Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Bài tiểu luận hội đồng nhân dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.94 KB, 30 trang )

MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Xã, phường, thị trấn gọi chung là
cấp xã, là chính quyền cấp thấp nhất ở cơ sở có lịch sử lâu dài ở nước ta. Đây
là cấp chính quyền có quan hệ trực tiếp đến từng người dân là cầu nối chuyển
tải mọi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước vào cuộc
sống. Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật thì Hội đồng nhân dân
(HĐND) là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra,
chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.
HĐND xã, phường, thị trấn gọi chung là HĐND cấp xã là cơ quan quyền lực
Nhà nước ở cấp xã. Từ trước đến nay qua thực tiễn hoạt động vị trí, vai trò
của HĐND trong hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước ta ngày càng được khẳng
định. Tuy nhiên, trong thời gian những năm gần đây thì hoạt động của HĐND
các cấp đã thể hiện nhiều bất cập, hoạt động còn mang tính hình thức, chưa
đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong đó có HĐND cấp xã. Huyện A có
tốc độ đô thị hóa khá cao, tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội khá lớn. Hiện
nay Huyện có 11 đơn vị hành chính cấp xã và 1 thị trấn. Nhìn chung HĐND
cấp xã tại huyện A trong những năm qua đã đạt được những thành tựu nhất
định như ban hành các cơ chế cải cách hành chính, thực hiện giao dịch một
cửa liên thông…góp phần đưa Huyện A từng bước phát triển đi lên. Tuy nhiên
HĐND cấp xã, vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế trong cơ cấu, tổ chức và hoạt
động, chưa đáp ứng với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Chất
lượng hoạt động của HĐND chưa phản ánh rõ nét qua các kỳ họp, năng lực,
trình độ và nhận thức của đại biểu HĐND chưa xứng tầm với yêu cầu đòi hỏi
của nền kinh tế thị trường và nguyện vọng của cử tri. Với mong muốn tìm
hiểu sâu hơn về phương thức cơ cấu tổ chức và hoạt động của HĐND nói
chung cũng như HĐND cấp xã nói riêng qua đó đưa ra một số giải pháp hy
vọng có thể góp một phần vào công cuộc đổi mới, hoàn thiện bộ máy cơ quan


quyền lực mà Nhà nước ta đang đặt ra trong giai đoạn hiện nay nên em đã


mạnh dạn chọn vấn đề: “Cơ cấu tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân
dân cấp xã – qua thực tiễn ở huyện A”,
Vậy Với kiến thức còn hạn chế của em, nên bài viết của em còn nhiều
thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý, chỉ dẫn của Thầy Ngô Đức
Chiến, và các thầy cô giáo trong khoa, các anh chị đã trả qua công tác lãnh
đạo, chỉ đạo điều hành tại các cơ quan hành chính nhà nước. Để em được
hoàn thành tốt đề tài của mình.
Em xin chân thành cảm ơn!


1. Mục đích và nhiệm vụ của Đề tài Tiểu luận.
Có mục đích nghiên cứu một cách hệ thống tổ chức và hoạt động của
HĐND cấp xã. Đồng thời đi sâu nghiên cứu thực trạng cơ cấu tổ chức và hoạt
động HĐND cấp xã ở Huyện A. Từ đó đánh giá đúng thực trạng để đưa ra
những quan điểm và đề xuất những giải pháp nhằm đổi mới tổ chức và nâng
cao hiệu quả hoạt động của HĐND cấp xã tại huyện A nói riêng, HĐND các
cấp nói chung trên phạm vi cả nước. Để thực hiện mục đích nghiên cứu nói
trên đề tài tiểu luận có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Phân tích, nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về tổ chức
và hoạt động của HĐND cấp xã. Làm rõ vị trí, vai trò của HĐND cấp xã
trong tổ chức BMNN và trong hệ thống chính quyền cơ sở.
- Phân tích, đánh giá thực trạng vấn đề tổ chức và hoạt động của HĐND
cấp xã tại ba loại hình đơn vị hành chính là xã, phường và thị trấn tại Huyện
A.
- Đề tài sẽ khai thác trong thực tiễn để cung cấp những số liệu chính xác
về vấn đề tổ chức và hoạt động của HĐND cấp xã tại huyện A qua đó có sự
đối chiếu với quy định của pháp luật, tìm ra các nguyên nhân và các giải pháp
đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND cấp xã tại địa
phương này. Đề tài sẽ cũng cố thêm cơ sở lý luận và kinh nghiêm thực tiễn
trong vấn đề đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND cấp

xã tại các địa phương khác trong phạm vi cả nước.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Tiểu luận tập trung nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của HĐND cấp
xã ở huyện A trong giai đoạn hiện nay.
+ Không gian: Đề tài nghiên cứu về HĐND cấp xã ở huyện A.
+ Thời gian: Đề tài nghiên cứu thực trạng cơ cấu tổ chức và hoạt động
của HĐND cấp xã ở huyện A trong nhiệm kỳ 2015 - 2021.
3. Phương pháp nghiên cứu.


Phương pháp nghiên cứu chung có tính chất chủ đạo và nền tảng của đề
tài tiểu luận là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh kết hợp với các phương pháp
nghiên cứu khoa học cụ thể: mô tả luật, phân tích, phân tích quy phạm, diễn
giải và quy nạp, hệ thống hóa, mô hình hóa, tư duy lôgic và phương pháp lịch
sử. Phương pháp phân tích được áp dụng để phân tích tổ chức và hoạt động
của HĐND cấp xã. Phương pháp diễn giải và quy nạp được áp dụng nhằm lý
giải và rút ra những kết luận cần thiết sau mỗi lần nghiên cứu, phương pháp
lịch sử nhằm xem xét các vấn đề trong luận văn theo nguồn gốc xuất xứ và
quá trình phát triển của nó. Các phương pháp hệ thống hóa, mô hình hóa, tư
duy lôgic nhằm hỗ trợ các phương pháp nói trên để trình bày các vấn đề có hệ
thống, lôgic và dễ hiểu.
4. Bố cục đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
đề tài tiểu luận gồm có 3 chương.
- Chương 1: Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân
dân cấp xã.
- Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp
xã ở huyện A.
- Chương 3: Những giải pháp đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt

động của Hội đồng nhân dân cấp xã ở huyện A.
5. Đóng góp của đề tài.
- Thông qua việc trình bày một cách cụ thể, toàn diện và có hệ thống về
tổ chức và hoạt động của HĐND cấp xã tiểu luận góp phần làm rõ về khái
niệm, vị trí, vai trò của HĐND cấp xã, tổ chức và hoạt động của HĐND cấp
xã. Đồng thời, luận văn phân tích những điểm tích cực và hạn chế về cách
thức tổ chức và hoạt động của HĐND cấp xã tại huyện A


- Trong giai đoạn hiện nay, qua đó rút ra những hạt nhân hợp lý trong cơ
cấu tổ chức và hoạt động của HĐND cấp xã để tiếp tục hoàn thiện thêm cũng
như khắc phục những điểm hạn chế từ đó đưa ra những giải pháp góp phần
hoàn thiện tổ chức và hoạt động của HĐND cấp xã.


NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI
ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ
1.1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VÀ TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÈ CƠ QUAN ĐẠI DIỆN CỦA NHÂN DÂN
1.1.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về cơ quan đại diện
của nhân dân
Cơ quan đại diện là một bộ phận không thể thiếu trong tổ chức chính
quyền của Nhà nước vô sản. Việc nghiên cứu về cơ quan đại diện có một ý
nghĩa hết sức quan trọng trong việc xây dự ng chính quyền. Công xã Pari là
một thực tiễn sinh động làm sáng tỏ quan điểm Mác - Lênin về Nhà nước và
pháp luật. Công xã Pari, lần đầu tiên đã xoá bỏ chế độ đại nghị tư sản, thành
lập ra hệ thống cơ quan đại diện mới, cơ quan đại diện này theo nghĩa của nó
vừa là cơ quan lập pháp, vừa là cơ quan hành pháp. Việc xuất hiện hình thức

công xã Pari có ý nghĩa rất lớn, làm phong phú thêm lý luận Mác - Lênin nói
chung và lý luận về Nhà nước và pháp luật nói riêng, đặc biệt là để xây dựng
một học thuyết hoàn chỉnh về hình thức nhà nước xã hội chủ nghĩa. Và một
lần nữa, khi nghiên cứu về phong trào công nhân, Lênin đã phát hiện ra hình
thức nhà nước Xô Viết và coi đó là mầm mống của một hình thức có thể sử
dụng để tổ chức nhà nước vô sản ở Nga. Hình thức nhà nước Xô viết là hình
thức được sử dụng để tổ chức và thực hiện chính quyền của giai cấp vô sản
Nga và các nước Cộng hoà khác ở Cap-ca-zơ, vùng Ban tích; sau này trở
thành hình thức của Nhà nước Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô Viết.
Xô Viết xuất hiện lần đầu tiên trong cuộc tổng bãi công của công nhân thành
phố Petrograt năm 1905, với tư cách là hội đồng đại biểu công nhân để đấu
tranh đòi lợi ích chính trị và kinh tế cho giai cấp. Trong quá trình lãnh đạo và
xây dựng chính quyền Xô viết, Lênin đặc biệt nhấn mạnh quyền tham gia


quản lý nhà nước của người lao động, coi:“Sự tham gia của người lao động
vào chính quyền như là mục đích của chính quyền Xô viết. Và theo Người,
việc thu hút được mọi người lao động tham gia vào quản lý là một trong
những ưu thế quyết định của nền dân chủ xã hôi chủ nghĩa v.v.. Vì rằng, một
thiểu số người tức là Đảng không thể thực hiện được chủ nghĩa xã hội”[33].
Tóm lại, xuất phát từ bản chất nhà nước xã hội chủ nghĩa là một Nhà
nước dân chủ nên việc tổ chức và hoạt động của BMNN xã hội chủ nghĩa
luôn đảm bảo sự tập trung thống nhất quyền lực. Chính vì lẽ đó, V.I.Lênin khi
nói về cơ quan đại diện đã khẳng định: “Chúng ta không thể quan niệm một
nền dân chủ, dẫu là dân chủ vô sản, mà lại không có cơ quan đại diện”[33].
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ quan đại diện của nhân dân.
- Năm 1911 Nguyễn Ái Quốc đã rời bến cảng Nhà Rồng ra đi tìm đường
cứu nước. Người đã đi nhiều nơi trên thế giới như châu Âu, châu Phi, châu
Mỹ, châu Á; tìm hiểu và nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trên thế
giới. Trong khi tìm hiểu, nghiên cứu Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú ý xem xét

những vấn đề về chính quyền nhà nước, vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách
mạng xã hội. Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, để thực thi
quyền làm chủ của nhân dân trong việc xây dựng Nhà nước Việt Nam mới
- Nhà nước Dân chủ Cộng hoà, ngày 3/9/1945, trong cuộc họp Chính
phủ lâm thời, Hồ Chí Minh đã đề nghị tiến hành tổ chức “càng sớm càng hay
cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu”. Tư tưởng Hồ Chí Minh
về bộ máy chính quyền địa phương cũng thể hiện rất rõ trong Hiến pháp
1946, đó là thiết chế HĐND, cơ quan đại diện của nhân dân địa phương.
HĐND được thành lập ở cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. HĐND quyết định
những vấn đề thuộc địa phương mình, những kiến nghị ấy không được trái
với chỉ thị cấp trên. Có thể nói, tổ chức chính quyền địa phương với hình ảnh
rõ nhất là thiết chế cơ quan đại diện - HĐND một cơ quan quyết định những


vấn đề có tính địa phương, do nhân dân địa phương bầu ra và phải chịu trách
nhiệm trước nhân dân địa phương.
1.2. KHÁI QUÁT VỀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT
TRIỂN CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ TRONG LỊCH SỬ LẬP
PHÁP CỦA NƯỚC TA.
Văn bản pháp luật đầu tiên về HĐND là Sắc lệnh số 63 - SL ngày 22
tháng 11 năm 1945 về tổ chức, quyền hạn, cách làm việc của HĐND và
UBHC có hiệu lực thi hành ngày 8 tháng 12 năm 1945. Sau đó là các Sắc lệnh
sửa đổi Sắc lệnh số 63: Sắc lệnh số 22A - SL ban hành ngày 18 tháng 02 năm
1946 về việc tổ chức các HĐND và UBHC do Chính phủ lâm thời ban hành,
để sửa đổi điều thứ 65 Sắc lệnh số 63 ngày 22 tháng 11 năm 1945 tổ chức các
HĐND và UBHC; Sắc lệnh số 10 về tổ chức HĐND và UBHC ở các xã,
huyện, tỉnh và kỳ do Chủ tịch Chính phủ ban hành để sửa đổi Sắc lệnh số 63
ngày 22 tháng 11 năm 1945 tổ chức HĐND và UBHC ở các xã, huyện, tỉnh
và kỳ. Tiếp đến là Hiến pháp 1946 được Quốc hội thông qua ngày 9/11/1946.
Hiến pháp 1946 tuy chưa đưa ra một định nghĩa cụ thể về HĐND nhưng vai

trò quan trọng của HĐND, mối quan hệ giữa HĐND với cấp trên cũng đã
được xác định trong Điều thứ 59 “Hội đồng nhân dân quyết nghị về những
vấn đề thuộc địa phương mình. Những nghị quyết ấy không được trái với chỉ
thị của các cấp trên”. Ngày 29 tháng 4 năm 1958, Quốc hội nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa đã lần đầu tiên ban hành một đạo luật quy định về cách
thức tổ chức HĐND, đó là Luật tổ chức Chính quyền địa phương. Theo quy
định tại Điều 3 Luật tổ chức chính quyền địa phương thì “Hội đồng nhân dân
các cấp là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, do nhân dân bầu ra.
Số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân mỗi cấp và cách thức bầu cử do luật
bầu cử quy định”. Với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ 1954, hoà bình
được lập lại ở miền Bắc, miền Nam còn nằm dưới sự kiểm soát của đế quốc
Mỹ. Để đáp ứng và phục vụ cho yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng trong tình


hình mới Quốc hội đã quyết định sửa đổi Hiến pháp 1946. Sau một thời gian
dài nghiên cứu, soạn thảo công phu, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa đã ban hành Hiến pháp 1959 để thay thế Hiến pháp 1946. Trên cơ sở Hiến
pháp 1959, Quốc hội đã thông qua Luật tổ chức HĐND và UBHC các cấp tại
kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá II ngày 27 tháng 10 năm 1962 (hiệu lực thi hành
từ 11/11/1962 đến 09/7/1983). Ngày 30/12/1980 Quốc hội đã thông qua Hiến
pháp 1980 làm cơ sở cho việc xây dựng xã hội chủ nghĩa trong phạm vi cả
nước, xây dựng và cũng cố BMNN thống nhất trong đó có tổ chức chính
quyền địa phương. Thiết chế HĐND được quy định tại chương IX, Hiến pháp
1980. Sau khi Hiến pháp 1980 ra đời để cụ thể hoá các quy định của Hiến
pháp 1980 về thiết chế HĐND, ngày 30 tháng 6 năm 1983, Quốc hội nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VII, kỳ họp thứ 5, đã thông qua
Luật tổ chức HĐND và UBND 1983, thay thế Luật tổ chức HĐND và UBHC
các cấp ngày 27 tháng 10 năm 1962. Những quy định trước đây trái với Luật
này đều bãi bỏ. Để phát huy hơn nữa nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng
cường hiệu lực của cơ quan nhà nước ở địa phương tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội

khoá VIII đã thông qua Luật tổ chức HĐND và UBND ngày 30 tháng 6 năm
1989 (thay thế Luật tổ chức HĐND và UBND năm 1983). Từ năm 1986, công
cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã được đề xướng thực hiện. Công cuộc đổi
mới đã đặt ra yêu cầu phải “đổi mới” pháp luật để tạo cơ sở pháp lý cho việc
thực hiện đổi mới toàn diện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó
đổi mới tổ chức và hoạt động của BMNN là hết sức cần thiết. Hiến pháp 1992
được xây dựng để đáp ứng nhu cầu đó. Cũng như Hiến pháp 1980, thiết chế
HĐND được quy định tại chương IX. Việc chia đơn vị hành chính vẫn giữ
như trong Hiến pháp 1980. Đến ngày 19/06/2015 Quốc hội nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIII, kỳ họp thứ 9 đã thông qua Luật tổ chức
chính quyền địa phương 2015 Trong văn bản này thì tổ chức và hoạt động


cũng như nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND các cấp đã được quy định một
cách cụ thể và rõ ràng.
1.3. NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ TỔ
CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ
1.3.1 Vị trí, tính chất, chức năng của Hội đồng nhân dân cấp xã.
Vị trí, tính chất và chức năng của HĐND được quy định trong Điều 119,
Điều 120 Hiến pháp 1992 và cụ thể hoá trong Luật tổ chức HĐND và UBND
năm 2015. Theo quy định tại Điều 1 Luật tổ chức HĐND và UBND năm
2015 thì: “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương,
đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân
địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan
nhà nước cấp trên. Hội đồng nhân dân quyết định những chủ trương, biện
pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương, xây dựng và phát
triển địa phương về kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, không
ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương, làm
tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước.Hội đồng nhân dân thực hiện
quyền giám sát đối với hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ

ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát
việc thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân; giám sát việc tuân theo
pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ
trang nhân dân và của công dân ở địa phương”.
1.3.2 Về cơ cấu tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân.
Kế thừa các nội dung họp lý của Luật năm 2003; đồng thời bổ sung
những điểm mới nhằm quy định chi tiết them về tổ chức và hoạt động của
HĐND, kỳ họp HĐND, Thường trực HĐND, các Ban của HĐND và đại biểu
HĐND (về giám sát của HĐND do Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và
HĐND quy định cụ thể). Theo đó, cơ cấu tổ chức và hoạt động của HĐND có
những nội dung mới sau:


Thứ nhất, quy định tiêu chuẩn, số lượng đại biểu HĐND các cấp
(chuyển từ Luật Bầu cử đại biểu HĐND hiện nay sang quy định tại Luật này),
ừong đó có việc tăng thêm số lượng đại biểu HĐND ở thành phố Hà Nội và
thành phổ Hồ Chỉ Minh từ 95 lên 105 đại biểu.
Thứ hai, tăng cường vai trò của Thường trực HĐND, bảo đảm hoạt động
thường xuyên giữa 2 kỳ họp HĐND; quy định rõ Thường trực HĐND họp
thường kỳ mỗi tháng 1 lần.
Thứ ba, thay chức danh ủy viên Thường trực HĐND cấp tỉnh, cấp huyện
bằng chức danh Phó Chủ tịch HĐND; mở rộng thành viên Thường trực
HĐND cấp tỉnh, cấp huyện gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các ủy viên là
Trưởng Ban của HĐND; Thường trực HĐND cấp xã vẫn gồm Chủ tịch và
Phó Chủ tịch HĐND.
Thứ tư, ở HĐND thành phố trực thuộc trung ương thành lập thêm Ban
đô thị; ở HĐND cấp xã thành lập thêm 2 ban là Ban Pháp chế và Ban Kinh tế
- Xã hội. Thành viên các Ban HĐND cấp xã hoạt động kiêm nhiệm.
Thứ năm, quy định đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách. Theo đó,
Chủ tịch HĐND, Trưởng Ban của HĐND cấp tỉnh, cấp huyện có thể là đại

biểu HĐND hoạt động chuyên trách; Phó Chủ tịch HĐND, Phó Trưởng Ban
của HĐND cấp tỉnh, cấp huyện là đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách; ở
cấp xã, quy định Phó Chủ tịch HĐND cấp xã là đại biểu HĐND hoạt động
chuyên trách; Trưởng Ban, Phó Trưởng Ban và ủy viên của các Ban của
HĐND xã hoạt động kiêm nhiệm.
Thứ sáu, quy định khi có từ 10% trở lên ừong tổng số cử tri trên địa bàn
cấp xã yêu cầu, Thường trực HĐND cấp xã có trách nhiệm xem xét tổ chức
kỳ họp HĐND để bàn về nội dune kiến nghị của cử tri.
Thứ bảy, HĐND cấp tỉnh, cấp huyện thành lập Tổ đại biểu HĐND;
HĐND cấp xã không thành lập Tổ đại biểu HĐND.
1.3.3 Nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng nhân dân cấp xã.


Nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND được ghi nhận trong Hiến pháp 1992
và Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2015. Nhiệm vụ, quyền hạn của
HĐND từng cấp được quy định khá cụ thể trong Luật tổ chức HĐND và
UBND, trong đó nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND cấp xã cũng được đề cập
đến một cách rõ ràng trong từng lĩnh vực, trong đó có sự phân biệt giữa nhiệm
vụ, quyền hạn của HĐND xã, thị trấn và nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND
phường.
1.3.3.1 Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân xã, thị trấn.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân xã, thị trấn được quy định
rõ trong các lĩnh vự c đó là: trong lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực giáo dục, y tế, xã
hội và đời sống, văn hoá, thông tin, thể dục thể thao, bảo vệ tài nguyên, môi
trường, lĩnh vực quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, việc thực hiện
chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo, lĩnh vực thi hành pháp luật và
trong việc xây dựng chính quyền địa phương.
1.3.3.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân phương.
Ngoài những nhiệm vụ, quyền hạn như của HĐND xã, thị trấn đã nêu ở
trên, HĐND phường còn có thêm những nhiệm vụ, quyền hạn như sau:

- Quyết định biện pháp thực hiện thống nhất kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và quy hoạch đô thị; thực hiện nhiệm vụ giải phóng mặt bằng; bảo đảm
trật tự giao thông đô thị, trật tự xây dựng trên địa bàn phường;
- Quyết định biện pháp xây dựng nếp sống văn minh đô thị; biện pháp
phòng, chống cháy, nổ, giữ gìn vệ sinh; bảo vệ môi trường, trật tự công cộng
và cảnh quan đô thị trong phạm vi quản lý;
- Quyết định biện pháp quản lý dân cư và tổ chức đời sống nhân dân trên
địa bàn phường.
1.3.4. Thường trực Hội đồng nhân dân cấp xã.
Thường trực HĐND cấp xã do HĐND cấp xã bầu ra tại kỳ họp HĐND
trong số các đại biểu HĐND. Thường trực của HĐND cấp xã bao gồm:


Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND. Các thành viên của UBND cấp xã không
thể đồng thời là thành viên của Thường trực HĐND cấp xã. Kết quả bầu các
thành viên của Thường trực HĐND cấp xã phải được Thường trực HĐND cấp
huyện phê chuẩn.
1.3.5. Kỳ họp của Hội đồng nhân dân cấp xã.
Kỳ họp của HĐND chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong hoạt động của
HĐND. Bởi vì đây là hình thức hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của
HĐND. HĐND làm việc tập trung và có hiệu quả nhất trong các kỳ họp của
mình.
Tại kỳ họp HĐND thảo luận dân chủ và quyết định theo đa số các công
việc quan trọng của địa phương; bầu ra Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND,
UBND, Thường trực HĐND. Các quyết định của HĐND được thể hiện dưới
hình thức nghị quyết. HĐND thường lệ mỗi năm họp hai kỳ. Ngoài kỳ họp
thường lệ, HĐND tổ chức các kỳ họp chuyên đề hoặc kỳ họp bất thường theo
đề nghị của Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND cùng cấp hoặc khi có ít nhất
một phần ba tổng số đại biểu HĐND cùng cấp yêu cầu. Thường trực HĐND
quyết định triệu tập kỳ họp thường lệ của HĐND chậm nhất là hai mươi ngày,
kỳ họp chuyên đề hoặc bất thường chậm nhất là mười ngày trước ngày khai

mạc kỳ họp. HĐND họp công khai. Khi cần thiết, HĐND quyết định họp kín
theo đề nghị của Chủ tọa cuộc họp hoặc của Chủ tịch UBND cùng cấp. Ngày
họp, nơi họp và chương trình của kỳ họp HĐND phải được thông báo cho
nhân dân biết, chậm nhất là năm ngày, trước ngày khai mạc kỳ họp. Kỳ họp
HĐND được tiến hành khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu HĐND
tham gia. Đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND cấp trên đã được bầu ở địa
phương, Chủ tịch Uỷ ban MTTQ Việt Nam, người đứng đầu các đoàn thể
nhân dân ở địa phương và đại diện cử tri được mời tham dự kỳ họp HĐND,
được phát biểu ý kiến nhưng không biểu quyết. Tài liệu cần thiết của kỳ họp


HĐND phải được gửi đến đại biểu HĐND chậm nhất là năm ngày trước ngày
khai mạc kỳ họp.
1.3.6. Đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã.
Đại biểu HĐND cấp xã được nhân dân ở cấp xã tín nhiệm bầu ra là
người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở cấp xã. Vì vậy, đại biểu
HĐND phải gương mẫu chấp hành chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước; tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chính sách, pháp luật và
tham gia vào việc quản lý nhà nước.
1.4. MỐI QUAN HỆ GIỮA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ VỚI
ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP XÃ VÀ VỚI CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ,
CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI Ở ĐỊA PHƯƠNG
1.4.1. Mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân cấp xã với Ủy ban nhân
dân cấp xã
Mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân cấp xã với Ủy ban nhân dân cấp xã
được quy định tại Điều 2 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2015. Điều 2
Luật tổ chức HĐND và UBND quy định: “Uỷ ban nhân dân do Hội đồng
nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân
Bcùng cấp và cơ quan nhà nước cấp trên. UBND cấp xã chịu trách nhiệm

chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị
quyết của HĐND cùng cấp nhằm bảo đảm thực hiện chủ trương, biện pháp
phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh và thực hiện các
chính sách khác trên địa bàn”.
1.4.2. Mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân cấp xã với Đảng ủy cấp
xã.
Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội là một nguyên tắc đã được ghi nhận
tại Điều 4 Hiến pháp 1992: “Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của
giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp


công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo Chủ nghĩa Mác Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.
1.4.3. Mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân cấp xã với Mặt trận tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận tổ quốc Việt Nam.
Trong hệ thống chính trị nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
MTTQ Việt Nam có vị trí, vai trò hết sức quan trọng. Được quy định tại Điều
9 Hiến Pháp 1992 và Điều 9 Luật tổ chức HĐND và UBND 2003.“Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính
quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng
cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng
và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích
chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ,
nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ
quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức Nhà nước”. Điều 9
Luật tổ chức HĐND và UBND 2003 cũng quy định:“Trong hoạt động của
mình, Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân
dân, các Ban của Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng nhân dân phối
hợp chặt chẽ với Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác chăm lo và bảo vệ
lợi ích của nhân dân, vận động nhân dân tham gia vào việc quản lý nhà nước

và thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước”
Mối quan hệ giữa HĐND cấp xã và MTTQ Việt Nam và các tổ chức
thành viên ở xã là quan hệ phối hợp. HĐND cấp xã phối hợp chặt chẽ với
MTTQ và các tổ chức thành viên của Mặt trận ở địa phương xây dựng mối
quan hệ làm việc để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Mỗi năm hai lần vào
giữa năm và cuối năm, Chủ tịch HĐND cấp xã thông báo bằng văn bản đến
Uỷ ban MTTQ xã về tình hình hoạt động của HĐND cấp mình và nêu những
kiến nghị của HĐND với MTTQ. Trong kỳ họp thường lệ của HĐND, Uỷ ban


MTTQ báo cáo về hoạt động của MTTQ xã tham gia xây dựng chính quyền,
về những ý kiến, kiến nghị, kiến nghị đối với HĐND và với đại biểu HĐND
cấp xã. Mối quan hệ phối hợp HĐND và MTTQ đã được quy định tại Điều
125 Hiến pháp 1992: “Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người
đứng đầu các đoàn thể nhân dân ở địa phương được mời tham dự các kỳ họp
Hội đồng nhân dân và được mời tham dự hội nghị Uỷ ban nhân dân cùng cấp
khi bàn các vấn đề có liên quan. Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân thực
hiện chế độ thông báo tình hình mọi mặt của địa phương cho Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của các tổ chức
này về xây dựng chính quyền và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương;
phốihợp với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân động viên nhân dân
cùng Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh
ở địa phương”[12].


Chương 2
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG
NHÂN DÂN CẤP XÃ Ở TỈNH KON TUM
2.1. ĐẶC ĐIỂM VỀ TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA TỈNH
KON TUM.

Có diện tích …….km, Bắc giáp Xã Tu Mơ Rông, Nam giáp Đăk Pơ xi
huyện Đăk Hà, Đông giáp Đăk Tô, Tây giáp Xã A Tô Kan , cố đô của Việt
Nam, đô thị loại 2, một trung tâm văn hóa, giáo dục, y tế và du lịch quan
trọng của cả nước. Về tổ chức hành chính, 97 97, với 1 thị trấn. Với vị trí địa
lý thuận lợi cùng với những ưu thế về nguồn tài nguyên thiên nhiên phong
phú là những tiền đề quan trọng để xây dựng cho mình định hướng phát triển
riêng, phát huy hiệu quả thế và lực của địa phương để giữ vững bước tiến vào
thế kỷ XXII. Trên đây là vài nét về tình hình kinh tế - xã hội huyện A bên
cạnh những thành tựu đạt được còn có những khó khăn, yếu kém tồn tại. Tuy
nhiên dưới sự lãnh đạo của các cấp chính quyền cùng với sự giúp đỡ của nhân
dân trong tương lai không xa tình hình kinh tế - xã hội của huyện sẽ có những
bước phát triển và thành quả nhất định trên con đường phấn đấu để đưa huyện
A.
2.2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI
ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ Ở HUYỆN A.
2.2.1. Thực trạng tổ chức của Hội đồng nhân dân cấp xã tại huyện A.
Theo quy định thì trong cơ cấu HĐND cấp xã không có các Ban của
HĐND, văn phòng HĐND cho nên trong cơ cấu HĐND cấp xã ở huyện
Acũng không có các ban của HĐND, văn phòng HĐND như ở cấp huyện mà
chỉ có Thường trực HĐND. Thường trực HĐND cấp xã gồm: Chủ tịch, Phó
Chủ tịch HĐND. Chủ tịch HĐND thường kiêm nhiệm Bí thư Đảng uỷ cấp xã.
Phó Chủ tịch HĐND hoạt động chuyên trách. HĐND cấp xã ở huyện A bao
gồm: HĐND phường, HĐND xã và HĐND thị trấn, có 10 xã, 1 thị trấn với


tổng số đại biểu HĐND là 41 người. trong đó có …..đại biểu trong Đảng, ….
đại biểu ngoài Đảng chiếm trên …..% nam …điểu Chiến….. tuổi trung bình
là 42. Về trình độ đại biểu được thể hiện với những số liệu như sau:
- Trình độ đại biểu trình độ tiểu học, đại biểu có trình độ trung học cơ sở,
2761 đại biểu có trình độ trung học phổ thông [1, 1]. - Về trình độ chuyên

môn: 1659 đại biểu chưa qua đào tạo, 196 đại biểu có trình độ sơ cấp, 1157
đại biểu có trình độ trung cấp, 820 có trình độ cao đẳng, đại học, 3 đại biểu có
trình độ sau đại học[1, 1]. - Về trình độ lý luận chính trị: 1924 đại biểu chưa
qua đào tạo, 372 đại biểu có trình độ sơ cấp, 1440 đại biểu có trình độ trung
cấp, 99 đại biểu có trình độ cao cấp, cử nhân [1, 1].
2.2.2. Thực trạng hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã tại huyện
A.
2.2.2.1. Hoạt động của các kỳ họp Hội đồng nhân dân cấp xã.
Xác định đúng tầm quan trọng của kỳ họp là hình thức hoạt động chủ
yếu của HĐND, trong nhiệm kỳ qua HĐND cấp xã tại 172 xã, phường, thị
trấn tại huyệnTu Mơ Rông đã tiến hành tổ chức được 176 kỳ họp trong đó có
12 kỳ họp bất thường. Qua tìm hiểu thực tế hoạt động của HĐND cấp xã tại
tỉnh Kon Tum cho thấy trong nhiệm kỳ 2016 – 2021 tổng số nghị quyết được
ban hành 257 nghị quyết, chủ yếu là các nghị quyết về phát triển kinh tế - xã
hội, nghị quyết về phê chuẩn quyết toán thu chi ngân sách ngoài ra còn có
một số nghị quyết về kế hoạch sử dụng đất, phân bổ ngân sách.
2.2.2.2. Hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân cấp xã.
Thường trực HĐND gồm Chủ tịch và Phó Chủ tịch HĐND cấp xã. Trong
nhiệm kỳ 2016 - 2021 Thường trực HĐND cấp xã đã khẳng định được vị trí,
vai trò của mình như: hoạt động thường xuyên, đảm bảo việc tổ chức các hoạt
động của HĐND giữa hai kỳ họp, đảm bảo sự sự giám sát thường xuyên của
HĐND và UBND, Chủ tịch HĐND cấp xã đã phối hợp với UBND trong việc
chuẩn bị các nội dung, điều kiện cho kỳ họp, thực hiện tốt nhiệm vụ chủ tọa,


điều khiển các kỳ họp, thực hiện tốt nhiệm vụ của chủ tọa, điều khiển các kỳ
họp, đảm bảo để các kỳ họp của HĐND thực hiện được các chương trình mà
HĐND đề ra, phát huy tính dân chủ trong mỗi kỳ họp.
2.2.2.3. Hoạt động của đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã.
Cho đến nay các đại biểu HĐND cấp xã đã thể hiện tinh thần trách

nhiệm, tích cực trong hoạt động giữ gìn phẩm chất đạo đức được nhân dân tín
nhiệm. Nhiều đại biểu đã thực hiện tốt việc tiếp xúc cử tri, thu thập phản ánh
đầy đủ các ý kiến, kiến nghị của cử tri đối với HĐND. Tuy đã có nhiều cố
gắng nhưng trong hoạt động của đại biểu HĐND cấp xã ở huyện A vẫn còn
nhiều tồn tại, vướng mắc. Các đại biểu dành rất ít thời gian cho nhiệm vụ đại
biểu của mình đặc biệt là trong công việc tiếp xúc cử tri vì vậy hiệu quả của
công việc tiếp xúc cử tri chưa cao. Trong kỳ họp vẫn còn tình trạng nhiều đại
biểu hầu không phát biểu ý kiến thậm chí có những đại biểu không phát biểu
lần nào trong suốt nhiệm kỳ, theo thống kê thì số đại biểu chưa phát biểu
chiếm khoảng 9,86%. Hầu như đại biểu tham gia thảo luận tại các kỳ họp là
các đại biểu giữ chức vụ chủ chốt lãnh đạo các ban ngành đoàn thể, những đại
biểu ít phát biểu hoặc không phát biểu ý kiến là do hạn chế về trình độ năng
lực, nghiên cứu tài liệu chưa sâu, hoặc thiếu mạnh dạn, vẫn còn một số đại
biểu HĐND cấp xã vắng mặt ở các kỳ họp và thực hiện chức năng giám sát,
kiểm tra, đôn đốc cử tri còn hạn chế.
2.2.2.4. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã.
Nhiệm kỳ qua, thường trực HĐND đã tổ chức 528 đợt giám sát chuyên đề
trên nhiều lĩnh vự c trọng yếu. Qua giám sát đã phát hiện và kiến nghị nhiều
vấn ðề quan trọng với HÐND và các ngành chức nãng để điều chỉnh kịp thời
những ưu điểm, khuyết điểm trong quá trình thực hiện, góp phần nâng
Chương 3
NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ NÂNG CAO HIỆU


QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ Ở HUYỆN
A
3.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ Ở
HUYỆN A.
Trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, Đảng và Nhà nước rất quan

tâm đến vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, trong
đó đặc biệt quan tâm tới tổ chức và hoạt động của HĐND, với mục đích làm
cho HĐND thực hiện đúng và đầy đủ những chức năng, nhiệm vụ và quyền
hạn theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Trong những năm gần đây
trong xu thế và chủ trương chung của Đảng và Nhà nước hoạt động của
HĐND các cấp có nhiều chuyển biến tích cực. Trước hết đó là vai trò kiểm
tra, giám sát của HĐND đối với UBND và các cơ quan đơn vị trên địa bàn địa
phương liên quan đến nhiều lĩnh vực quan trọng như y tế, giáo dục, an sinh xã
hội. Trong nhiều năm, khi tổng kết đánh giá hoạt động của HĐND cấp cơ sở,
nhất là cấp xã thì chúng ta đều thừa nhận tình trạng các HĐND hoạt động còn
kém hiệu quả. Với tư cách là cơ quan quyền lực cao nhất ở cơ sở, trong suốt
quá trình hoạt động HĐND cấp xã luôn đổi mới và từng bước hoàn thiện,
đóng góp một vai trò hết sức quan trọng trong tổ chức bộ máy nhà nước. Tuy
nhiên trong thực tiễn tổ chức và hoạt động của HĐND hiện nay do nhiều
nguyên nhân vẫn còn nhiều tồn tại nhất định và HĐND cấp xã tại tỉnh Thừa
Thiên - Huế cũng không tránh khỏi điều đó. Trước thực tế đó HĐND các cấp
cần phải kiện toàn và cũng cố để bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ và thẩm
quyền đã được giao phó. Xây dựng HĐND có thực quyền để thực hiện đầy đủ
vai trò là cơ quan đại diện của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương. Nâng cao hiệu quả hoạt động trên các mặt: kỳ họp, hoạt động của
Thường trực HĐND, hoạt động của đại biểu HĐND để đảm bảo quyền dân
chủ, quyền tham gia quản lý của nhân dân đối với nhà nước và xã hội. Vì


những lý do trên đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND
cấp xã ở tỉnh Thừa Thiên - Huế là một vấn đề hết sức cần thiết.
3.2. NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ Ở
HUYỆN A.
Chúng ta cần nhận thức rằng để nâng cao hiệu quả trong tổ chức và hoạt

động của HĐND nói chung HĐND cấp xã ở tỉnh Thừa Thiên - Huế nói riêng
cần phải có những giải pháp đổi mới một cách thống nhất. Đổi mới tổ chức và
hoạt động của HĐND phải đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ. HĐND
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo Hiến pháp, luật và các văn bản
của cơ quan nhà nước cấp trên, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa và chống các biểu hiện quan liêu
hành chính cửa quyền, tham nhũng lãng phí vô trách nhiệm và các biểu hiện
tiêu cực khác của cán bộ công chức trong bộ máy chính quyền địa phương.
Mặt khác cần phát huy tính chủ động và trách nhiệm của chính quyền địa
phương đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hôi, giáo dục, y tế, chăm lo đời sống
nhân dân địa phương đáp ứng nhu cầu bức thiết của nhân dân địa phương. Ở
nước ta hiện nay một số vấn đề về tổ chức của HĐND vẫn chưa được làm rõ
và chưa có định hướng đổi mới một cách căn bản nhất. Hiện nay HĐND cấp
xã và cấp huyện hoạt động chưa thật hiệu quả và đang đứng trước thực tế là
phải xóa bỏ hình thức hoạt động của HĐND cấp huyện và cấp xã. Chủ tịch
UBND huyện do chủ tịch UBND tỉnh bổ nhiệm còn ở cấp xã chức danh Chủ
tịch UBND xã do nhân dân trực tiếp bầu ra. Trước thực tế đó HĐND cấp xã
phải được kiện toàn và củng cố để đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ và thẩm
quyền đã được giao phó. Xây dựng HĐND có thực quyền để thực hiện đầy đủ
vai trò là cơ quan đại diện của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương. Nâng cao hiệu quả hoạt động trên các mặt: kỳ họp, hoạt động của


Thường trực HĐND, hoạt động của đại biểu HĐND để đảm bảo quyền dân
chủ, quyền tham gia quản lý của nhân dân đối với nhà nước. Để đổi mới tổ
chức và hoạt động của HĐND cấp xã ở Huyện Tu Rông trong thời kỳ công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước hiện nay tôi xin mạnh dạn đề xuất một số
giải pháp sau:
3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt
động của Hội đồng nhân dân cấp xã.

3.2.1.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến tổ chức của Hội
đồng nhân dân cấp xã.
3.2.1.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến hoạt động của
Hội đồng nhân dân cấp xã.
* Hoàn thiện những quy định của pháp luật liên quan đến kỳ họp Hội
đồng nhân dân cấp xã
* Hoàn thiện những quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động của
Thường trực Hội đồng nhân dân cấp xã
* Hoàn thiện những quy định của pháp luật liên quan đến đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp xã
* Hoàn thiện những quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động
giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã
3.2.2. Những giải pháp cụ thể đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu quả
hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã ở huyện A.
3.2.2.1. Những giải pháp cụ thể đổi mới tổ chức của Hội đồng nhân
dân cấp xã ở huyện A.
3.2.2.2. Những giải pháp cụ thể nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội
đồng nhân dân cấp xã ở huyện A.
* Những giải pháp cụ thể nâng cao hiệu quả hoạt động của các kỳ họp
Hội đồng nhân dân cấp xã ở huyện A


* Những giải pháp cụ thể nâng cao hiệu quả hoạt động của Thường trực
Hội đồng nhân dân cấp xã ở huyện A
* Những giải pháp cụ thể nâng cao hiệu quả hoạt động của đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp xã ở huyện A
*Những giải pháp cụ thể nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Hội
đồng nhân dân cấp xã ở huyện A



KẾT LUẬN
Hơn nửa thế kỷ tồn tại và phát triển HĐND nói chung, HĐND cấp xã tại
huyện A nói riêng đã nỗ lực để hoàn thành nhiệm vụ của mình, đề ra những
quyết định, giải pháp tích cực vào việc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, góp
phần vào việc phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo nguyên tắc quyền
lực thuộc về nhân dân. Tuy nhiên những gì mà HĐND cấp xã đã làm được
chưa đáp ứng với nhu cầu thực tế và và xu hướng phát triển của thời đại.
Bước sang thời đại mới trước nhu cầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất
nước trước sự phát triển và tiến bộ của khoa học kỹ thuật và sự thay đổi
phương pháp tư duy, phương pháp luận khoa học trong các lĩnh vực hoạt động
của xã hội, trước sự đổi mới một cách sâu sắc và toàn diện trong mọi lĩnh vực
của đời sống kinh tế - xã hội, để thích ứng với nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi hoạt động của HĐND phải được đổi mới một
cách toàn diện, thiết thực tránh tình trạng hoạt động một cách hình thức. Qua
việc tìm hiểu thực tế cho thấy cơ cấu tổ chức của HĐND các xã, phường, thị
trấn ở tại huyện A nhìn chung chưa phù hợp với thực tiễn, hoạt động của
HĐND cấp xã tại huyện A đặc biệt là kỳ họp HĐND chưa mang lại hiệu quả
cao. Một số chủ trương, nghị quyết của HĐND chưa thực sự xuất phát từ nhu
cầu, lợi ích của cử tri trong xã, phường và thị trấn của mình mà chỉ mới chú
trọng vào mặt hình thức, hướng dẫn chung của chính quyền cấp trên. Đại biểu
HĐND ở đây mặc dù đã có bước phát triển nhưng vẫn chưa đáp ứng với
mong mỏi của nhân dân. Năng lực, trình độ và tinh thần trách nhiệm của đại
biểu HĐND chưa tương xứ ng với vai trò là người đại diện cho nhân dân ở
địa phương. Chính vì vậy đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của
HĐND cấp xã ở tại huyện A là vấn đề hết sức cần thiết. Để đúng nghĩa là cơ
quan quyền lực nhà nước ở địa phương, HĐND xã cần nâng cao hơn nữ a về
chất lượng và hiệu quả hoạt động, góp phần cùng hệ thống chính trị cơ sở
lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế – xã hội, quốc



phòng – an ninh của địa phương. Tóm lại, HĐND cấp xã với vai trò là cơ
quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền làm chủ của nhân dân địa phương. Tính quyền lực nhà nước của
HĐND được thể hiện rõ nét qua việc nhân dân trực tiếp trao quyền thay mặt
mình bằng phổ thông đầu phiếu bầu ra HĐND để thực hiện quyền lực nhà
nước và quyết định các vấn đề quan trọng ở địa phương. Với đề tài “Tổ chức
và hoạt động của hội đồng nhân dân cấp xã – qua thực tiễn ở huyện A” tôi hy
vọng HĐND cấp xã tại tỉnh Thừa Thiên - Huế sẽ hoạt động mang lại hiệu quả
cao hơn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ ở địa phương, làm tròn trách nhiệm để
đúng nghĩa là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.


×