Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tiểu luận tình huống Sai phạm đạo đức kế toán trong Ủy ban nhân dân xã

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.74 KB, 16 trang )

MỞ ĐẦU
Sự tiến bộ của xã hội đòi hỏi người hành nghề trong bất cứ lĩnh vực nào
cũng phải tuân thủ đạo đức về nghề nghiệp. Trong đó, kế toán vừa được coi là
một nghề, một công việc, vừa được coi là một công cụ quản lý, giám sát chặt
chẽ, có hiệu quả mọi hoạt động kinh tế, tài chính, cung cấp thông tin đầy đủ,
trung thực, kịp thời, công khai, minh bạch, đáp ứng yêu cầu tổ chức, quản lý
điều hành của cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân. Chính vì
vậy, ở bất kỳ nơi nào, lúc nào xã hội đều đòi hòi người làm công tác kế toán phải
có đạo đức nghề nghiệp. Đạo đức nghề nghiệp chính là tài sản “vô hình” quý giá
của người hành nghề, nhất là đối với người làm công tác kế toán trong các cơ
quan nhà nước, bởi nghề nghiệp của họ có liên quan mật thiết đến việc sử dụng
tiền từ ngân sách nhà nước, các loại tài sản do Nhà nước đầu tư. Do đó, sự vi
phạm quy tắc đạo đức nghề nghiệp của cán bộ kế toán trong các cơ quan nhà
nước dù ở mức độ nào cũng sẽ khiến cho lợi ích của Nhà nước, của tập thể, của
nhân dân bị xâm phạm.
Ủy ban nhân dân cấp xã là cơ quan hành chính của các địa phương cấp xã,
cấp chính quyền địa phương cấp cơ sở, gần dân nhất. Quyết định dự toán thu
ngân sách nhà nước trên địa bàn xã; dự toán thu, chi ngân sách địa phương và
phân bổ dự toán ngân sách cấp xã; phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương;
các chủ trương, biện pháp để triển khai thực hiện ngân sách địa phương và điều
chỉnh dự toán ngân sách địa phương theo quy định của pháp luật; giám sát việc
thực hiện ngân sách đã được Hội đồng nhân dân xã quyết định. Theo đó, kế toán
có nhiệm vụ quản lý tài chính trong việc thu, chi; sử dụng và quản lý ngân sách
nhà nước ở cơ quan nhằm đảm bảo cho mọi hoạt động được thực hiện.
Mặc dù kế toán được đánh giá là một trong số những nghề nghiệp có khả
năng mang lại thu nhập nhưng chỉ đúng với môi trường làm việc, người làm
công tác kế toán thường được trả lương cao hơn, được đối xử trọng vọng hơn.
Nhưng tại các cơ quan nhà nước, mức lương của họ được trả theo hệ thống
thang bảng lương của cán bộ, công chức, viên chức – vốn được đánh giá là còn
thấp so với nhiều nước trên thế giới, chưa đủ để đảm bảo cuộc sống khi xã hội
1




ngày càng phát triển với những đòi hỏi về nhu cầu vật chất, văn hoá, tinh thần
ngày càng cao. Chính điều này đã khiến cho chất lượng công việc của những
người làm công tác kế toán trong các cơ quan nhà nước nói chung, tại Ủy ban
nhân dân cấp xã nói riêng chưa cao, thậm chí trong không ít trường hợp còn xảy
ra tham nhũng, lãng phí, làm thất thoát tài sản của Nhà nước, ảnh hưởng nghiêm
trọng đến niềm tin của nhân dân vào cơ quan bảo vệ pháp luật hay tình trạng làm
việc “chân trong, chân ngoài” như ở một số cơ quan nhà nước, tổ chức đơn vị
hành chính sự nghiệp khác.
Chính vì vậy, quản lý hoạt động kế toán tại Ủy ban nhân dân cấp xã là vấn
đề có tính cấp thiết nhằm tìm ra những giải pháp cho việc quản lý tốt tài sản, sử
dụng hiệu quả các nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước. Với những gì đặt ra,
tôi chọn “Sai phạm đạo đức kế toán trong Ủy ban nhân dân xã A, huyện A”
làm nội dung để viết bài tiểu luận tình huống cuối khoá.

2


NỘI DUNG
Phần 1. Mô tả tình huống
Tốt nghiệp trường Đại học kinh tế Đà Nẵng, Nguyễn Văn T (quê T ở
huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương) được nhận về công tác tại Phòng Kế toán
của Ủy ban nhân dân xã A, huyện A. Là thanh niên chưa có gia đình, sống xa
nhà nên T thường tụ tập chơi bời cùng một số thanh niên tại nơi tạm trú nên nợ
nần chồng chất, tiền lương không đủ trả nợ.
Ở phòng Kế toán, T được giao nhiệm vụ sử dụng kinh phí của cơ quan
để chi mua văn phòng phẩm và quyết toán kinh phí công tác. Ngày 20/5/2016,
để cung cấp văn phòng phẩm cho cán bộ công tác trong quý II, T đã đến Đại lý
X chuyên bán buôn các loại văn phòng phẩm để đặt mua cho Ủy ban nhân dân

xã A một số lượng hàng hoá gồm: giấy in, mực dấu, bút bi, bút đánh dấu, bút
xoá, bút chì, thước kẻ, tẩy, sổ công tác…Các hàng hoá T đều lấy loại rẻ nhưng
khi lập bảng kê mua hàng hoá thì khai là loại tốt, giá thành cao hơn thực tế là
1.500.000 đồng. Lợi dụng thời gian Kế toán trưởng vắng mặt do phải đi điều trị
bệnh hiểm nghèo dài ngày, T đã yêu cầu quyết toán số hàng hoá đó cho cơ quan
và đã biển thủ được số tiền trên để trả nợ.
Tiếp đó, ngày 30/5/2016, T tiếp tục dùng thủ đoạn để lập bảng kê thanh
toán công tác phí, tiến hành kê khai và lập các loại giấy tờ khống, tẩy xoá, giả
mạo chữ ký của cán bộ trong cơ quan để thanh toán kinh phí công tác và đã rút
được hơn 5.000.000 đồng chi tiêu. Qua theo dõi các biểu hiện của T, lãnh đạo
Ủy ban nhân dân xã đã tiến hành kiểm tra và ngoài việc phát hiện các sai phạm
trên còn xác định T đã lập bảng kê chi tiền cho những người tham dự hội thảo,
hội nghị trong tháng 4/2016 khống để chiếm dụng một khoản tiền là 3.500.000
đồng. Lãnh đạo Ủy ban nhân dân xã Đăk Hà đã yêu cầu T báo cáo lại toàn bộ sự
việc, tiến hành kiểm điểm, buộc T phải khắc phục về mặt nghiệp vụ và trả lại
các khoản tiền đã chiếm dụng nói trên. Nhưng T đã không trả lại mà tự ý bỏ việc
về quê tại tỉnh Hải Dương. Lãnh đạo Ủy ban nhân dân xã A tiến hành họp xét kỷ
luật T nhưng T vẫn tiếp tục trốn ở quê, không đến cơ quan...
Phần 2. Phân tích tình huống
3


2.1. Cơ sở lý luận
Thực hiện chính sách của Đảng về phát triển cán bộ, công chức và xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức theo kế hoạch học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh trong tình hình mới. Đồng thời, trên cơ sở các quy định
của các văn bản quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành như:
* Các văn bản của Quốc hội bao gồm:
- Luật số 88/2015/QH13, của ngày 20/11/2015 Quốc hội về Luật kế
toán;

- Luật số 22/2008/QH12, ngày 13/11/2008 của Quốc hội về Luật cán bộ,
công chức;
- Nghị định số 128/2004/NĐ-CP, ngày 31/5/2004 của Chính phủ về
việc Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật kế toán áp
dụng trong lĩnh vực kế toán nhà nước;
- Nghị định số 34/2011/NĐ-CP, ngày 17/5/2011 của Chính phủ về việc
xử lý kỷ luật đối với công chức;
- Nghị định số 118/2006/NĐ-CP, ngày 10/10/2006 của Chính phủ về
việc xử lý trách nhiệm vật chất đối với cán bộ, công chức;
Đối tượng kế toán thuộc hoạt động hành chính, sự nghiệp, hoạt động của
đơn vị, tổ chức có sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước gồm có tiền và các
khoản tương đương tiền; Vật tư và tài sản cố định; Nguồn kinh phí, quỹ; . Các
khoản thanh toán trong và ngoài đơn vị kế toán; Thu, chi và xử lý chênh lệch
thu, chi hoạt động; Đầu tư tài chính, tín dụng nhà nước; Các tài sản khác liên
quan đến đơn vị kế toán.
Như vậy, Ủy ban nhân dân xã A là một cơ quan nhà nước có sử dụng
kinh phí ngân sách Nhà nước. Các nội dung công tác kế toán, tổ chức bộ máy kế
toán, người làm kế toán của Ủy ban nhân dân xã A đều phải tuân thủ các quy
định của pháp luật về kế toán, trong đó chủ yếu là Luật kế toán năm 2015 và
Nghị định số 128/2004/NĐ-CP.
Ngoài ra, mọi hoạt kế toán của Ủy ban nhân dân xã A phải tuân thủ quy
định tại Quyết định số 19/2006/QĐ-BTC ngày 30 tháng 3 năm 2006 về việc ban
4


hành chế độ kế toán hành chính sự nghiệp. Chế độ kế toán hành chính sự nghiệp
áp dụng cho về việc ban hành chế độ kế toán hành chính sự nghiệp bao gồm: Hệ
thống Chứng từ kế toán; Hệ thống Tài khoản kế toán; Hệ thống Sổ kế toán và
hình thức kế toán; Hệ thống Báo cáo tài chính. Mọi hoạt động của cán bộ kế
toán trong về việc ban hành chế độ kế toán hành chính sự nghiệp đều phải tuân

thủ các quy định này.
2.2. Phân tích tình huống
Phân tích tình huống trên là nhằm làm sáng tỏ những vi phạm và các quy
định về trách nhiệm kỷ luật của cán bộ, công chức vi phạm theo quy định của
pháp luật hiện hành. Đồng thời, thông qua đó cần có biện pháp để khắc phục,
quản lý cán bộ, nhất là cán bộ làm công tác tài chính - kế toán ở các cơ quan
hành chính như Ủy ban nhân dân xã A.
Hành vi của Nguyễn Văn T đã tác động đến các đối tượng kế toán theo
chiều hướng tiêu cực, vi phạm các quy định của pháp luật về kế toán, xâm phạm
đến lợi ích của tập thể mà cụ thể là các khoản tiền mà Nhà nước giao cho Ủy
ban nhân dân xã sử dụng phục vụ cho các hoạt động công vụ.
Các vi phạm của T là xâm phạm đến chế độ kế toán hành chính sự
nghiệp ở mục thứ nhất là hệ thống chứng từ kế toán về chỉ tiêu vật tư, chỉ tiêu
tiền tệ. Theo quy định thì mọi nghiệp vụ kinh tế, tài chính liên quan đến hoạt
động của Ủy ban nhân dân xã đều phải lập chứng từ kế toán. Chứng từ kế toán
chỉ lập một lần cho một nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh. Nội dung chứng
từ phải rõ ràng, trung thực với nội dung nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh. T
đã có nhiều hành vi không trung thực với nội dung nghiệp vụ kinh tế, tài chính
phát sinh.
Thái độ của T đối với công tác kiểm tra của lãnh đạo Ủy ban nhân dân xã
Đăk Hà là bất cần và cố tình chiếm dụng các khoản tiền công. Theo quy định
của Luật phòng, chống tham nhũng năm 2012 thì những hành vi của T là tham
nhũng. Mặt khác, việc T không chấp hành các quy định của pháp luật và của
lãnh đạo Ủy ban nhân dân xã, tự ý bỏ việc chứng tỏ T đã cố tình vi phạm kỷ
luật, không chấp hành pháp luật của Nhà nước, quyết định của cấp trên. Đồng
5


thời, vi phạm đạo đức của cán bộ, công chức; vi phạm đạo đức nghề nghiệp kế
toán. Các hành vi này phải bị xử lý theo quy định của pháp luật.

Về phía Ủy ban nhân dân xã A đã không quản lý cán bộ của mình một
cách chặt chẽ, đặc biệt là không quan tâm đến lối sống và đạo đức của cán bộ.
Khi phát hiện vi phạm của T đã không xử lý nghiêm minh ngay từ đầu khiến cho
T coi thường kỷ cương, pháp luật và trong một thời gian ngắn đã tiếp tục “trượt
dốc”. Nguyên tắc tập trung, dân chủ trong quản lý cán bộ, công chức dưới quyền
tại Ủy ban nhân dân xã đã không được thực hiện tốt. Việc sử dụng cán bộ của
lãnh đạo Ủy ban nhân dân xã đã không dựa trên phẩm chất chính trị, đạo đức và
năng lực thi hành công vụ. Vì vậy, đã không bảo vệ, quản lý và sử dụng hiệu
quả, tiết kiệm tài sản nhà nước được giao mà còn tạo cơ hội cho T thực hiện
nhiều vi phạm.
Khi các vi phạm của T đã trở thành hệ thống, lãnh đạo Ủy ban nhân
dân xã Đăk Hà vẫn tiếp tục có hướng xử lý nương nhẹ bằng biện pháp hành
chính nội bộ. Nhưng T đã không còn có ý thức tôn trọng tập thể nữa, coi
thường công việc của mình và đã có hành vi tiêu cực tiếp theo là bỏ việc. Như
vậy, các hướng xử lý của lãnh đạo Ủy ban nhân dân xã là chưa hợp lý, cần
phải có biện pháp khắc phục.
* Hậu quả của tình huống:
Hành vi của T và của lãnh đạo Ủy ban nhân dân xã A đã để lại những
hậu quả cho xã hội, cho nhà nước và cho chính cơ quan của mình.
Thứ nhất, đối với Nhà nước.
Các hành vi vi phạm của T đã làm rối loạn cơ chế kiểm soát chi, đi
ngược lại các quy định của luật kế toán và chế độ kế toán hành chính sự nghiệp
dẫn làm thất thoát tiền, kinh phí của Nhà nước được cung cấp để đảm bảo cho
hoạt động công vụ của cán bộ và việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của Ủy ban nhân dân xã A. Điều đó trực tiếp làm ảnh hưởng đến chất lượng thực
thi công vụ, nhiệm vụ của cơ quan tại địa phương nói riêng và đến hiệu quả bảo
vệ pháp luật của Nhà nước trước các hành vi vi phạm pháp luật tại địa bàn tỉnh
Kon Tum nói chung.
6



Thứ hai, đối với xã hội.
Tình huống trên đã để lại những hậu quả đối với xã hội như làm mất
niềm tin của nhân dân vào cán bộ và cơ quan nhà nước. Không ít người dân sẽ
có tâm lý nghi ngờ tính nghiêm minh của pháp luật, có thái độ không đúng đắn
đối với cơ quan đại diện cho quyền lực nhà nước.
Thứ ba, đối với Ủy ban nhân dân xã.
Các vi phạm của T và các thiếu sót của lãnh đạo Ủy ban nhân dân xã đã
làm ảnh hưởng không nhỏ đến chế độ công tác nội bộ của cơ quan, làm giảm sút
hiệu quả công tác nội bộ của đơn vị. Điều đó có ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý,
nhận thức của cán bộ, công chức trong cơ quan. Bất kỳ một cơ quan nhà nước
nào khi hoạt động công tác nội bộ không được tốt thì tất yếu sẽ ảnh hưởng rất
lớn đến việc thực hiện chức năng bên ngoài.
*Nguyên nhân xảy ra tình huống:
Nguyên nhân xảy ra tình huống trên gồm có nguyên nhân khách quan và
nguyên nhân chủ quan.
- Nguyên nhân khách quan:
Nguyên nhân khách quan làm nảy sinh tình huống trên bao gồm:
Thứ nhất, những tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường đến nhu cầu
và lối sống của một bộ phận cán bộ, công chức, trong đó có T. Là một thanh
niên được đào tạo tại một trường đại học có danh tiếng ở Miền Trung, được
tuyển dụng vào công tác tại một cơ quan , nhưng T đã không nhận thức được vị
trí, vai trò, tầm quan trọng của công việc mà mình làm, không có chí hướng
phấn đấu, không có lý tưởng để vươn lên mà ăn chơi, đua đòi để đến mức phải
nợ nần và tìm cách vi phạm pháp luật, vi phạm kỷ luật, hy sinh tương lai và sự
trong sạch của mình để lấy tiền của công, coi thường lợi ích của Nhà nước.
Thứ hai, thiếu người có trách nhiệm và năng lực quản lý hoạt động kế
toán-tài chính. Việc người kế toán trưởng vắng mặt do phải đi điều trị bệnh dài
ngày cũng là một yếu tố khách quan dẫn đến mảng công việc này không được
kiểm soát chặt chẽ. Lãnh đạo Ủy ban nhân dân xã A đã không bố trí người có

trách nhiệm, có năng lực, có đạo đức phụ trách và chịu trách nhiệm kiểm soát
7


các hoạt động kế toán tại cơ quan trong thời gian này, khiến cho T có cơ hội để
tiến hành các hoạt động vi phạm. Điều đó cho thấy công tác quản lý tiền, các
khoản chi tài chính từ nguồn ngân sách nhà nước tại Ủy ban nhân dân xã Đăk
Hà như vậy là chưa có hiệu quả, dẫn đến chế độ kiểm soát chi đã không được
thực hiện tốt, trình tự luân chuyển và kiểm tra chứng từ kế toán chưa được thực
hiện đúng.
Thứ ba, các quy định pháp luật về chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế
toán chưa được T nhận thức một cách đầy đủ. Chuẩn mực đạo đức quy định các
nguyên tắc, nội dung, tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp của người làm kế toán
bao gồm kế toán viên, phụ trách kế toán, kế toán trưởng trong các doanh nghiệp,
cơ quan, tổ chức và những người hành nghề kế toán theo luật định (Thông tư số
70/2015/TT-BTC,ngày 05/5/2015 của Bộ Tài chính về việc ban hành Chuẩn mực
đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán). Các nguyên tắc, nội dung, tiêu chuẩn
đạo đức nghề nghiệp được quy lại thành những tiêu chí về đạo đức, mà người
làm nghề kế toán phải có và là thước đo đánh giá, nhận xét về đạo đức nghề
nghiệp của họ. Tuy nhiên, trên thực tế, người làm kế toán chỉ chú trọng đến
nghiệp vụ chứ không mấy chú ý đến việc giữ gìn những tiêu chí cơ bản của
chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán. Ngay trong chính Ủy ban nhân dân xã
Đăk Hà, từ lãnh đạo cho đến cán bộ, công chức của Ủy ban nhân dân xã cũng đã
không coi đó là cơ sở để lựa chọn, sử dụng cán bộ kế toán của cơ quan mình.
- Nguyên nhân chủ quan:
Nguyên nhân chủ quan làm nảy sinh tình huống trên là do T bị chi phối
hoặc bị tác động bởi lợi ích vật chất mang lại khi vi phạm các quy định của nghề
nghiệp. Các lợi ích vật chất đó đã làm ảnh hưởng đến sự trung thực, khách quan
và độc lập nghề nghiệp của T, khiến T rơi vào cám dỗ vật chất, vốn dĩ thuộc về
lối sống tầm thường của T. Bên cạnh đó, các vi phạm của T còn bắt nguồn từ sự

thúc ép phải trả các khoản nợ do mình đã chơi bời tạo nên.
Sự thờ ơ thiếu quan tâm sâu sát của lãnh đạo Ủy ban nhân dân xã A và
các đồng nghiệp cùng cơ quan cũng là một trong những nguyên nhân chủ quan

8


khiến cho T rơi vào tình huống vi phạm. Nếu được sự quan tâm thường xuyên
và sự chỉ bảo thực sự của tập thể, có lẽ T đã không dấn sâu vào vi phạm như thế.
Phần 3. Đề xuất phương án giải quyết tình huống
3.1. Mục tiêu giải quyết tình huống
Mục tiêu của việc xử lý tình huống nêu trên là căn cứ vào chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước để xác định các phương án giải
quyết tình huống và lựa chọn phương án tối ưu nhất cho việc giải quyết tình
huống nêu trên.
3.2. Xây dựng, phân tích và lựa chọn phương án giải quyết tình
huống
Có một số phương án giải quyết tình huống trên, cụ thể:
Phương án 1. Ủy ban nhân dân xã A đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm
quyền tiến hành xử lý vi phạm hành chính đối với T
Mục tiêu của phương án là xử lý bằng cách áp dụng chế tài hành chính
đối với T.
Nội dung chính của phương án:
- Ủy ban nhân dân xã A báo cáo Ủy ban nhân dân huyện A về vi phạm
pháp luật của T và đề xuất biện pháp xử lý hành chính theo quy định tại Nghị
định của Chính phủ số 105/2013/NĐ-CP ngày 04/11/2004 về quy định xử phạt
hành chính trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán độc lập.
- Ủy ban nhân dân huyện A yêu cầu T có mặt tại trụ sở cơ quan để giải
quyết việc vi phạm;
- Ủy ban nhân dân huyện A chỉ đạo Thanh tra huyện tiến hành kiểm tra,

xác minh làm rõ sai phạm của T;
- Ủy ban nhân dân huyện A tiến hành lập biên bản vi phạm hành chính
của T;
- Ủy ban nhân dân huyện A tiến hành xử phạt vi phạm hành chính từ
ngày được giao quyết định xử phạt vi phạm hành chính, nếu T không tự nguyện,
tự giác thực hiện thì sẽ bị cưỡng chế thi hành.
Nguồn lực để thực hiện phương án: kinh phí từ ngân sách nhà nước.
9


Cơ quan chủ trì: Ủy ban nhân dân huyện A.
Cơ quan phối hợp: Ủy ban nhân dân xã A.
Công cụ: Các văn bản về xử phạt vi phạm hành chính.
Phương án 2. Ủy ban nhân dân xã Axử lý kỷ luật đối với T và buộc T
phải hoàn trả các khoản tiền đã chiếm dụng.
- Mục tiêu của phương án: Ổn định về tổ chức, tạo cho T có cơ hội sửa
chữa lỗi lầm và khắc phục hậu quả do mình gây ra.
- Nội dung chính của phương án:
+ Chuẩn bị: Ủy ban nhân dân xã tiến hành thành lập Hội đồng xử lý kỷ
luật và bồi thường thiệt hại xử lý hành vi vi phạm của T có sự tham gia của lãnh
đạo Ủy ban nhân dân xã, công đoàn, đoàn thanh niên của Ủy ban nhân dân xã.
+ Tổ chức thực hiện:
Cử đại diện công đoàn đến nhà T để động viên, thuyết phục, đồng thời
giải thích cho T thấy rõ hậu quả hành vi của mình, nhận lấy khuyết điểm và
quyết tâm sửa chữa. Đồng thời, hoàn trả lại số tiền đã vi phạm.
Tiến hành các trình tự nhằm xác định mức xử lý kỷ luật và mức bồi
thường vật chất do T gây ra.
Yêu cầu T trở về cơ quan công tác (Nếu không bị bắt giữ theo quy định
của tố tụng hình sự).
- Nguồn lực để thực hiện phương án:

+ Ngân sách: Kinh phí hành chính đảm bảo cho hoạt động tổ chức họp
cơ quan, kinh phí công tác phí cho người đại diện công đoàn đến nhà T để vận
động.
Cơ quan chủ trì: Ủy ban nhân dân xã A.
Cơ quan phối hợp: Lãnh đạo các ban, ngành, đoàn thể.
+ Phương tiện, công cụ: Xe công.
Phương án 3. Ủy ban nhân dân xã A tiến hành khởi tố T với tội danh
tham ô theo quy định tại Điều 278 Bộ luật hình sự.
- Mục tiêu của phương án là xử lý nghiêm minh hành vi vi phạm pháp
luật của T, thể hiện sự nghiêm minh và công bằng của pháp luật, không phân
10


biệt người vi phạm là người trong cơ quan bảo vệ pháp luật hay ngoài cơ quan
bảo vệ pháp luật.
- Nội dung chính của phương án:
+ Chuẩn bị thực hiện phương án: Lãnh đạo Ủy ban nhân dân xã A tiến
hành họp cấp uỷ để đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm
pháp luật của T để quyết định biện pháp xử lý thích hợp.
+ Tổ chức thực hiện:
Gửi đơn và các giấy tờ liên quan đến cơ quan có chức năng (Tòa án) giải
quyết: Ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tiến hành các hoạt động điều
tra , truy tố theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Tổ chức rút kinh nghiệm trong cơ quan, báo cáo cấp trên.
- Nguồn lực để thực hiện phương án:
+ Ngân sách: Kinh phí từ ngân sách nhà nước.
+ Cơ quan chủ trì: Ủy ban nhân dân xã A
+ Cơ quan phối hợp: Toàn án nhân dân huyện, Công an huyện A
+ Công cụ, phương tiện: Các văn bản tố tụng hình sự.
* Phân tích lựa chọn phương án giải quyết:

Để lựa chọn phương án trước hết cần tiến hành so sánh các phương án trên để xác định
các ưu, nhược điểm của mỗi phương án.

Tên

Ưu điểm

Nhược điểm

phương
án
1

Xử lý trách nhiệm hành chính của T Không khắc phục được hậu quả
khi vi phạm quy định của pháp luật do hành vi vi phạm pháp luật của
về kế toán, nhằm răn đe đối tượngT gây ra, đặc biệt là không buộc
vi phạm và thể hiện thái độ của Nhà được T hoàn trả lại số tiền đã
nước đối với vi phạm pháp luật củachiếm dụng để trả lại cho cơ
T.

quan, phục vụ cho việc thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban
nhân dân xã A.
Nếu chỉ xử lý hành chính thì T sẽ
11


vẫn được tiếp tục công tác tại vị
trí là kế toán viên. Điều này
không đúng với quy định của

pháp luật về việc khi cán bộ, công
chức vi phạm pháp luật thì cơ
quan quản lý phải tiến hành xem
xét trách nhiệm kỷ luật (đảng,
2

chính quyền) của công chức.
Chấp hành đúng theo quy định củaCác thủ tục để thực hiện kỷ luật
pháp luật hiện hành về xử lý cán bộ,đối với T cần đến sự tham gia của
công chức vi phạm; Ổn định về mặt nhiều bộ phận trong cơ quan và
tổ chức cơ quan, chấn chỉnh chế độmất nhiều thời gian.
công tác nội bộ để tiếp tục hoànViệc buộc hoàn trả các khoản tiền
thành các nhiệm vụ theo chức năngđã chiếm dụng của T có thể phải
trong thời gian tiếp theo.

kéo dài về thời gian vì điều kiện

Có tác dụng giáo dục rất lớn đối với của T không thể trả ngay được.
cán bộ, công chức trong đơn vị và
với chính bản thân T.
Tạo cho T có cơ hội để sửa chữa lỗi
lầm.
Khắc phục hậu qủa do vi phạm của
3

T gây ra về mặt kinh tế.
Xử lý bằng hình thức nghiêm khắcCơ sở pháp lý không phù hợp để
nhất (chế tài hình sự) đối với vixử lý hình sự vì T không phải là
phạm của T sẽ có tác dụng răn đe người có chức vụ, quyền hạn rất lớn, tác dụng phòng ngừa chungchủ thể của tội tham ô theo quy
sẽ được nâng cao.


định tại Điều 278 Bộ luật hình sự.

Hình phạt bổ sung sẽ buộc T phải
hoàn trả toàn bộ số tiền đã chiếm
dụng.
12


Trong các phương án trên phương án thứ 2 là phương án hợp lý hơn cả
bởi theo quy định hiện hành T đồng thời phải chịu hai loại trách nhiệm pháp lýtức vừa phải chịu trách nhiệm kỷ luật vừa phải chịu trách nhiệm hình sự (nếu đã
đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự). Do vậy, dưới góc độ quản lý nhà
nước thì lựa chọn phương án 2 làm phương án tối ưu nhằm chỉ ra những bước
cơ bản để xử lý nghiêm minh T với tính cách là cán bộ, công chức vi phạm theo
đúng quy định của pháp luật hiện nay.
Để thực hiện phương án thứ hai cần thực hiện một số bước cụ thể sau:
Bước 1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã triệu tập cuộc họp để T kiểm điểm
trước tập thể cơ quan. Cuộc họp được tổ chức có ghi biên bản và kiến nghị hình
thức xử lý kỷ luật đối với T.
Bước 2. Hoàn chỉnh hồ sơ trình Hội đồng kỷ luật bao gồm: Bản tự kiểm
điểm của T; biên bản họp kiểm điểm T của Ủy ban nhân dân xã ; trích ngang, sơ
yếu lý lịch của T và các chứng từ, sổ sách chứng minh hành vi vi phạm của T.
Bước 3. Thành lập Hội đồng kỷ luật, bao gồm các thanh viên như: Chủ
tịch Ủy ban nhân dân xã (chủ tịch Hội đồng); 01 uỷ viên đại diện Ban chấp hành
công đoàn; 01 uỷ viên ở bộ phận tài chính - kế toán của Ủy ban nhân dân xã.
Ngoài ra, Chủ tịch Hội đồng có thể mời thêm các thành phần của các tổ chức
chính trị-xã hội xã tham dự họp Hội đồng kỷ luật và viết giấy báo triệu tập T
(trước 05 ngày khi Hội đồng tiến hành họp).
Bước 4. Hội đồng kỷ luật tiến hành họp xem xét kỷ luật và mức độ bồi
thường vật chất của T. Buổi họp diễn ra theo các trình tự sau:

- Chủ tịch Hội đồng tuyên bố lý do, giới thiệu các thành viên tham dự;
- Thư ký Hội đồng trình bày trích nganh sơ yếu lý lịch, hồ sơ và các tài
liệu có liên quan;
- Người vi phạm (cán bộ T) tiến hành đọc bản kiểm điểm. Trong trường
hợp vắng mặt thì Thư ký đọc giúp bản kiểm điểm;
- Thư ký đọc biên bản cuộc họp kiểm điểm do Ủy ban nhân dân xã đã
tiến hành;
- Các thành viên Hội dồng và đại biểu dự họp phát biểu ý kiến;
13


- Cán bộ T phát biểu ý kiến về hình thức kỷ luật;
- Hội đồng kỷ luật bỏ phiếu kín kiến nghị áp dụng hình thức kỷ luật;
- Thông báo kiến nghị hình thức kỷ luật của Hội đồng.
Làm văn bản gửi Ủy ban nhân dân xã và Chủ tịch ra quyết định xử lý kỷ
luật và mức bồi thường vật chất đối với T
Bước 5. Giao quyết định xử lý kỷ luật cho T, đồng thời tiếp tục giáo dục,
động viên để T tiếp tục sửa chữa và phấn đấu trong thời gian tới.
Bước 6. Yêu cầu Phòng kế toán tiến hành biện pháp khấu trừ vào lương
của T để thu lại số tiền T đã chiếm dụng. Mức thu không quá 30% tổng số tiền
lương hàng tháng.
Bước 7. Tiến hành công bố công khai các biện pháp xử lý đối với T để
toàn thể cán bộ, công chức trong Ủy ban nhân dân xã cùng biết để rút kinh
nghiệm chung.
Việc tiến hành đúng trình tự và xác định khách quan, dân chủ và công
khai là cơ sở để xử lý T một cách nghiêm minh theo đúng quy định của pháp
luật. Thông qua đó, có tác dụng giáo dục đối với cán bộ, công chức đang công
tác tại Ủy ban nhân dân xã, nhất là đối với cán bộ, công chức làm công tác tài
chính - kế toán.


KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. Kết luận

14


Công việc của người kế toán luôn tiếp xúc với các giá trị vật chất thuộc
về các chế độ quản lý khác nhau và đòi hỏi người kế toán phải có những phẩm
chất, kỹ năng, nghiệp vụ khác nhau nhưng không thể thiếu được yêu cầu về đạo
đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp. Trước những tác động tiêu cực của xã hội và
điều kiện, hoàn cảnh, nhu cầu cuộc sống mà có không ít kế toán vi phạm quy tắc
nghề nghiệp dẫn đến bị xử lý trước pháp luật. Trong điều kiện nền kinh tế như
hiện nay, việc kiểm soát vấn đề này càng khó khăn. Vì vậy, bên cạnh các quy
định của Nhà nước về chế độ kế toán hành chính sự nghiệp, chế độ kiểm soát
chi, thanh tra, kiểm tra tài chính…còn có các quy định về chuẩn mực đạo đức
nghề nghiệp kế toán. Trong hoàn cảnh kinh tế-xã hội, chính trị, pháp lý như vậy,
người làm công tác kế toán cần có bản lĩnh chính trị vững vàng, thẳng thắn,
trung thực trong hoạt động nghề nghiệp, không vụ lợi, tham lam, vị kỷ, phải có
chính kiến rõ ràng và đặc biệt là phải có thái độ tôn trọng pháp luật, chuẩn mực,
quy chế, kiên quyết bảo vệ pháp luật và lẽ phải. Có như vậy, công tác kế toán
trong các cơ quan nhà nước nói chung, Ủy ban nhân dân xã A nói riêng mới
được nâng cao, đáp ứng yêu cầu thực thi có chất lượng chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn mà Đảng và Nhà nước giao phó.
II. Kiến nghị
1. Đối với Đảng
Cần có nghị quyết chuyên đề về đạo đức công vụ của cán bộ, công chức.
Đồng thời, nâng mức xử lý kỷ luật về Đảng (hình thức khai trừ ra khỏi Đảng)
đối với những cán bộ, công chức có hành vi tham ô, tham nhũng tài sản của Nhà
nước, của tập thể; không gương mẫu trong lối sống, trong công việc, nhất là đối
với những cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan bảo vệ pháp luật.

2. Đối với Nhà nước
Tích cực tiến hành tuyên truyền, phổ biến rộng rãi các quy định pháp
luật về kế toán, đặc biệt là chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán được ban
hành từ năm 2005. Các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán cần được chỉnh
sửa theo hướng ngắn gọn hơn, đồng thời phải xác định rõ đây là các yêu cầu
nghề nghiệp chứ không đơn thuần là vấn đề đạo đức (có thể thực hiện hoặc
15


không), vì khi vi phạm sẽ phải xử lý bằng các biện pháp trách nhiệm pháp lý
chứ không bằng con đường xã hội (dư luận xã hội lên án..).
Cần nghiên cứu về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế toán để
chính thức ghi nhận những hành vi vi phạm quy định pháp luật về lĩnh vực này
được coi là vi phạm hành chính và bị xử lý bằng biện pháp trách nhiệm hành
chính. Đồng thời, với những hành vi mà dấu hiệu khách quan giống với hành vi
tội phạm thì phải có hướng dẫn phân biệt trên cơ sở tiêu chuẩn khách quan là
tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi bằng các đại lượng về định
tính hoặc định lượng.
3. Đối với Ủy ban nhân dân xã A
Tổ chức, chấn chỉnh lại bộ máy kế toán của cơ quan mình theo quy định
tại Điều 48 Luật kế toán năm 2015.
Cần quản lý cán bộ, công chức của mình, nhất là cán bộ trẻ để theo dõi,
nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, lối sống, điều kiện, hoàn cảnh để kịp thời giáo
dục, giúp đỡ, không để cán bộ của mình sa ngã rồi mới thực hiện các biện pháp
xử lý. Lãnh đạo Ủy ban nhân dân xã A cần nâng cao, phát huy vai trò của lãnh
đạo các tổ chức đoàn thể trong cơ quan như đoàn thanh niên, phụ nữ, công đoàn
để thu hút cán bộ tham gia vào các mặt công tác của đơn vị, xây dựng ý thức, lý
tưởng sống tốt đẹp và ý thức và đạo đức đối với công vụ được giao.
Tích cực triển khai các hình thức sinh hoạt để tuyên truyền về tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ làm

công tác kế toán, góp phần thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ của đơn vị.

16



×