thực hiện công
việc để đạt được các mục tiêu của doanh nghiệp.
c. Nguyên tắc thứ 3 là sự tham gia của mọi người: Con người là nguồn lực
quan trọng nhất của một đơn vị và sự tham gia đầy đủ với những hiểu biết và kinh
nghiệm của họ tạo sự phát triển cho đơn vị.
d. Nguyên tắc thứ tư là quan điểm quá trình: Kết quả cũng như chất lượng sẽ
đạt được một cách hiệu quả khi các nguồn và các hoạt động có liên quan được
quản lý trong cả quá trình thực hiện.
e. Nguyên tắc thứ 5 là tính hệ thống: Việc xác định và quản lý chất lượng một
cách hệ thống các quá trình thực hiện có liên quan lẫn nhau, đảm bảo mục tiêu chất
lượng đề ra và đem lại hiệu quả cho đơn vị.
f. Nguyên tắc thứ 6 là cải tiến liên tục: Cải tiến liên tục là mục tiêu, đồng thời
cũng là phương hướng phát triển của mọi doanh nghiệp. Muốn có khả năng cạnh
Học viên:
Lớp cao học: 18C21
Luận văn thạc sĩ kỹ thuật
7
tranh và mức độ chất lượng cao, doanh nghiệp cần phải liên tục cải tiến để nâng
cao chất lượng sản phẩm.
g. Nguyên tắc thứ 7 là quyết định dựa trên sự kiện: Mọi quyết định và hành
động của hệ thống quản lý chất lượng và hoạt động kinh doanh muốn có hiệu quả
phải được xây dựng dựa trên việc phân tích đầy đủ thông tin và dữ liệu liên quan.
h. Nguyên tắc thứ 8 là quan hệ hợp tác cùng có lợi với người cung ứng:
Doanh nghiệp và người cung ứng phụ thuộc lẫn nhau và mối quan hệ tương hỗ
cùng có lợi sẽ nâng cao năng lực của cả hai bên để tạo ra giá trị.
1.2.2.3. Các phương pháp quản lý chất lượng sản phẩm
1.2.2.1. Kiểm tra chất lượng
Một phương pháp phổ biến nhất để đảm bảo chất lượng sản phẩm phù hợp với
qui định là thông qua việc kiểm tra các sản phẩm và chi tiết bộ phận nhằm sàng lọc
và loại ra bộ phận không đảm bảo tiêu chuẩn hay qui cách kỹ thuật.
Từ đầu thế kỷ 20, việc sản xuất với khối lượng lớn đã trở nên phát triển rộng
rãi, người sử dụng yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và sự cạnh tranh giữa các
cơ sở sản xuất về chất lượng càng ngày càng mạnh mẽ. Các nhà sản xuất dần dần
nhận ra rằng kiểm tra không phải là cách đảm bảo chất lượng tốt nhất. Theo định
nghĩa, kiểm tra chất lượng là hoạt động như đo đạc, thử nghiệm, định cỡ một hay
nhiều đặc tính của đối tượng và so sánh kết quả với yêu cầu nhằm xác định sự phù
hợp của mỗi đặc tính. Như vậy kiểm tra chỉ là một sự phân loại sản phẩm đã được
sản xuất một cách bị động. Nói theo ngôn ngữ hiện nay thì chất lượng không được
tạo dựng nên qua kiểm tra.
Để khắc phục vấn đề trên, vào những năm 1920 người ta đã bắt đầu chú trọng
đến những quá trình tạo ra sản phẩm, hơn là đợi đến khâu cuối cùng mới tiến hành
sàng lọc sản phẩm. Cũng từ đó, khái niệm kiểm soát chất lượng được ra đời.
1.2.2.2. Kiểm soát chất lượng
Theo đính nghĩa, kiểm soát chất lượng là các hoạt động và kỹ thuật mang tính
tác nghiệp được sử dụng để đáp ứng các yêu cầu chất lượng.
Học viên:
Lớp cao học: 18C21
Luận văn thạc sĩ kỹ thuật
8
Để kiểm soát chất lượng, người ta kiểm soát các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp
đến quá trình tạo ra chất lượng sản phẩm. Việc kiểm soát này nhằm ngăn ngừa sản
xuất ra sản phẩm khuyết tật. Nói chung, kiểm soát chất lượng là kiểm soát các yếu
tố gồm: con người, phương pháp, quá trình thực hiện; đầu vào, thiết bị và môi
trường.
Kiểm soát chất lượng ra đời tại Mỹ, nhưng các phương pháp này chủ yếu
được áp dụng nhiều trong lĩnh vực quân sự và chưa được phát huy mạnh trong lĩnh
vực sản xuất và xây dựng. Trái lại, ở Nhật Bản, tuy việc kiểm soát chất lượng mới
được áp dụng nhưng phát triển mạnh trong các lĩnh vực và được hấp thụ vào nền
văn hóa của họ.
1.2.2.3. Kiểm soát chất lượng toàn diện
Các kỹ thuật kiểm soát chất lượng được áp dụng hạn chế trong phạm vi khu
vực sản xuất và kiểm tra. Để đạt được mục tiêu chính của quản lý chất lượng là
thỏa mãn yêu cầu người tiêu dùng, thì phạm vi đó chưa đầy đủ, nó đòi hỏi không
chỉ áp dụng các phương pháp này trước quá trình sản xuất và kiểm tra (như nghiên
cứu, lập kế hoạch, phát triển…) mà còn phải áp dụng cho các quá trình ra sau đó
như vận chuyển, bảo quản, phân phối và dịch vụ sau khi bán hàng. Phương thức
quản lý này được gọi là kiểm soát chất lượng toàn diện
Thuật ngữ kiểm soát chất lượng toàn diện được Feigenbaum định nghĩa như
sau: Kiểm soát chất lượng toàn diện là một hệ thống có hiệu quả để nhất thể hoá
các nỗ lực phát triển, duy trì và cải tiến chất lượng của các nhóm khác nhau vào
trong một tổ chức sao cho các hoạt động marketing, kỹ thuật, sản xuất và dịch vụ
có thể tiến hành một cách kinh tế nhất, cho phép thảo mãn nhu cầu khách hàng.
Kiểm soát chất lượng toàn diện trong xây dựng sẽ huy động nỗ lực của mọi
đơn vị vào các quá trình có liên quan đến duy trì và cải tiến chất lượng, nâng cao
năng suất lao động. Điều này sẽ giúp tiết kiệm tối đa trong sản xuất, dịch vụ đồng
thời thỏa mãn nhu cầu của người sử dụng.
1.2.2.4. Quản lý chất lượng toàn diện
Học viên:
Lớp cao học: 18C21
Luận văn thạc sĩ kỹ thuật
9
Trong những năm gần đây, sự phát triển của kỹ thuật quản lý, góp phần nâng
cao hoạt động quản lý chất lượng và là cơ sở cho lý thuyết Quản lý chất lượng toàn
diện (QLCLTD). Quản lý chất lượng toàn diện được nảy sinh từ các nước phương
Tây với lên tuổi của Deming, Juran, Crosby.
QLCLTD được định nghĩa là phương pháp quản lý của một tổ chức, định
hướng vào chất lượng, dựa trên sự tham gia của mọi thành viên và nhằm đem lại
sự thành công dài hạn thông qua sự thỏa mãn khách hàng và lợi ích của các thành
viên của đơn vị và của xã hội.
Mục tiêu của QLCLTD là cải tiến chất lượng sản phẩm và thỏa mãn khách
hàng ở mức tốt nhất cho phép. Đặc điểm nổi bật của phương pháp này so với các
phương pháp quản lý chất lượng trước đây là nó cung cấp một hệ thống toàn diện
cho công tác quản lý và cải tiến mọi khía cạnh có liên quan đến chất lượng và huy
động sự tham gia của mọi bộ phận và mọi cá nhân để đạt được mục tiêu chất lượng
đã đặt ra.
Phương pháp quản lý trên ban đầu áp dụng cho các ngành sản xuất hàng hóa,
sau phát triển sang lĩnh vực xây dựng và mang lại nhiều hiệu quả. Nó cho phép
quản lý các khâu trong quá trình xây dựng từ giai đoạn lập dự án, thiết kế đến thi
công xây lắp. Đặc biệt trong giai đoạn thi công, chất lượng được khống chế từ
khâu đưa vật tư, vật liệu, thiết bị vào công trình đến các bước thi công, chuyển giai
đoạn… QLCLTD được áp dụng và phát triển mạnh ở Nhật bản và một số nước
Châu Âu trong các thập kỷ gần đây.
1.3. Công trình xây dựng và quản lý chất lượng công trình xây dựng
1.3.1. Các khái niệm liên quan
1.3.1.1. Công trình xây dựng: là sản phẩm được tạo thành bởi sức lao động
của con người, vật liệu xây dựng, thiết bị lắp đặt vào công trình, được liên kết định
vị với nền đất, bao gồm phần trên và dưới mặt đất, phần trên và dưới mặt nước và
được xây dựng theo thiết kế [Luật ]
1.3.1.2. Chất lượng công trình xây dựng
Theo quan niệm hiện đại, CLCT xây dựng, xét từ góc độ bản thân sản phẩm
Học viên:
Lớp cao học: 18C21
Luận văn thạc sĩ kỹ thuật
10
xây dựng, CLCT xây dựng được đánh giá bởi các đặc tính cơ bản như: công năng,
tuân thủ các tiêu chuẩn kỹ thuật, độ bền vững, tính thẩm mỹ, an toàn trong khai
thác sử dụng, tính kinh tế và đảm bảo về thời gian phục vụ của công trình.
Theo cách nhìn rộng hơn, CLCT xây dựng được hiểu không chỉ từ góc độ bản
thân sản phẩm xây dựng và người hưởng thụ sản phẩm xây dựng mà bao gồm cả
quá trình hình thành sản phẩm xây dựng cùng với các vấn đề liên quan khác. Một
số vấn đề cơ bản liên quan đến CLCT xây dựng là:
- CLCT xây dựng cần được quan tâm ngay từ khi hình thành ý tưởng về xây
dựng công trình, từ khâu quy hoạch, lập dự án, đến khảo sát thiết kế, thi công... cho
đến giai đoạn khai thác, sử dụng và dỡ bỏ công trình sau khi đã hết thời hạn phục
vụ. CLCT xây dựng thể hiện ở chất lượng quy hoạch xây dựng, chất lượng dự án
đầu tư xây dựng công trình, chất lượng khảo sát, chất lượng các bản vẽ thiết kế...
- Chất lượng công trình tổng thể phải được hình thành từ chất lượng của
nguyên vật liệu, cấu kiện, chất lượng của công việc xây dựng riêng lẻ, của các bộ
phận, hạng mục công trình.
- Các tiêu chuẩn kỹ thuật không chỉ thể hiện ở các kết quả thí nghiệm, kiểm
định nguyên vật liệu, cấu kiện, máy móc thiết bị đưa vào công trình mà còn ở quá
trình hình thành và thục hiện các bước công nghệ thi công, chất lượng các công
việc của đội ngũ công nhân, kỹ sư lao động trong quá trình thực hiện các hoạt động
xây dựng.
- Chất lượng luôn gắn với vấn đề an toàn công trình. An toàn không chỉ là
trong khâu khai thác sử dụng mà phải đảm bảo an toàn trong giai đoạn thi công xây
dựng đối với bản thân công trình và với đội ngũ công nhân kỹ sư và các thiết bị
xây dựng.
- Tính thời gian trong xây dựng không chỉ thể hiện ở thời hạn hoàn thành toàn
bộ công trình để đưa vào khai thác sử dụng mà còn thể hiện ở việc đáp ứng theo
tiến độ quy định đối với từng hạng mục công trình.
- Tính kinh tế không chỉ thể hiện ở số tiền quyết toán công trình chủ đầu tư
phải chi trả mà còn thể hiện ở góc độ đảm bảo lợi nhuận cho cho các nhà đầu tư
Học viên:
Lớp cao học: 18C21
Luận văn thạc sĩ kỹ thuật
11
thực hiện các hoạt động dịch vụ xây dựng như lập dự án, khảo sát thiết kế, thi công
xây dựng...
Ngoài ra, CLCT xây dựng cần chú ý vấn đề môi trường không chỉ từ góc độ
tác động của dự án tới các yếu tố môi trường mà cả tác động theo chiều ngược lại
của các yếu tố môi trường tới quá trình hình thành dự án.
1.3.1.3. Quản lý chất lượng công trình xây dựng
Quản lý CLCT xây dựng là tập hợp các hoạt động từ đó đề ra các yêu cầu,
quy định và thực hiện các yêu cầu, quy định đó bằng các biện pháp như kiểm soát
chất lượng, đảm bảo chất lượng, cải tiến chất lượng. Hoạt động quản lý CLCT xây
dựng chủ yếu là công tác giám sát và tự giám sát của chủ đầu tư và các chủ thể
khác.
Nói cách khác: Quản lý CLCT xây dựng là tập hợp các hoạt động của cơ
quan, đơn vị có chức năng quản lý thông qua kiểm tra, đảm bảo chất lượng, cải tiến
chất lượng trong các giai đoạn từ chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư, kết thúc xây
dựng và đưa vào khai thác sử dụng.
1.3.2. Nội dung hoạt động quản lý CLCT xây dựng theo giai đoạn dự án
Hoạt động xây dựng bao gồm: lập quy hoạch xây dựng, lập dự án đầu tư xây
dựng công trình, khảo sát xây dựng, thiết kế xây dựng công trình thi công xây
dựng công trình, giám sát thi công xây dựng công trình, quản lý dự án đầu tư xây
dựng công trình, lựa chọn nhà thầu trong hoạt động xây dựng và các hoạt động
khác có liên quan đến xây dựng công trình.
Quản lý CLCT xây dựng là nhiệm vụ của tất cả các chủ thể tham gia vào quá
trình hình thành nên sản phẩm xây dựng bao gồm: Chủ đầu tư, nhà thầu, các tổ
chức và cá nhân liên quan trong công tác khảo sát, thiết kế, thi công xây dựng, bảo
hành và bảo trì, khai thác và sử dụng công trình. Việc quản lý CLCT tuân theo
Nghị định số 209/2004/NĐ-CP và Nghị định số 49/2008/NĐ-CP về quản lý CLCT
xây dựng, hoạt động quản lý CLCT xây dựng. Các quy định về quản lý chất lượng
trong các Nghị định trên xuyên suốt các giai đoạn từ khảo sát, thiết kế đến thi công
và khai thác công trình.
Học viên:
Lớp cao học: 18C21
Luận văn thạc sĩ kỹ thuật
12
Nếu xem xét ở một khía cạnh Hoạt động quản lý chất lượng công trình xây
dựng, thì chủ yếu là công tác giám sát của chủ đầu tư và các chủ thể khác. Có thể
gọi chung công tác giám sát là giám sát xây dựng. Nội dung công tác giám sát và
tự giám sát của các chủ thể có thể thay đổi tuỳ theo nội dung của hoạt động xây
dựng. Có thể tóm tắt nội dung hoạt động của các chủ thể giám sát trong các giai
đoạn của dự án xây dựng như sau:
- Trong giai đoạn khảo sát: ngoài sự giám sát của chủ đầu tư, nhà thầu khảo
sát xây dựng phải có bộ phận chuyên trách tự giám sát công tác khảo sát.
- Trong giai đoạn thiết kế: nhà thầu tư vấn thiết kế tự giám sát sản phẩm thiết
kế theo các quy định và chịu trách nhiệm trước chủ đầu tư và pháp luật về chất
lượng thiết kế xây dựng công trình. Chủ đầu tư nghiệm thu sản phẩm thiết kế và
chịu trách nhiệm về các bản vẽ thiết kế giao cho nhà thầu.
- Trong giai đoạn thi công xây dựng công trình: có các hoạt động quản lý chất
lượng và tự giám sát của nhà thầu thi công xây dựng; giám sát thi công xây dựng
công trình và công tác nghiệm thu của chủ đầu tư; giám sát tác giả của nhà thầu
thiết kế xây dựng công trình và ở một số dự án có sự tham gia giám sát của cộng
đồng.
- Trong giai đoạn bảo hành công trình chủ đầu tư, chủ sở hữu hoặc chủ quản
lý sử dụng công trình có trách nhiệm kiểm tra tình trạng công trình xây dựng, phát
hiện hư hỏng để yêu cầu sửa chữa, thay thế, giám sát và nghiệm thu công việc khắc
phục sửa chữa đó.
Bên cạnh sự giám sát, tự giám sát của các chủ thể, quá trình
triển khai XDCT còn có sự tham gia giám sát của nhân dân, của
các cơ quan QLNN về CLCT xây dựng.
Tất cả các hoạt động giám sát nêu trên đều góp phần đảm
bảo chất lượng của công trình xây dựng.
Kết quả của hoạt động giám sát được thể hiện thông qua hồ
sơ quản lý chất lượng, bao gồm các văn bản phê duyệt, biên bản
nghiệm thu và bản vẽ hoàn công, nhật ký giám sát của chủ đầu
Học viên:
Lớp cao học: 18C21
Luận văn thạc sĩ kỹ thuật
13
tư, nhật ký thi công của nhà thầu, các thông báo, công văn trao
đổi, văn bản thống nhất, …. Việc thực hiện các hoạt động giám
sát chất lượng, lập và lưu trữ hồ sơ quản lý chất lượng được gọi
chung là công tác quản lý chất lượng.
1.3.4. Một số chỉ tiêu đánh quản lý CLCT xây dựng
Việc đánh giá CLCT xây dựng còn nhiều ý kiến khác nhau. Cho đến nay, vẫn
chưa có tổ chức nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về các hệ thống đánh
giá cũng như các tiêu chí đánh giá CLCT xây dựng. Tuy nhiên, xuất phát từ các cơ
sở lý luận, thực tiễn xây dựng và hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật và văn
bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam, bước đầu có thể đánh giá quản lý CLCT xây
dựng như sau:
Thứ nhất, cần xây dựng hệ thống đánh giá chất lượng
Hệ thống này cần quy định rõ phương pháp đo lường và đánh giá chất lượng
của một công trình xây dựng dựa trên các tiêu chuẩn được chấp thuận có liên quan.
Nó cho phép đánh giá chất lượng và so sánh khách quan chất lượng của công trình
này so với công trình khác thông qua một hệ thống tính điểm.
Thứ hai, xây dựng hệ thống đánh giá chất lượng với các mục tiêu sau:
Xây dựng được điểm chuẩn về chất lượng đánh giá năng lực (bao gồm kinh
nghiệm, năng lực thiết bị, nhân lực, tài chính…) nhà thầu thi công xây dựng. Thiết
lập hệ thống đánh giá chất lượng tiêu chuẩn về năng lực nhà thầu thi công xây
dựng. Đánh giá chất lượng của một dự án xây dựng dựa trên các tiêu chuẩn có liên
quan được chấp thuận. Đưa ra tiêu chí để đánh giá năng lực của các nhà thầu tham
gia trong lĩnh vực xây dựng và tạo cơ sở dữ liệu để phục vụ công tác phân tích
thống kê.
Thứ ba, hệ thống đánh giá chất lượng phải bao gồm các nội dung sau:
1. Đánh giá năng lực của nhà thầu tham gia xây dựng. Hệ thống đánh giá chất
lượng (HTĐGCL) đặt ra các tiêu chuẩn về chất lượng năng lực nhà thầu đối với
các bộ phận khác nhau của công trình xây dựng và đối với công trình có tính chất
khác nhau. Chất lượng năng lực của nhà thầu thi công xây dựng được đánh giá
Học viên:
Lớp cao học: 18C21
Luận văn thạc sĩ kỹ thuật
14
theo yêu cầu của tiêu chuẩn có liên quan, và các tiêu chí được công nhận nếu năng
lực của nhà thầu tuân thủ tiêu chuẩn. Những tiêu chí này được đánh giá trên cơ sở
tính điểm theo HTĐGCL (có thể theo %) đối với dự án xây dựng công trình có
nhiệm vụ và quy mô cụ thể. HTĐGCL đánh giá được thực hiện thông qua kiểm tra
hiện trường và sử dụng các kết quả kiểm tra. Việc đánh giá năng lực nhà thầu theo
cách này nhằm khuyến khích các nhà thầu thi công xây dựng làm tốt mọi công việc
ngay từ khâu chuẩn bị và trong cả quá trình thực hiện.
2. Việc đánh giá của HTĐGCL một dự án xây dựng được thực hiện dựa trên
kết quả kiểm tra - đánh giá độc lập các giai đoạn khảo sát, thiết kế, thi công, giám
sát, kiểm định, quản lý dự án…Mọi công tác đánh giá phải thực hiện theo yêu cầu
của tổ chức đánh giá, tổ chức này được cơ quan quản lý nhà nước về CLCT xây
dựng đào tạo. Tổ chức thực hiện đánh giá phải đăng ký với cơ quan QLNN về
CLCT xây dựng mới đủ điều kiện để đánh giá chất lượng công trình xây dựng theo
HTĐGCL.
3. Phương pháp đánh giá và quy trình chọn mẫu để đánh giá: Trước khi tiến
hành đánh giá bộ phận công trình hay dự án cần xác định phương pháp đánh giá
thông qua việc lấy mẫu và sử dụng phương pháp thống kê. Những mẫu được lấy
đảm bảo tính khách quan trong suốt quá trình thực hiện dự án hay trong các giai
đoạn xây dựng khác nhau. Tất cả các vị trí kiểm tra phải thuận tiện cho việc đánh
giá và các mẫu được lựa chọn phải bảo đảm mang tính đại diện cho toàn bộ công
trình.
4. Việc đánh giá phải thực hiện theo quy trình và dựa vào tiêu chuẩn của
HTĐGCL. Tiêu chuẩn này xác định các yêu cầu về chất lượng năng lực và thủ tục
đánh giá chất lượng các công trình xây dựng.
3.3. Một số hoạt động ảnh hưởng đến quản lý CLCT xây dựng
Các hoạt động trong lĩnh vực xây dựng bao gồm lập quy hoạch xây dựng, lập
dự án đầu tư xây dựng công trình, khảo sát xây dựng, thiết kế xây dựng công trình,
thi công xây dựng công trình, giám sát thi công xây dựng công trình, quản lý dự án
Học viên:
Lớp cao học: 18C21
Luận văn thạc sĩ kỹ thuật
15
đầu tư xây dựng công trình, lựa chọn nhà thầu và các hoạt động khác có liên quan
đến xây dựng công trình.
Tổ chức xây dựng công trình, cũng như các lĩnh vực sản xuất kinh doanh và dịch
vụ khác, để sản phẩm đảm bảo chất lượng có nhiều nhân tố ảnh hưởng theo nhiều tiêu
chí, mức độ ảnh hưởng khác nhau. Các hoạt động liên quan đến quản lý CLCT xây
dựng giảm dần theo thời gian tính từ khi mới thành ý tưởng dự án đến khi sản phẩm
được hoàn thành, bàn giao vào khai thác, sử dụng. Tuy nhiên, Luận văn chỉ xem xét
các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm công trình xây dựng theo nhóm yếu
tố chủ quan và nhóm yếu tố khách quan.
(1) Ảnh hưởng theo nhóm yếu tổ chủ quan: bao gồm các hoạt động của chủ đầu
tư, tổ chức tư vấn, nhà thầu xây lắp và chủ quản lý sử dụng khai thác công trình.
Trước hết phải kể đến nhà thầu thi công xây dựng công trình - người biến sản
phẩm công trình xây dựng từ bản vẽ thành hiện thực. Do vậy nhà thầu thi công xây
dựng đóng vai trò quan trọng trong công tác quản lý chất lượng. Nếu lực lượng này
không nắm vững kỹ năng quản lý chất lượng, không ý thức được tầm quan trọng của
công tác quản lý chất lượng công trình xây dựng, chỉ chạy theo lợi nhuận và thành
tích trước mắt thì sẽ rất dễ gây ảnh hưởng không tốt tới chất lượng công trình. Tiếp
theo là chủ đầu tư và chủ quản lý sử dụng công trình, những người có trách nhiệm rất
lớn đến chất lượng công trình, những đối tượng này cần phải nắm vững quy định về
quản lý chất lượng, lựa chọn các nhà thầu đủ năng lực và quản lý, giám sát chặt chẽ
để đảm bảo sản phẩm do mình đầu tư, quản lý đạt chất lượng tốt. Các nhà thầu khảo
sát, thiết kế, giám sát, thí nghiệm, kiểm định, … cũng là những đối tượng có tác động
không nhỏ đến chất lượng công trình.
Bên cạnh yếu tố con người, chất lượng nguyên vật liệu cũng là yếu tố quan trọng
ảnh hưởng đến chất lượng công trình. Nguyên vật liệu là một bộ phận cấu thành nên
công trình xây dựng, song với tình trạng hiện nay luôn có những vật liệu kém chất
lượng lưu thông song hành với vật liệu tốt trên thị trường, nếu không quản lý tốt để
những vật liệu kém chất lượng sử dụng vào công trình thì sẽ là nguy cơ lớn ảnh
hưởng đến chất lượng công trình. Công tác quản lý vật liệu ở đây phải thực hiện từ
Học viên:
Lớp cao học: 18C21
Luận văn thạc sĩ kỹ thuật
16
khâu lựa chọn vật liệu đến khâu thí nghiệm, kiểm định, bảo quản, sử dụng vật liệu.
Các quy định quản lý, các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, nếu thực sự khoa học, hợp
lý, phù hợp với thực tế sản xuất sẽ góp phần nâng cao chất lượng công trình xây
dựng; ngược lại sẽ cản trở sản xuất và ảnh hưởng đến chất lượng công trình trên bình
diện toàn quốc. Một yếu tố nữa có ảnh hưởng đến chất lượng công trình là vấn đề
an toàn trong thi công xây dựng và vệ sinh môi trường.
(2) Ảnh hưởng theo nhóm yếu tố khách quan: bao gồm công tác giải phóng mặt
bằng, khả năng nguồn vốn đầu tư xây dựng, thời tiết tiết khắc nghiệt (mưa, nắng,
gió, bão, …); địa hình, địa chất khu vục xây dựng công trình.
- Công tác giải phóng mặt bằng theo kế hoạch của dự án, chủ đầu tư lập và
phê duyệt phương án giải phóng mặt bằng để thưc hiện theo tiến độ của dự án. Tuy
nhiên, để có mặt bằng thi công việc phụ thuộc nhiều vào năng lực tổ chức, thực
hiện của chính quyền địa phương, ý thức của người dân nơi xây dựng công trình.
Do đó tiến độ của của dự án triển khai nhanh hay chậm phụ thuộc vào tiến độ giải
phóng mặt bằng.
- Khả năng nguồn vốn đầu tư xây dựng: + Việc phân bổ vốn đầu tư cho các dự
án không đáp ứng theo tiến độ dự án được phê duyệt, dẫn đến công trình không
đáp ứng tiến độ, đặc biệt là những công trình có nguồn vốn ngân sách Nhà nước
tập trung.
+ Thủ tục nghiệm thu thanh, quyết toán quá nhiều công đoạn (để lấy được tiền
tốn hàng tháng trời). Việc chậm quay vòng đồng vốn gây khó khăn cho nhà thầu.
+ Trong một hệ thống công trình còn chia ra nhiều nguồn vốn, với các kênh
đầu tư khác nhau dẫn đến thiếu đồng bộ, như đền bù vốn ngân sách Trung ương
cấp thẳng cho địa phương, vốn kênh mương nội đồng do ngân sách địa phương tự
cân đối và sự đóng góp của người hưởng lợi do vậy khi đầu mối, hệ thống kênh
chính hoàn thành, thiếu hệ thống kênh nội đồng hoặc phải đầu tư kéo dài, công
trình chậm kết thúc, hiệu quả dự án không cao.
+ Không bình đẳng trong quá trình thanh toán, luật quy định chủ đầu tư phải
trả lãi cho nhà thầu khi không có vốn thanh toán theo tiến độ đã ký kết hợp đồng,
Học viên:
Lớp cao học: 18C21
Luận văn thạc sĩ kỹ thuật
17
nhưng thực tế không có chủ đầu tư nào trả lãi cho nhà thầu, trong khi nhà thầu vay
vốn ngân hàng vẫn phải trả lãi. Nếu chỉ chậm thanh toán một năm nhà thầu có thể
phá sản vì Ngân hàng phạt do quá hạn vay và lãi xuất ngân hàng chiếm hết lợi
nhận của nhà thầu.
- Thời tiết khắc nghiệt cũng ảnh hưởng đến chất lượng, tiến độ công trình,
công nhân phải làm việc tăng ca, tăng kíp đôi khi đốt cháy giai đoạn, các điểm
dừng kỹ thuật không được như ý muốn, ảnh hưởng tới chất lượng.
- Địa chất phức tạp, ảnh hưởng tới công tác đánh giá khảo sát bổ sung, dẫn
đến nhà thầu, chủ đầu tư, thiết kế phải bàn bạc lại, mất thời gian do thay đổi, xử lý
các phương án nền móng công trình, giải pháp công trình, dẫn đến ảnh hưởng đến
tiến độ chung của công trình. Đối với các công trình có quy mô đầu tư lớn, yêu cầu
tiến độ cao thì đây là một điều bất lợi, bởi lẽ công việc xử lý nền móng phải tốn
một thời gian dài.
Ví dụ điển hình như các công trình xây dựng thuỷ lợi, thuỷ điện và công trình
giao thông phụ thuộc do có đặc thù riêng (khối lượng lớn, thời gian thi công kéo dài,
thi công trong điều kiện địa hình chặt hẹp, phức tạp, xa khu dân cư sinh sống, do đó
phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố khách quan.
1.5. Vai trò, ý nghĩa của quản lý CLCT xây dựng
1.5.1. Vai trò của quản lý CLCT xây dựng
Công tác quản lý chất lượng công trình xây dựng có vai trò to lớn đối với nhà
nước, chủ đầu tư, nhà thầu và các doanh nghiệp xây dựng nói chung, cụ thể như:
Đối với nhà nước, công tác quản lý chất lượng tại các công trình xây dựng được
đảm bảo sẽ tạo được sự ổn định trong xã hội, tạo được niềm tin đối với các nhà đầu tư
trong và ngoài nước tham gia vào lĩnh vực xây dựng, hạn chế được những rủi ro, thiệt
hại cho những người sử dụng công trình xây dựng nói riêng và cộng đồng nói chung.
Đối với chủ đầu tư, đảm bảo và nâng cao CLCT sẽ thoả mãn được các yêu
cầu của chủ đầu tư, tiết kiệm được vốn cho Nhà nước hay nhà đầu tư và góp phần
nâng cao chất lượng cuộc sống xã hội. Ngoài ra, đảm bảo và nâng cao chất lượng
tạo lòng tin, sự ủng hộ của các tổ chức xã hội và người hưởng lợi đối với chủ đầu
Học viên:
Lớp cao học: 18C21
Luận văn thạc sĩ kỹ thuật
18
tư, góp phần phát triển mối quan hệ hợp tác lâu dài.
Đối với nhà thầu, việc đảm bảo và nâng cao chất lượng công trình xây dựng
sẽ tiết kiệm nguyên vật liệu, nhân công, máy móc thiết bị, tăng năng suất lao động.
Nâng cao CLCT xây dựng có ý nghĩa quan trọng tới nâng cao đời sống người lao
động, thuận lợi cho việc áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ đối với nhà thầu.
CLCT xây dựng gắn với an toàn của thiết bị và nhân công nhà thầu trong quá trình
xây dựng. Ngoài ra, CLCT đảm bảo cho việc duy trì và nâng cao thương hiệu cũng
như phát triển bền vững của nhà thầu
1.5.2. Ý nghĩa của việc quản lý CLCT xây dựng
CLCT xây dựng là một vấn đề sống còn được Nhà nước và cộng đồng hết sức
quan tâm. Nếu công tác quản lý CLCT xây dựng thực hiện tốt sẽ không xảy ra sự
cố công trình, tuổi thọ công trình đáp ứng thời gian qui định trong hồ sơ thiết kế,
phát huy hiệu quả công trình, đáp ứng đầy đủ nhiệm vụ theo Quyết định phê duyệt.
Do vậy việc nâng cao công tác quản lý CLCT xây dựng không chỉ là nâng cao
CLCT mà còn góp phần chủ động phòng chống tham nhũng, ngăn ngừa thất thoát
trong xây dựng. Theo kết quả thực tế cho thấy, ở đâu tuân thủ nghiêm ngặt những
quy định của Nhà nước về quản lý CLCT thì ở đó chất lượng công trình tốt và hạn
chế được tiêu cực trong xây dựng. Công trình xây dựng khác với sản phẩm hàng
hoá thông thường khác vì công trình xây dựng có phạm vi ảnh hưởng tương đối
rộng, được thực hiện trong một thời gian dài, do nhiều người tham gia, gồm nhiều
nhiều vật liệu tạo nên và nó thường xuyên chịu tác động bất lợi của thời tiết và
điều kiện tự nhiên. Cũng vì đặc điểm đó, việc nâng cao công tác quản lý CLCT xây
dựng là rất cần thiết, bởi nếu xảy ra sự cố thì sẽ gây ra tổn thất rất lớn về người và
của, tác động xấu đến môi trường vùng hưởng lợi, đồng thời cũng rất khó khắc
phục hậu quả.
Nâng cao công tác quản lý CLCT xây dựng là góp phần nâng cao chất lượng
sống cho con người. Mỗi công trình được xây dựng có CLCT bảo đảm, tránh được
xảy ra những sự cố đáng tiếc thì sẽ tíết kiệm được đáng kể cho ngân sách quốc gia.
Học viên:
Lớp cao học: 18C21
Luận văn thạc sĩ kỹ thuật
19
Số tiền đó sẽ được dùng vào công tác đầu tư cho phát triển kinh tế xã hội, góp phần
nâng cao đời sống nhân dân, hoặc dùng cho công tác xóa đói giảm nghèo.
1.6. Kết luận chương 120
Qua một số khái niệm liên quan chất lượng sản phẩm, CLCT xây dựng, một
số yếu tố ảnh hưởng, một số chỉ tiêu đánh giá quản lý CLCT xây dựng và các vấn
đề liên quan giúp chúng ta có cái nhìn tổng quát về CLCT xây dựng và yêu cầu của
công tác quản lý CLCT xây dựng theo các giai đoạn của dự án.
Quản lý CLCT có vai trò và ý nghĩa quan trọng trong hoạt động xây dựng.
Không chỉ ở các nước đang có hạ tầng phát triển như Việt Nam mà các nước có
trình độ xây dựng phát triển cao cũng đặc biệt quan tâm đến công tác quản lý
CLCT. Ở các nước phát triển, trình độ quản lý và công tác QLCL càng chặt chẽ,
yêu cầu các tổ chức và cá nhân tham gia hoạt động xây dựng phải tuân thủ từ khâu
chuẩn bị và trong suốt quá trình thực hiện và khai thác dự án.
Ở nước ta, trong những năm vừa qua cùng với sự hội nhập kinh tế, lĩnh vực
đầu tư xây dựng công trình đã có những bước phát triển mạnh mẽ, công tác quản lý
CLCT xây dựng ngày càng được quan tâm và hoàn thiện hơn tuy nhiên vẫn còn
những tồn tại nhất định. Trong chương 2 của luận văn, tác giả tập trung nêu và
phân tích hiện trạng công tác quản lý CLCT để thấy được những việc đã làm được
và các vấn đề cần khắc phục trong công tác quản lý đầu tư xây dựng công trình,
làm cơ sở đưa ra những đề xuất cho vấn đề nghiên cứu.
Học viên:
Lớp cao học: 18C21
Luận văn thạc sĩ kỹ thuật
20
Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG
CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG Ở VIỆT NAM trang)
2.1. Các văn bản quản lý về quản lý ĐTXD và CLCT xây dựng
2.1.1. Quá trình hình thành văn bản pháp luật về quản lý đầu tư xây dựng
Theo quan niệm, Pháp luật là hệ thống các quy phạm có tính bắt buộc chung,
thực hiện lâu dài nhiều lần trong đời sống xã hội nhằm điều chỉnh các quan hệ xã
hội do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của Nhà nước. Ý chí Nhà
nước thể hiện một cách tập trung, thống nhất trong các văn bản quy phạm pháp
luật do cơ quan Nhà nước ban hành, thông qua các quan hệ xã hội, phát triển theo
mục tiêu, trật tự nhất định phù hợp với lợi ích Quốc gia và nhân dân cả nước. Như
vậy chức năng của pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội và bảo vệ xã hội được
pháp luật điều chỉnh.
Trong lĩnh vực xây dựng, Nhà nước thực hiện quản lý CLCT xây dựng thông
qua hệ thống văn bản pháp luật về xây dựng. Hệ thống văn bản quy phạm về lĩnh
vực này đã đổi mới theo sự phát triển của nền kinh tế đất nước, hướng tới tiệm cận
với thông lệ, tập quán khu vực và Quốc tế.
Học viên:
Lớp cao học: 18C21
Luận văn thạc sĩ kỹ thuật
21
Quản lý nhà nước (QLNN) về quản lý CLCT xây dựng thể hiện ở việc các
ngành, các cấp đã phân định rõ trách nhiệm của chủ thể, quán triệt và đã tách dần
chức năng quản lý sản xuất, kinh doanh ra khỏi chức năng QLNN về CLCT xây
dựng. Chính quyền không can thiệp trực tiếp mà gián tiếp thông qua công cụ pháp
luật tác động vào công tác quản lý sản xuất hàng ngày giữa người đặt hàng (Chủ
đầu tư) và người bán hàng (Nhà thầu) để làm ra sản phẩm xây dựng - một loại sản
phẩm đặc thù có tính đơn chiếc, thể hiện cụ thể như sau:
- Bản chất của QLNN về CLCT xây dựng mang tính vĩ mô, định hướng, hỗ
trợ và cưỡng chế của cơ quan công quyền. Các cơ quan QLNN chịu trách nhiệm về
tình hình CLCT xây dựng trên địa bàn được phân cấp quản lý chứ không phải là
chất lượng cụ thể của từng công trình.
- Về nội dung QLNN về CLCT xây dựng là tổ chức xây dựng văn bản quy
phạm pháp luật để tạo hành lang pháp lý, điều chỉnh hành vi và mối quan hệ của
các chủ thể tham gia hoạt động xây dựng hướng tới việc hoàn thành công trình có
chất lượng cao làm thoả mãn nhu cầu của khách hàng; nghiên cứu, soạn thảo và
ban hành quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật nhằm đưa ra các tiêu chí chuẩn mực để
làm ra sản phẩm xây dựng và đánh giá chất lượng sản phẩm cần đạt được.
Sau khi đã tạo được môi trường pháp lý và kỹ thuật, Nhà nước phải tổ chức
hướng dẫn việc thực thi trong thực tế. Việc kiểm tra phải được thực hiện theo đúng
nội dung và thẩm quyền nhằm cưỡng chế các chủ thể thực hiện đầy đủ về nội dung
và trình tự quy định trong công tác bảo đảm CLCT xây dựng không chỉ bảo vệ lợi
ích của chủ đầu tư, của các chủ thể khác mà cao hơn là lợi ích của cả cộng đồng.
2.1.2. Các văn bản liên quan đến quản lý ĐTXD và CLCT xây dựng
Sơ lược về tiến trình hình thành và đổi mới các văn bản về quản lý CLCT xây
dựng ở Nước ta qua các thời kỳ như sau:
- Văn bản đầu tiên về quản lý hoạt động xây dựng, lấy nguyên tắc hoạch toán
kinh tế và hiệu quả đầu tư làm thước đo của quản lý xây dựng cơ bản là Nghị định
số 232/CP ngày 06/6/1981 điều lệ quản lý xây dựng cơ bản. Tiếp đó là Nghị định
385/HĐBT ngày 07/8/1990 sửa đối bổ sung thay thế Nghị định số 232/CP ngày
Học viên:
Lớp cao học: 18C21
Luận văn thạc sĩ kỹ thuật
22
06/6/1981 mà bản chất đối tượng quản ý kinh tế nhiều thành phần; Nghị định
177/CP ngày 20/10/1994 đã điều chỉnh khái niệm quản lý xây dựng cơ bản thành
“quản lý đầu tư và xây dựng” và “quản lý công trình xây dựng” thành quản lý “dự
án đầu tư”; Nghị định 42/CP ngày 16/7/1996 “Điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng”,
phù hợp dần với nền kinh tế hàng hóa, thể chế hóa rõ các chủ thể; Nghị định
52/1999/NĐ-CP ngày 08/7/1999 “Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng”, cải cách
hành chính và phân rõ quản lý nguồn vốn; điều chỉnh vị thế của chủ đầu tư.
Sự kiện quan trọng nhất trong tiến trình pháp chế hóa hoạt động xây dựng của
Nước ta là, tại kỳ họp thứ 4 của Quốc hội khóa XI là ngày 26/11/2003 ban hành
Luật xây dựng số 16/2003/QH11; đến ngày ngày 19/6/2009 Quốc hội thứ XII ban
hành Luật số 38/2009/QH12 sửa đổi, bổ sung liên quan đến đầu tư xây dựng cơ
bản của Luật Xây dựng
Sau khi có Luật xây dựng, Nhà nước đã có các văn bản quy phạm pháp luật
hướng dẫn việc thực hiện quản lý CLCT xây dựng của Luật xây dựng. Tại thời
điểm hiện nay các văn bản hướng dẫn thực hiện quản lý CLCT xây dựng, bao gồm
(Nghị định, thông tư, các quyết định....), nội dung đã khá đầy đủ và chi tiết:
+ Nghị định của Chính phủ: số 12/2009/NĐ-CP ngày 12/02/2009 về Quản lý
dự án đầu tư xây dựng công trình; số 209/2004/NĐ-CP ngày 16/12/2004, số
49/2008/NĐ-CP ngày 18/4/2008 về Quản lý chất lượng công trình xây dựng; số
23/2009/NĐ-CP ngày 27/02/2009 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính
trong hoạt động xây dựng; kinh doanh bất động sản; khai thác, sản xuất, kinh
doanh vật liệu xây dựng; quản lý công trình hạ tầng kỹ thuật; quản lý phát triển nhà
và công sở;
+ Thông tư của Bộ Xây dựng: số 03/2009/TT-BXD ngày 26/3/2009 quy định
chi tiết một số nội dung của Nghị định 12/2009/NĐ-CP ngày 12/02/2009 về Quản
lý dự án đầu tư xây dựng công trình; số 27/2009/TT-BXD ngày 31/7/2009 hướng
dẫn một số nội dung về Quản lý chất lượng công trình xây dựng; số 22/2009/TTBXD ngày 06/7/2009 quy định chi tiết về điều kiện năng lực trong hoạt động xây
dựng; số 22/2010/TT-BXD ngày 03/12/2010 quy định an toàn lao động trong thi
Học viên:
Lớp cao học: 18C21
Luận văn thạc sĩ kỹ thuật
23
công xây dựng; số 03/2011/TT-BXD ngày 06/4/2011 hướng dẫn hoạt động kiểm
định, giám định và chứng nhận đủ điều kiện đảm bảo an toàn chịu lực, chứng nhận
sự phù hợp về chất lượng công trình xây dựng;
Ngoài ra, đối với các bộ, ngành có chức năng quản lý về XDCT chuyên ngành
đã xây dựng một số văn bản quản lý, như: Bộ NN&PTNT ban hành Thông tư số
84/2011/TT-BNNPTNT ngày 12/12/2011 Quy định một số nội dung về quản lý dự
án XDCT sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước do Bộ quản lý; Bộ Giao thông
vân tải ban hành Quy chế TVGS thi công xây dựng công trình trong ngành giao
thông vận tải Ban hành kèm theo Quyết định số 22/2008/QĐ-BGTVT ngày
20/10/2008 của Bộ Giao thông vận tải…
Các văn bản trên đã quy định các nguyên tắc cơ bản về quản lý CLCT xây
dựng, xác định và phân định rõ các chủ thể tham gia hoạt động liên quan đến
CLCT xây dựng, gồm cơ quan quản Nhà nước, Chủ đầu tư hoặc nhà thầu trong
hoạt động xây dựng. Nội dung hoạt động về lĩnh vực này như sau:
- Nhà thầu trong hoạt động xây dựng: là người làm ra các sản phẩm, như khảo
sát, thiết kế, thi công, cung ứng...phải tổ chức tự kiểm tra chất lượng sản phẩm
mình làm ra và cam kết chất lượng trước khi bàn giao cho khách hàng.
- Chủ đầu tư: với tư cách là người quản lý khách hàng, nên phải có bộ phận có
năng lực chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với loại và cấp công trình tiến hành công
việc giám sát quá trình làm ra sản phẩm của các nhà thầu, đánh giá chất lượng sản
phẩm do các nhà thầu cung cấp giúp chủ đầu tư thử nghiệm sản phẩm.
- Cơ quan quản lý nhà nước: thông qua công cụ pháp luật nhằm bảo vệ lợi ích
của Quốc gia và lợi ích cộng đồng và thực hiện trách nhiệm QLNN về chất lượng
công trình xây dựng, giám sát sự tuân thủ pháp luật của các chủ thể.
QLNN về CLCT xây dựng đã xác định rõ hai cấp quản lý ở Trung ương và ở
các Địa phương thể hiện rõ trong Luật xây dựng và Nghị định, tại Điều 37 Nghị
định 209/2004/NĐ-CP ngày 16/12/2004 của Thủ tướng Chính phủ đã quy định:
"Trách nhiệm QLNN về CLCT xây dựng: Bộ Xây dựng thống nhất QLNN về
CLCT xây dựng trong phạm vi cả nước; Các Bộ có quản lý công trình xây dựng
Học viên:
Lớp cao học: 18C21
Luận văn thạc sĩ kỹ thuật
24
chuyên ngành phối hợp với Bộ Xây dựng trong việc QLCL các CTXD chuyên
ngành; UBND cấp tỉnh theo phân cấp có trách nhiệm QLNN về CLCT xây dựng
trong phạm vi địa giới hành chính do mình quản lý”.
Mô hình tổng quát QLNN về quá trình tạo ra sản phẩm CLCT xây dựng đảm
bảo chất lượng thể hiện như sơ đồ Hình 2.1 và Hình 2.2
Hình 2.1. Sơ đồ tạo ra CTXD chất lượng
Hình 2.2.Sơ đồ QLNN về CLCT xây dựng
2.3. Thực trạng công tác quản lý CLCT xây dựng ở Việt Nam
2.3.1. Giới thiệu
Trong những năm qua, hoạt động của lĩnh vực xây dựng và quản lý hoạt động
xây dựng đã có sự đổi mới mạnh mẽ. Cơ chế, chính sách về quản lý đầu tư xây
dựng luôn đổi mới theo hướng hoàn thiện và phân cấp mạnh cho cơ sở, cải cách
thủ tục hành chính, tăng cường công tác thanh tra kiểm tra và quản lý trật tự xây
dựng phù hợp với cơ chế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Hiện nay,
Nhà nước quản lý đầu tư xây dựng và CLCT xây dựng theo Luật xây dựng số
16/2003/QH11 và Luật sửa đổi, bổ sung của Luật Xây dựng số 38/2009/QH12 và
các Nghị định, thông tư, quyết định có liên quan …. Hệ thống văn bản này quy
định chi tiết việc quản lý, tổ chức thực hiện xây dựng và quản lý CLCT của các tổ
chức, cá nhân có liên quan tham gia từ khi hình thành ý tưởng đầu tư, thực hiện
đầu tư đến hoàn thiện bàn giao đưa vào khai thác, sử dụng.
Học viên:
Lớp cao học: 18C21
Luận văn thạc sĩ kỹ thuật
25
Có thể nói, chất lượng các công trình xây dựng ở nước ta về cơ bản là tốt.
Phần lớn các công trình đều đảm bảo độ an toàn và công năng đạt yêu cầu của thiết
kế và đang phát huy tốt vai trò của mình trong mọi mặt của đời sống xã hội hiện
nay. Điều đó có cho thấy rằng các hoạt động đầu tư xây dựng từ ý tưởng đầu tư,
thực hiện đầu tư đến hoàn thiện bàn giao đưa vào khai thác, sử dụng được thực
hiện tốt; tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều công trình có chất lượng
không đạt yêu cầu và thông thường, vấn đề này cần được quan tâm phân tích và
mổ xẻ nhiều hơn. Trong khuôn luận văn, tác giả xin đi sâu nghiên cứu thực trạng
quản lý CLCT xây dựng và xác định nguyên nhân dẫn tới suy giảm chất lượng
công trình xây dựng trong các giai đoạn dự án.
1. Hiện trạng suy giảm chất lượng công trình xuất phát từ công tác lập và
thẩm định dự án đầu tư xây dựng
Dự án đầu tư xây dựng công trình theo định nghĩa của Luật Xây dựng là tập
hợp các đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để xây dựng mới, mở rộng hoặc cải
tạo những công trình xây dựng nhằm mục đích phát triển, duy trì, nâng cao chất
lượng công trình hoặc sản phẩm, dịch vụ trong một thời hạn nhất định.
Dự án đầu tư xây dựng là do chủ đầu tư lập hoặc thuê tư vấn lập, trình các cấp
có thẩm quyền thẩm định và phê duyệt. Dự án đầu tư xây dựng gồm hai phần chính
là thuyết minh dự án và thiết kế cơ sở. Nếu tách riêng ảnh hưởng của thiết kế cơ sở
tới chất lượng công trình thì nhìn bề ngoài dường như chất lượng của công tác lập
dự án đầu tư chủ yếu chỉ ảnh hưởng tới hiệu quả kinh tế-xã hội của công trình
trong quá trình khai thác, sử dụng nhiều hơn là tới chất lượng cụ thể của công
trình. Nói cách khác, công trình xây dựng được nghiệm thu sau thi công vẫn có thể
đảm bảo chất lượng trong khi hiệu quả kinh tế-xã hội trong khai thác sử dụng công
trình sau này có thể lại không cao. Tuy nhiên thực tế cho thấy chất lượng của công
tác lập dự án đầu tư xây dựng cũng có ảnh hưởng đáng kể tới chất lượng của công
trình. Bản chất hiện tượng có thể được minh họa qua các tình huống sau:
1.1. Việc lập và thẩm định chủ trương đầu tư chỉ được coi như là 1 thủ
tục hành chính
Học viên:
Lớp cao học: 18C21