Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

luận văn thạc sĩ Năng lực của đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tĩnh trong thực hiện chức năng quyết định.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.34 KB, 84 trang )

Mục lục

Trang
Mở đầu
1
Chơng 1: Cơ sở lý luận về năng lực của đại biểu hội đồng
nhân dân cấp tỉnh trong thực hiện chức năng
quyết định
8
1.1. Vị trí, vai trò của đại biểu hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong thực
hiện chức năng quyết định 8
1.2. Khái niệm, các yếu tố cấu thành năng lực của đại biểu Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh trong thực hiện chức năng quyết định 26
1.3. Các yếu tố bảo đảm và các tiêu chí đánh giá năng lực của đại
biểu hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong thực hiện chức năng
quyết định 33
Chơng 2: Thực trạng năng lực của đại biểu Hội đồng
nhân dân tỉnh hà tĩnh trong thực hiện chức
năng quyết định
40
2.1.Thực trạng năng lực của đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tĩnh
trong thực hiện chức năng quyết định từ 1999 đến nay 40
2.2. Đánh giá năng lực của đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tĩnh
trong thực hiện chức năng quyết định 59
2.3. Nguyên nhân yếu kém, tồn tại ảnh hởng đến chất lợng thực hiện
chức năng quyết định của đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh Hà
Tĩnh 63
Chơng 3: một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực của
đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh hà tĩnh trong
thực hiện chức năng quyết định
70


3.1. Yêu cầu khách quan nâng cao năng lực của đại biểu Hội đồng
nhân dân tỉnh Hà Tĩnh trong thực hiện chức năng quyết định 70
3.2. Một số quan điểm về nâng cao năng lực của đại biểu Hội đồng
nhân dân tỉnh Hà Tĩnh trong thực hiện chức năng quyết định 73
3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực của đại biểu Hội đồng
nhân dân tỉnh Hà Tĩnh trong thực hiện chức năng quyết định 76
Kết luận và kiến nghị
93
Danh mục tài liệu tham khảo
95
Danh mục các chữ viết tắt trong luận văn
HĐND : Hội đồng nhân dân
1
UBND : Uû ban nh©n d©n
XHCN : X· héi chñ nghÜa
2
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ
nghĩa (XHCN) của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam hiện nay, vấn
đề kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nớc
là một yêu cầu khách quan. Mục đích đặt ra là làm cho các cơ quan nhà nớc ở
Trung ơng cũng nh ở địa phơng thực hiện đúng và đầy đủ chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của mình theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Điều 119 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi quy định: "Hội đồng nhân dân
là cơ quan quyền lực nhà nớc ở địa phơng, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phơng bầu ra, chịu trách nhiệm
trớc nhân dân địa phơng và cơ quan nhà nớc cấp trên"[25, tr.67]. Nh vậy, Hội
đồng nhân dân (HĐND) vừa là cơ quan quyền lực nhà nớc ở địa phơng, vừa là
cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân. Bởi

vậy, xây dựng HĐND các cấp có thực quyền để đảm đơng đầy đủ vai trò,
trách nhiệm của mình là một yêu cầu bức thiết hiện nay.
HĐND có 2 chức năng cơ bản: chức năng quyết định và chức năng
giám sát. Trong hai chức năng đó, chức năng quyết định làm nổi bật vị trí của
HĐND là cơ quan quyền lực nhà nớc ở địa phơng. Thực hiện tốt chức năng
quyết định là điều kiện đảm bảo để HĐND thực sự là cơ quan quyền lực nhà
nớc ở địa phơng. Vì vậy, không ít ngời cho rằng chức năng cơ bản của HĐND
là thay mặt nhân dân địa phơng quyết định những vấn đề có liên quan đến đời
sống của nhân dân địa phơng. Mặc dù hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều quan
điểm khác nhau về tính chất của HĐND, nhng theo quy định của Hiến pháp
năm 1992 sửa đổi thì HĐND vừa là cơ quan quyền lực nhà nớc ở địa phơng
vừa là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân
dân địa phơng. Để HĐND thực hiện tốt các chức năng của mình, điều đó phụ
thuộc vào nhiều yếu tố. Trong đó yếu tố năng lực của đại biểu HĐND là yếu
tố quan trọng hàng đầu quyết định chất lợng, hiệu quả hoạt động nói chung
của HĐND và đặc biệt nó ảnh hởng trực tiếp đến chất lợng các nghị quyết do
HĐND ban hành.
Thực hiện những chủ trơng của Đảng và Nhà nớc về đổi mới tổ chức và
hoạt động của HĐND, trong 20 năm đổi mới vừa qua tổ chức và hoạt động
của HĐND đã có những chuyển biến rõ nét, đóng góp tích cực vào sự nghiệp
3
chung của công cuộc đổi mới và xây dựng Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân. Tuy nhiên, theo đánh giá của nhiều báo cáo
chính thức, tổ chức và hoạt động của HĐND ở các cấp vẫn còn biểu hiện hình
thức, cha thực hiện tốt vai trò chức năng luật định; hiệu lực hiệu quả còn thấp,
thậm chí trong d luận xã hội còn có ý kiến cho rằng HĐND cha có thực
quyền.
Xuất phát từ yêu cầu phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nớc pháp quyền
XHCN của dân, do dân, vì dân; xuất phát từ những yếu kém tồn tại trong tổ
chức, hoạt động của HĐND với định hớng làm thế nào để HĐND thực hiện đợc

đúng vai trò chức năng của mình, đòi hỏi cần có sự nghiên cứu toàn diện các yếu
tố tác động, ảnh hởng đến tổ chức, hoạt động của HĐND.
Hoạt động của HĐND có đạt chất lợng, hiệu quả hay không điều đó
phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Trong đó, yếu tố năng lực của đại biểu
đóng vai trò quan trọng, bởi hoạt động của HĐND chính là hoạt động của bản
thân các đại biểu. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, khi chúng ta tiến hành
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc, ngời đại biểu nhân dân ngoài phẩm
chất đạo đức tốt còn phải là ngời có năng lực, có hiểu biết về pháp luật, có
trình độ nhất định về quản lý nhà nớc, quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Có nh
vậy, họ mới có điều kiện thực hiện tốt chức năng của mình, đặc biệt khi tham
gia thực hiện chức năng quyết định.
Trong các cấp HĐND thì HĐND cấp tỉnh có vị trí, vai trò quan trọng
nổi bật. ở cấp này hoạt động của HĐND đợc thể hiện một cách bao quát và
đầy đủ trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội ở địa phơng. Vì vậy, nghiên
cứu các yếu tố ảnh hởng đến tổ chức và hoạt động của HĐND cấp tỉnh trong
đó có yếu tố năng lực của đại biểu HĐND trong tham gia thực hiện chức năng
quyết định sẽ tạo điều kiện thuận lợi để tìm hiểu vấn đề này của HĐND ở các
cấp khác. Vì không đủ điều kiện thời gian nghiên cứu vấn đề này trên phạm vi
cả nớc nên tác giả lựa chọn nghiên cứu năng lực của đại biểu HĐND cấp tỉnh
ở một địa phơng cụ thể trong tham gia thực hiện chức năng quyết định.
Hà Tĩnh là một tỉnh miền trung thuộc diện tỉnh nghèo của Việt Nam.
Tỉnh Hà Tĩnh đợc tái lập từ năm 1991(tách từ tỉnh Nghệ Tĩnh cũ) trong bối
cảnh cả nớc bớc vào thời kỳ đổi mới, chủ trơng của Đảng và nhà nớc là phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần, chuyển từ cơ chế quản lý kinh tế tập trung
bao cấp sang cơ chế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa còn rất mới mẻ.
4
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, Hà Tĩnh vẫn còn phải đơng đầu với những
khó khăn, thách thức đáng kể: Cơ sở vật chất thiếu thốn, sản xuất chậm phát
triển, t tởng tiểu nông trong cán bộ và nhân dân còn nặng, đội ngũ cán bộ các
cấp, các ngành đã yếu lại thiếu trầm trọng, mất cân đối, không đồng bộ giữa

các lĩnh vực Đó là những thách thức lớn đặt ra cho Hà Tĩnh để thực hiện
thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bởi vậy, những quyết
sách đúng đắn, sáng suốt, khoa học của HĐND là một trong những yếu tố
hàng đầu góp phần đa tỉnh nhà phát triển đi lên theo kịp xu thế phát triển
chung của cả nớc. Việc xây dựng một đội ngũ cán bộ nói chung và đại biểu
HĐND nói riêng thực sự có năng lực và tâm huyết với sự phát triển của tỉnh
nhà càng trở nên bức thiết. Bởi vậy, việc phân tích thực trạng năng lực của đại
biểu HĐND tỉnh Hà Tĩnh trong tham gia thực hiện chức năng quyết định và
tìm ra các giải pháp tối u nhằm nâng cao năng lực hoạt động của họ lại càng
có ý nghĩa thiết thực, góp phần vào sự hoạt động có hiệu lực, hiệu quả của bộ
máy nhà nớc ở địa phơng, đa Hà Tĩnh sớm thoát khỏi tỉnh nghèo vơn lên giàu
mạnh.
Việc nghiên cứu này vừa góp phần đề ra các giải pháp nâng cao năng
lực thực hiện chức năng quyết định của đại biểu HĐND cũng nh nâng cao
chất lợng, hiệu quả hoạt động của HĐND ở địa phơng đồng thời có thể rút ra
những vấn đề có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn cho việc nâng cao chất lợng
hoạt động của HĐND các cấp trên phạm vi cả nớc nói chung, đặc biệt trong
thực hiện chức năng quyết định.
Xuất phát từ những yêu cầu bức xúc về lý luận và thực tiễn nêu trên, tác
giả chọn đề tài: "Năng lực của đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tĩnh
trong thực hiện chức năng quyết định" làm luận văn thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề đổi mới tổ chức và phơng thức hoạt động của HĐND các cấp và
vấn đề nâng cao chất lợng đại biểu HĐND các cấp ở nớc ta đã đợc đề cập
nhiều trên các sách báo, tạp chí, các diễn đàn khoa học. Nhng các công trình
nghiên cứu này chủ yếu quan tâm đến vấn đề đổi mới tổ chức và phơng thức hoạt
động của HĐND nói chung hoặc chỉ đề cập một cách chung chung đến vấn đề
tính chất của HĐND hay vấn đề chất lợng của đại biểu HĐND nh:
- Nguyễn Quốc Tuấn, Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
của HĐND và UBND các cấp, Tạp chí Tổ chức nhà nớc số 6/2002.

5
- Đinh Ngọc Quang, Về đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND các
cấp nhiệm kỳ 2004-2009, Tạp chí Quản lý nhà nớc, số 2/2005.
- Bùi Huyền Mai, Đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND và UBND
thành phố Hà Nội, luận văn thạc sĩ Luật học, Viện Nhà nớc và Pháp luật, 2004.
- Lê Minh Thông, Đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND và UBND,
Tạp chí Nhà nớc và Pháp luật, số 6/1999.
- Vũ Đức Đán, Vấn đề bồi dỡng nâng cao năng lực hoạt động của đại
biểu HĐND, Tạp chí Quản lý nhà nớc, số 2/2005.
- Bùi Thế Vĩnh, Phơng thức và kỹ năng hoạt động của đại biểu HĐND,
trong chơng trình tập huấn đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 1999-2004,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
- Hồ Thị Hng, Nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND tỉnh Nghệ An
trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, 2006.
Các công trình trên chủ yếu tiếp cận HĐND từ góc độ tổ chức và hoạt
động một cách chung chung hoặc là bàn về tính chất của HĐND hoặc là đi
sâu nghiên cứu chức năng giám sát của HĐND mà ít đề cập đến vấn đề năng
lực của đại biểu HĐND. Đặc biệt vấn đề năng lực của đại biểu HĐND trong
tham gia thực hiện chức năng quyết định thì hầu nh cha có công trình khoa
học nào đi sâu nghiên cứu. Đặc biệt sau khi Luật Tổ chức HĐND và Uỷ ban
nhân dân (UBND) năm 2003, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của
HĐND và UBND năm 2004 đợc ban hành thì hoạt động quyết định của
HĐND cấp tỉnh đã có nhiều vấn đề mới đợc đặt ra cả về lý luận và thực tiễn,
trong đó có nhiều vấn đề liên quan đến năng lực của đại biểu HĐND nhng cha
có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện và đầy đủ về
vấn đề này. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề năng lực của đại biểu HĐND cấp tỉnh
trong tham gia thực hiện chức năng quyết định ở Việt Nam nói chung và ở Hà
Tĩnh nói riêng là một yêu cầu thiết thực hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích nghiên cứu:

Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực của đại biểu HĐND
tỉnh Hà Tĩnh trong tham gia thực hiện chức năng quyết định.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ khái niệm chức năng quyết định của HĐND, phân tích đặc điểm,
nội dung và hình thức thực hiện chức năng quyết định của HĐND cấp tỉnh.
6
- Làm rõ khái niệm chất lợng của các nghị quyết do HĐND ban hành,
các yếu tố đảm bảo và các tiêu chí đánh giá chất lợng hiệu quả của các nghị
quyết đó.
- Làm rõ khái niệm năng lực của đại biểu HĐND trong tham gia thực hiện
chức năng quyết định, các yếu tố cấu thành, các yếu tố đảm bảo năng lực của đại
biểu HĐND cấp tỉnh trong tham gia thực hiện chức năng quyết định.
- Phân tích thực trạng việc thực hiện chức năng quyết định của HĐND
cũng nh năng lực của đại biểu HĐND tỉnh Hà Tĩnh trong hiện chức năng
quyết định, qua đó đánh giá chất lợng hoạt động thực hiện chức năng quyết
định của HĐND tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay.
- Xác định những quan điểm, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao
năng lực của đại biểu HĐND cấp tỉnh ở Hà Tĩnh trong tham gia thực hiện
chức năng quyết định, góp phần đa các quyết định của HĐND tỉnh Hà Tĩnh
đạt tính khả thi cao trong thực tế, đảm bảo dân chủ, đảm bảo để HĐND tỉnh
Hà Tĩnh thực sự là cơ quan quyền lực nhà nớc ở địa phơng, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phơng theo đúng quy định
của Hiến pháp và pháp luật.
4. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu lý luận chung về chức năng quyết định
của HĐND cấp tỉnh, năng lực của đại biểu HĐND cấp tỉnh trong tham gia
thực hiện chức năng quyết định; đánh giá thực trạng năng lực của đại biểu
HĐND tỉnh Hà Tĩnh trong tham gia thực hiện chức năng quyết định qua
nhiệm kỳ 1999 - 2004 và từ 2004 đến nay, từ đó tìm ra nguyên nhân của
những hạn chế và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng lực của đại biểu

HĐND tỉnh Hà Tĩnh trong tham gia thực hiện chức năng quyết định.
5. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu của luận văn
* Cơ sở lý luận:
Luận văn đợc thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, t t-
ởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nớc Việt Nam về nhà nớc kiểu
mới, về HĐND, chức năng quyết định của HĐND; về vấn đề năng lực, vị trí,
vai trò của đại biểu HĐND trong bộ máy nhà nớc.
* Phơng pháp nghiên cứu:
Ngoài phơng pháp luận của triết học Mác-Lênin, luận văn còn sử dụng
các phơng pháp nghiên cứu cụ thể nh: phơng pháp phân tích, tổng hợp, thống
kê, so sánh, phơng pháp chuyên gia, khảo sát điều tra xã hội.
7
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu về năng lực của đại
biểu HĐND tỉnh Hà Tĩnh trong thực hiện chức năng quyết định, bởi vậy luận
văn có những điểm mới sau đây:
- Khái quát những nét cơ bản về chức năng quyết định của HĐND cấp tỉnh.
- Làm rõ khái niệm năng lực của đại biểu HĐND, khái niệm năng lực
của đại biểu HĐND trong tham gia thực hiện chức năng quyết định.
- Đánh giá một cách toàn diện, có hệ thống thực trạng về năng lực của
đại biểu HĐND tỉnh Hà Tĩnh nhiệm kỳ 1999 - 2004 và từ 2004 đến nay trong
tham gia thực hiện chức năng quyết định.
- Đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực của đại biểu
HĐND tỉnh Hà Tĩnh trong tham gia thực hiện chức năng quyết định. Trên cơ
sở đó có thể nhân rộng mô hình này cho đại biểu HĐND cấp tỉnh ở các địa
phơng khác trên phạm vi cả nớc.
7. Kết cấu của luận văn
Với mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra và giới hạn đối tợng, phạm
vi nghiên cứu nh trình bày trên đây luận văn đợc kết cấu nh sau: Ngoài phần
mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chơng, 9

tiết.
8
Chơng 1
Cơ sở lý luận về năng lực của đại biểu hội đồng nhân
dân cấp tỉnh trong thực hiện chức năng quyết định
1.1. Vị trí, vai trò của đại biểu hội đồng nhân dân cấp tỉnh
trong thực hiện chức năng quyết định
1.1.1. Vị trí, vai trò của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong bộ máy
nhà nớc
Theo quy định tại Điều 2, Hiến pháp Việt Nam năm 1992 sửa đổi: Nhà
nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nớc thuộc
về nhân dân [25, tr.13]. Với khẳng định trên, ở nớc ta, quyền lực nhà nớc
là quyền lực của nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông
qua các cơ quan đại diện đó là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Quốc
hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nớc, HĐND là cơ quan quyền lực
nhà nớc ở địa phơng[25, tr.15].
Nh vậy, trong bộ máy nhà nớc, HĐND là cơ quan quyền lực nhà nớc ở
địa phơng, do nhân dân địa phơng trực tiếp bầu ra, đại diện cho ý chí, nguyện
vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phơng đó. HĐND có quyền quyết
định những vấn đề quan trọng của địa phơng theo quy định của Hiến pháp và
pháp luật. Trong lịch sử phát triển của mình, HĐND đã làm đợc nhiều việc ích
nớc lợi dân, đã thể hiện đợc vai trò là cơ quan đại biểu của nhân dân, là chỗ
dựa vững chắc để xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng ngày càng lớn
mạnh.
Tuy nhiên, về lý luận cũng nh thực tiễn, chúng ta cha quan tâm đúng
mức đến việc xây dựng mô hình từng cấp và tổng kết kinh nghiệm trong hoạt
động của HĐND. Vì thế, trên thực tế cả về mặt tổ chức cũng nh hoạt động của
HĐND các cấp vẫn còn là một trong những khâu yếu kém của bộ máy nhà n-
ớc. Chính vì vậy, có ý kiến cho rằng cần bỏ HĐND, hay nói cách khác, sự tồn

tại của HĐND là không cần thiết, bởi hoạt động của nó rất hình thức, làm cho
bộ máy nhà nớc thêm cồng kềnh, tốn kém. Đó là quan điểm hoàn toàn sai lầm vì
nó trái với bản chất của Nhà nớc ta - Nhà nớc của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân; theo đó phải có cơ quan đại diện của nhân dân ở trung ơng cũng nh ở
địa phơng, cơ sở để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Nh vậy, vấn đề
đặt ra hiện nay là phải củng cố, kiện toàn HĐND để HĐND hoạt động thực chất
9
hơn và ngày càng có hiệu lực, hiệu quả tơng xứng với vị trí, vai trò của HĐND
nh Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định.
Vị trí, vai trò của HĐND trong bộ máy nhà nớc ta đợc khẳng định dựa
trên những cơ sở lý luận và thực tiễn sau đây:
- Trong suốt quá trình tồn tại và phát triển, HĐND các cấp đã khẳng
định đợc vị trí, vai trò, và trách nhiệm của mình. Với t cách là cơ quan quyền
lực nhà nớc ở địa phơng, đại diện cho nhân dân địa phơng, HĐND có khả
năng đoàn kết, tập hợp, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng, động
viên đợc mọi nguồn lực vật chất và tinh thần của mỗi địa phơng góp phần vào
thắng lợi chung của sự nghiệp cách mạng.
- Sự hiện diện của HĐND các cấp dới sự lãnh đạo của Đảng có vai trò
to lớn trong việc hình thành nhà nớc kiểu mới ở nớc ta, thể hiện đợc tính giai
cấp sâu sắc, tính giai cấp thực sự của nhà nớc, tạo niềm tin vững chắc cho
nhân dân về một chính quyền của dân, do dân, vì dân.
- HĐND các cấp đã trở thành trờng học về quyền làm chủ của nhân
dân. Những ngời có đủ năng lực, phẩm chất sẽ tham gia vào HĐND và thông
qua họ, HĐND trở thành diễn đàn để ngời dân lao động thực hiện quyền làm
chủ Nhà nớc và xã hội của mình. Thực tiễn hoạt động của HĐND từ khi ra đời
cho đến nay thực sự là tài sản và kinh nghiệm quý báu cho quá trình xây dựng
Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
- HĐND là cầu nối giữa chính quyền trung ơng và chính quyền địa phơng;
vừa bảo đảm sự tập trung thống nhất trong hoạt động của bộ máy nhà nớc trên phạm
vi toàn quốc, vừa đảm bảo phát huy đợc nội lực từng địa phơng, cơ sở. Thông

qua Quốc hội và HĐND các cấp, bằng quyền dân chủ trực tiếp của mình,
nhân dân thực hiện đợc quyền làm chủ trên phạm vi cả nớc và trớc hết làm
chủ ở ngay địa phơng, cơ sở.
Trên những cơ sở thực tiễn và lý luận đó, Điều 119 Hiến pháp năm 1992
và Điều 1 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 đều xác định: HĐND là cơ
quan quyền lực nhà nớc ở địa phơng, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền
làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phơng bầu ra, chịu trách nhiệm trớc nhân
dân địa phơng và cơ quan nhà nớc cấp trên [25, tr.67].
Hiến pháp cũng quy định thẩm quyền rộng rãi cho HĐND, đảm bảo để
HĐND thực sự là cơ quan quyền lực nhà nớc ở địa phơng, chịu trách nhiệm và
toàn quyền quyết định những vấn đề trọng đại của địa phơng trong khuôn khổ
10
quy định của Hiến pháp và Pháp luật. Điều 120 Hiến pháp Việt Nam năm
1992 ghi nhận:
Căn cứ vào Hiến pháp, luật, văn bản của các cơ quan nhà nớc
cấp trên, HĐND ra nghị quyết về các biện pháp bảo đảm thi hành
nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa phơng; về kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội và ngân sách; về quốc phòng, an ninh ở địa ph-
ơng; về biện pháp ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân, hoàn
thành mọi nhiệm vụ cấp trên giao cho, làm tròn nghĩa vụ đối với cả
nớc [25, tr.120].
Nh vậy, Hiến Pháp và pháp luật hiện hành quy định chung về vị trí, vai
trò của HĐND các cấp.Từ những quy định của Hiến pháp năm 1992, Luật Tổ
chức HĐND và UBND năm 2003, có thể khái quát vị trí, vai trò của HĐND
cấp tỉnh trên các mặt sau đây:
Thứ nhất, HĐND là cơ quan đại diện của nhân dân địa phơng.
ở địa phơng, HĐND là cơ quan duy nhất đợc thành lập bằng một cuộc
bầu cử do cử tri địa phơng trực tiếp bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình
đẳng, bỏ phiếu kín; hình thức hoạt động của HĐND chủ yếu thông qua kỳ
họp toàn thể. Mọi quyết định của HĐND đợc thông qua bằng việc biểu quyết

theo nguyên tắc đa số tơng đối hoặc đa số tuyệt đối. Tính chất đại diện của
HĐND về mặt hình thức đợc thể hiện rõ nét nhất ở việc cơ cấu đại biểu trong
Hội đồng. Mỗi địa phơng căn cứ vào số lợng dân c, có một số lợng đại biểu
nhất định đại diện cho nữ giới, ngời dân tộc, tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị - xã hội, lực lợng vũ trang nhân dân, các cơ quan nhà nớc và các khu vực
dân c. Điều này có nghĩa, HĐND không đại diện cho một đảng phái, tổ chức
nào mà đại diện cho toàn thể nhân dân. Thành phần trong HĐND thể hiện
khối đại đoàn kết của toàn dân sống trên địa bàn địa phơng. Tính chất đại diện
của HĐND khác với tính chất đại diện của Quốc hội. Hiến pháp năm 1992
xác định: Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân (Điều 83); đại
biểu Quốc hội là đại diện cho nhân dân cả nớc (Điều 97). Còn HĐND là cơ quan
chỉ đại diện cho nhân dân địa phơng bầu ra mình, đồng thời chịu trách nhiệm tr-
ớc nhân dân địa phơng đó và cơ quan nhà nớc cấp trên.
Tuy nhiên, về mặt lý luận cũng nh thực tiễn, cách thành lập HĐND, cơ
cấu đại biểu, hình thức hoạt độngmới chỉ là dấu hiệu về mặt hình thức, còn
hiệu quả hoạt động trong thực tế mới là cơ sở phản ánh đầy đủ nhất tính chất
11
đại diện của HĐND. Song hiệu quả hoạt động thực tế hiện nay của HĐND ch-
a thực sự đáp ứng đợc lòng mong mỏi của nhân dân, mà mới chỉ phản ánh đợc
phần nào bản chất dân chủ của chế độ nhà nớc ta.
Thứ hai, HĐND là cơ quan quyền lực nhà nớc ở địa phơng, thể hiện ở
các mặt sau đây:
+ Đợc thành lập bởi các đại biểu do nhân dân địa phơng bầu ra, đại
diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân.
+ Có quyền căn cứ vào pháp luật bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm các chức
danh của UBND là cơ quan chấp hành của mình; bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm
Hội thẩm nhân dân của Toà án nhân dân cùng cấp; cũng nh có quyền bỏ phiếu
tín nhiệm đối với các chức danh do HĐND bầu ra.
+ Có quyền căn cứ vào Hiến pháp và pháp luật ra nghị quyết để triển
khai các mặt công tác ở địa phơng.

+ Có quyền giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật ở địa phơng
đồng thời chịu sự giám sát, hớng dẫn của Uỷ ban thờng vụ Quốc hội và hớng
dẫn, kiểm tra của Chính phủ.
Nh vậy, tính chất quyền lực của HĐND đợc thể hiện trên nhiều phơng
diện, nhng xét về mặt địa vị pháp lý không giống với Quốc hội. Quốc hội đợc
Hiến pháp ghi nhận là cơ quan quyền lực cao nhất của cả nớc về phạm vi, cấp
độ cũng nh thẩm quyền, đặc biệt là quyền ban hành Hiến pháp, pháp luật. ở
nớc ta, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp. HĐND
cũng là cơ quan quyền lực nhà nớc nhng chỉ có quyền ban hành Nghị quyết -
là loại văn bản dới luật, phải phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật của cơ
quan nhà nớc cấp trên.
Tóm lại, xét về mặt hình thức cũng nh nội dung hoạt động, thiết chế
HĐND ở nớc ta thực sự là ngời đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân
ở địa phơng. Quyền lực của HĐND đợc xác định trong Hiến pháp về bản chất
cũng là quyền lực của nhân dân. Vấn đề đặt ra là, bằng cách nào để HĐND thực
hiện đợc quyền lực của mình trên thực tiễn là mục đích hớng tới của công cuộc đổi
mới và hoàn thiện bộ máy nhà nớc nói chung và HĐND nói riêng.
1.1.2. Chức năng của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Chức năng của HĐND là những phơng diện hoạt động chủ yếu của
HĐND nhằm thực hiện vai trò, nhiệm vụ của HĐND.
12
Căn cứ vào Điều 1 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003, HĐND
các cấp đều có 2 chức năng cơ bản là chức năng quyết định và chức năng
giám sát.
1.1.2.1. Chức năng quyết định
Điều 1 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 ghi nhận nh sau:
HĐND quyết định những chủ trơng, biện pháp quan trọng để
phát huy tiềm năng của địa phơng, xây dựng và phát triển địa phơng
về kinh tế, xã hội, củng cố quốc phòng an ninh, không ngừng cải thiện
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phơng, làm tròn nghĩa

vụ của địa phơng đối với cả nớc [31, tr.29].
Để có cơ sở pháp lý cho HĐND cấp tỉnh thực hiện tốt chức năng này,
Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 đã xác định cụ thể nội dung những
vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền quyết định của HĐND bao gồm:
+ Quyết định về quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (Điều 11).
+ Quyết định về phát triển giáo dục, y tế, xã hội, văn hoá, thông tin, thể
dục, thể thao (Điều 12).
+ Quyết định về phát triển khoa học - công nghệ, tài nguyên và môi tr-
ờng (Điều 13).
+ Quyết định về quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội (Điều 14).
+ Quyết định về thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo
(Điều 15).
+ Quyết định về việc thi hành pháp luật (Điều 16).
+ Quyết định việc xây dựng chính quyền địa phơng (Điều 17)
Nh vậy, nội dung, chức năng quyết định của HĐND cấp tỉnh rất rộng,
bao gồm tất cả các mặt của đời sống kinh tế - xã hội, văn hoá, khoa học, quốc
phòng, an ninh. Điều này một lần nữa khẳng định rõ hơn vị trí, vai trò và tầm
quan trọng của HĐND trong chính quyền địa phơng. Mặt khác, đây cũng là
những căn cứ pháp lý để tạo ra môi trờng thuận lợi cho chính quyền địa phơng
khai thác hết mọi tiềm năng, nội lực sẵn có của mình, nhằm nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần cho nhân dân địa phơng, làm tròn nghĩa vụ đối với cử
tri và cấp trên giao cho.
ở đây chúng ta cần lu ý, theo quy định của pháp luật, trong chức năng
quyết định, HĐND có thẩm quyền rất lớn đối với sự phát triển toàn diện của
địa phơng. Vì vậy, khi đa ra các quyết định đó phải đảm bảo tính dân chủ và
13
tính khả thi trên thực tế, tránh tình trạng mọi vấn đề đợc quyết định trớc, đến
kỳ họp HĐND, đại biểu chỉ giơ tay biểu quyết một cách hình thức, không có
sự bàn bạc, thảo luận. Thực hiện thảo luận và biểu quyết dân chủ là điều kiện
đảm bảo chất lợng đối với các quyết định của Hội đồng.

Để thực hiện chức năng quyết định, HĐND thông qua các kỳ họp ra
các nghị quyết dựa trên nguyên tắc biểu quyết theo đa số. Để ban hành các
nghị quyết quyết định các vấn đề phát triển kinh tế - xã hội của địa phơng,
HĐND phải tiến hành các kỳ họp để lấy ý kiến của tập thể đại biểu. Kỳ họp
chỉ đợc coi là hợp lệ khi có ít nhất 2/3 số đại biểu tham dự và các nghị quyết
đợc coi là hợp pháp khi có tối thiểu quá nửa số đại biểu dự họp tham gia biểu
quyết (trừ trờng hợp bãi nhiệm đại biểu HĐND). Nh vậy, để ban hành các
nghị quyết, HĐND phải phát huy vai trò trí tuệ tập thể, phải đợc sự thống nhất
ý chí của các đại biểu và phải đạt đợc sự đồng thuận với ý chí, nguyện vọng
của cử tri và nhân dân địa phơng. Bởi vậy, để các nghị quyết đạt đợc tính khả
thi cao trong thực tế đòi hỏi các đại biểu phải thực sự có năng lực, có kỹ năng
hoạt động tốt. Các đại biểu phải là những ngời thực sự có đức, có tài, tâm
huyết với nhân dân, với sự nghiệp phát triển đi lên của địa phơng và đất nớc.
Ngời đại biểu HĐND phải là ngời biết gần dân, biết tôn trọng nhân dân, biết
lắng nghe và tiếp thu các ý kiến từ nhân dân. Đồng thời, ngời đại biểu phải
thực sự có khả năng nắm bắt, xử lý thông tin, phải có khả năng đánh giá tình
hình phát triển của địa phơng. Có nh thế, tại các kỳ họp họ mới có thể đa ra
các ý kiến thảo luận thực sự đúng đắn, khoa học, phù hợp sát thực với tình
hình thực tiễn của địa phơng. Trên cơ sở đó góp phần để HĐND đa ra các
nghị quyết phù hợp với điều kiện địa phơng và đạt tính khả thi cao trên thực
tế.
Chất lợng, hiệu quả của các quyết định do HĐND thể hiện trong các
nghị quyết đợc đánh giá thông qua tính hiệu quả của các nghị quyết đó khi đ-
ợc triển khai thực hiện trên thực tế. Cụ thể là, nghị quyết đó sau khi đợc ban
hành có đợc triển khai thực hiện hay không, kết quả triển khai thực hiện cao
hay thấp, đạt đợc bao nhiêu phần trăm so với kế hoạch ban đầu, hiệu quả kinh
tế nh thế nào, việc thực hiện nghị quyết đã góp phần nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần cho nhân dân địa phơng, góp phần vào sự nghiệp cách mạng
chung của cả nớc đến đâu
14

Nh vậy, nội dung chức năng quyết định của HĐND cấp tỉnh rất rộng,
hình thức thực hiện thông qua các nghị quyết, các tiêu chí để đánh giá chất l-
ợng các quyết định đó chỉ mang tính chung chung. Bởi vậy, trên thực tế ở rất
nhiều địa phơng, công tác đánh giá chất lợng các quyết định đó đã không đợc
tiến hành hoặc chỉ tiến hành một cách hình thức, không đa ra đợc các kết luận
cụ thể để rút ra các kinh nghiệm khi đa ra các quyết định mới. Thậm chí, một
số nghị quyết đang trong quá trình triển khai đã bộc lộ tính kém hiệu quả,
thậm chí thất bại ngay khi cha triển khai xong. Nhng do không có sự đánh giá
khách quan cần thiết nên vẫn cứ tiến hành theo kế hoạch dẫn đến hậu quả
không đáng có. Một số các dự án, công trình sau khi đợc HĐND tỉnh ra nghị
quyết quyết định triển khai đã để lại hậu quả kinh tế, xã hội nặng nề cho địa
phơng, làm mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng, chính quyền và cán bộ
công chức nhà nớc.
Vấn đề đặt ra hiện nay là phải làm thế nào để HĐND tỉnh thực hiện tốt
chức năng quyết định, góp phần giải quyết tốt các vấn đề đặt ra đối với từng
địa phơng, nâng cao đời sống cho nhân dân, đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nớc.
1.1.2.2. Chức năng giám sát
Đoạn 3 Điều 1 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 quy định:
HĐND thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của thờng trực
HĐND, UBND,TAND,VKSND cùng cấp; giám sát việc thực hiện nghị
quyết của HĐND; giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà n-
ớc, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công
dân ở địa phơng [31, tr.10].
Qua quá trình phát triển, vai trò, chức năng giám sát của HĐND ngày
càng đợc hoàn thiện. Đặc biệt, với sự ra đời của Luật Tổ chức HĐND và
UBND năm 2003 đã đánh dấu một bớc phát triển mới về chức năng giám sát
của HĐND cả về mặt lý luận cũng nh thực tiễn, nâng cao đợc vị thế và vai trò
của HĐND hiện nay.
Chức năng giám sát của HĐND bao giờ cũng gắn liền với chức năng

quyết định những vấn dề cơ bản về kinh tế, xã hội của HĐND. Thực hiện tốt
chức năng này không những cho phép HĐND kiểm tra, đánh giá hoạt động
của các cơ nhà nớc trong việc tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, các nghị quyết
của HĐND mà còn cho phép HĐND phát hiện đợc sự không phù hợp, thiếu
15
thực tế của các nghị quyết do HĐND ban hành để sửa đổi, bổ sung. Kết quả
giám sát sẽ là căn cứ để HĐND thực hiện quyền bãi nhiệm, miễn nhiệm các
chức vụ chủ chốt (Chủ tịch, Phó Chủ tich HĐND, Chủ tịch, Phó Chủ tịch và
các thành viên của UBND, Trởng ban và các thành viên các ban của HĐND)
hoặc sẽ là căn cứ để HĐND bãi bỏ những quyết định sai trái của UBND cùng
cấp và những Nghị quyết sai trái của HĐND cấp dới trực tiếp.
Nh vậy,
Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, vị trí, vai trò và
chức năng của HĐND rất lớn. Vấn đề đặt ra hiện nay chúng ta phải
làm thế nào để HĐND thể hiện và phát huy tốt vị trí, vai trò và chức
năng của Hội đồng trên thực tế; đảm bảo sự phối hợp, hợp tác với
nhau giữa các cơ quan nhà nớc ở địa phơng nhằm đa lại cuộc sống
ngày càng ấm no, hạnh phúc cho ngời dân [27, tr.141 - 143].
Để đáp ứng đợc yêu cầu trên, cần phải đổi mới tổ chức, nâng cao chất l-
ợng và hiệu quả hoạt động của HĐND, trong đó đặc biệt phải chú ý đến chất
lợng các nghị quyết do HĐND ban hành quyết định những vấn đề cơ bản,
quan trọng của địa phơng, đảm bảo để HĐND thực sự là cơ quan quyền lực
nhà nớc ở địa phơng.
Do yêu cầu của luận văn đặt ra, vấn đề năng lực của Đại biểu HĐND
trong tham gia thực hiện chức năng quyết định cần đợc nghiên cứu sâu cả về
mặt lý luận cũng nh thực tiễn. Trên cơ sở đó, chúng ta có những căn cứ để đề
xuất một số phơng hớng, giải pháp nhằm nâng cao năng lực của đại biểu
HĐND cấp tỉnh trong thực hiện chức năng của HĐND nói chung và thực hiện
chức năng quyết định ở Hà Tĩnh nói riêng trong điều kiện chúng ta đang tiến
hành đổi mới đất nớc hiện nay.

1.1.3. Vị trí, vai trò của Đại biểu Hội đồng nhân dân trong thực
hiện chức năng quyết định
Theo quy định tại Điều 121 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 sửa đổi:
Đại biểu HĐND là ngời đại diện cho ý chí, nguyện vọng của
nhân dân ở địa phơng, phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám
sát của cử tri, thực hiện chế độ tiếp xúc, báo cáo với cử tri về hoạt động
của mình và của HĐND, trả lời những yêu cầu, kiến nghị của cử tri,
xem xét, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân.
16
Đại biểu HĐND có nhiệm vụ vận động nhân dân thực hiện
pháp luật, chính sách của nhà nớc, nghị quyết của HĐND, động viên
nhân dân tham gia quản lý nhà nớc [25, tr.68].
Trên cơ sở Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, Điều 36 Luật Tổ chức HĐND
và UBND năm 2003 quy định: Đại biểu HĐND là ngời đại diện ý chí,
nguyện vọng của nhân dân địa phơng, gơng mẫu chấp hành chính sách, pháp
luật và tham gia vào việc quản lý nhà nớc[31, tr.32].
Từ những quy định trên chúng ta có thể phân tích khái niệm Đại biểu
HĐND với những nội dung cơ bản sau:
- Đại biểu HĐND trớc hết đợc hiểu là ngời đại diện cho các cộng đồng
dân c trên phạm vi địa giới hành chính. Ngời đại biểu HĐND với t cách đại
diện, họ có thể là đại biểu của tổ chức phụ nữ, thanh niên, tổ chức nông dân,
tổ chức tôn giáo, dân tộc ít ngời
- Đại biểu HĐND thay mặt cho cử tri của mình ghi nhận, phản ánh ý
chí, nguyện vọng của cử tri. Bằng hoạt động của mình trong cơ quan quyền
lực nhà nớc ở địa phơng đại biểu HĐND biến ý chí và nguyện vọng của cử tri
thành các quyết định mang tính pháp lý của nhà nớc. Những nghị quyết đợc
HĐND ban hành sẽ đợc các cơ quan quản lý hành chính nhà nớc tổ chức thực
hiện.
- Đại biểu HĐND về thực chất là ngời thực hiện quyền lực nhân dân
theo phơng thức thay mặt đại cử tri trên phạm vi lãnh thổ. Bản thân quyền lực

của ngời đại biểu HĐND có đợc là do nhân dân trao cho. Đại biểu HĐND đợc
hình thành theo nguyên tắc bầu cử trực tiếp của cử tri.
Qua đó, khẳng định đại biểu HĐND là thành viên của cơ quan quyền
lực nhà nớc ở địa phơng, là một bộ phận cấu thành không thể tách rời với
quyền lực nhà nớc thống nhất trong phạm vi cả nớc. Đại biểu HĐND là ngời
đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phơng, họ
vừa chịu trách nhiệm trớc nhân dân địa phơng, vừa chịu trách nhiệm trớc cơ
quan nhà nớc cấp trên về mọi mặt kinh tế - xã hội, đảm bảo thực hiện Hiến
pháp, Luật và các quyết định của các cơ quan nhà nớc.
Nh vậy, đại biểu HĐND cấp tỉnh trong hoạt động của mình là thay mặt
nhân dân toàn tỉnh thực hiện quyền lực nhà nớc, quyết định các vấn đề quan
trọng để phát huy các tiềm năng của địa phơng, xây dựng và phát triển kinh tế
- xã hội, biến ý chí, quyền lực của nhân dân trên địa bàn trở thành quyền lực
17
nhà nớc, thể hiện bằng các quyết định của nhà nớc. Đồng thời, đại biểu
HĐND tỉnh thực hiện quyền giám sát hoạt động tuân theo pháp luật của
UBND cùng cấp, của các cơ quan nhà nớc, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội,
đơn vị vũ trang nhân dân ở địa phơng.
Ngời đại biểu HĐND cấp tỉnh có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, đại biểu HĐND cấp tỉnh là ngời đại diện có thẩm quyền của
nhân dân địa phơng. Tính đại diện của đại biểu HĐND cấp tỉnh thể hiện ở chỗ:
- Đợc nhân dân địa phơng trao quyền thể hiện ý chí, nguyện vọng của
nhân dân trong các quyết định của cơ quan quyền lực nhà nớc.
Những yêu cầu về lợi ích và những nguyện vọng chính đáng của nhân
dân địa phơng là căn cứ xác định nội dung hoạt động của đại biểu HĐND cấp
tỉnh. Đại biểu HĐND cấp tỉnh phải phản ánh trung thực và bảo vệ mọi quyền,
lợi ích của cử tri nơi bầu ra mình; cần quan tâm đến mọi nguồn thông tin đại
chúng để hiểu rõ những gì cử tri đang đòi hỏi, từ đó hình thành chơng trình
hoạt động của đại biểu.
Đại biểu HĐND có quyền thay mặt nhân dân. Đó là quyền thảo luận,

quyền quyết định các vấn đề quan trọng của nhân dân trong các kỳ họp
HĐND; quyền thay mặt nhân dân khi quan hệ với các cơ quan, tổ chức ở địa
phơng để yêu cầu giải quyết các vấn đề đảm bảo các quyền và lợi ích hợp
pháp của nhân dân. Trong hoạt động của HĐND cấp tỉnh, mỗi đại biểu cần
quan tâm trớc hết đến lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân địa phơng,
của cộng đồng xã hội trong xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội địa phơng
trong lợi ích chung của dân tộc, đất nớc.
- Đợc đại diện nhân dân trong cơ quan quyền lực nhà nớc, mỗi đại biểu
có trách nhiệm trớc nhân dân, ở bất cứ thời điểm nào ngời dân cũng có thể
yêu cầu đại biểu HĐND thực hiện nghĩa vụ đối với nhân dân.
Thứ hai, đại biểu HĐND cấp tỉnh là ngời trực tiếp thực hiện quyền lực
nhà nớc của HĐND cấp tỉnh.
Tính quyền lực nhà nớc ở địa phơng của HĐND cấp tỉnh chính là hoạt
động mang tính quyền lực nhà nớc của từng đại biểu HĐND, đợc thể hiện ở
hai khía cạnh sau:
+ Đại biểu HĐND cấp tỉnh là thành viên của HĐND tham gia thực hiện
quyền lực nhà nớc trong HĐND tỉnh. Đại biểu là ngời tham gia quyết định
những vấn đề quan trọng nhất của địa phơng trong phạm vi thẩm quyền của
18
HĐND, thực hiện quyền giám sát của HĐND thông qua việc chất vấn và việc
báo cáo của các cơ quan nhà nớc trớc HĐND, đồng thời cũng là ngời đi đầu
trong việc đa các nghị quyết của HĐND vào cuộc sống. Điều đó đợc bảo đảm
thông qua việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của đại biểu HĐND trên thực tế.
+ Đại biểu HĐND cấp tỉnh là ngời đại diện cho quyền lực nhà nớc
trong quan hệ với các cơ quan nhà nớc và với cán bộ các cơ quan nhà nớc đó,
với các tổ chức xã hội và nhân dân. Đại biểu có quyền kiến nghị với các cơ
quan nhà nớc về việc thi hành pháp luật, về những vấn đề thuộc lợi ích chung,
các cơ quan nhà nớc nhận đợc kiến nghị có nghĩa vụ trả lời đại biểu. Đại biểu
HĐND có quyền yêu cầu cơ quan nhà nớc, tổ chức xã hội kịp thời chấm dứt
việc làm trái pháp luật. Các cơ quan khi đợc đại biểu HĐND cấp tỉnh yêu cầu

gặp thì phải tổ chức tiếp đại biểu theo đúng quy định.
Thứ ba, hoạt động của đại biểu HĐND cấp tỉnh không tách rời với hoạt
động chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội trong quản lý nhà nớc.
Đây là hoạt động tất yếu trong chức trách của đại biểu HĐND. Bởi vì,
chế độ đại biểu của nhà nớc Việt Nam là không làm cho các đại biểu trở thành
các nghị sỹ trong chế độ đại nghị. Đồng thời để đại biểu hoạt động có hiệu lực,
hiệu quả, pháp luật còn quy định những điều kiện cần thiết, tạo khả năng thiết
thực cho đại biểu thực hiện đầy đủ tính đại diện nhân dân, thực thi quyền lực nhà
nớc trong hoạt động của HĐND trong phạm vi địa phơng. Cụ thể:
- Đại biểu HĐND là ngời đại diện của nhân dân, đợc cử tri trao quyền
từ quyền lực nhân dân tập hợp thành cơ quan nhà nớc ở địa phơng.
- Đại biểu HĐND là thành viên của tập thể HĐND tham gia quyết định
những vấn đề quan trọng của địa phơng trong phạm vi thẩm quyền của HĐND.
Đại biểu HĐND là ngời đại diện cho quyền lực nhà nớc trong quan hệ
với các cơ quan nhà nớc, các tổ chức xã hội và công dân.
Đại biểu HĐND cấp tỉnh có các quyền và nghĩa vụ cơ bản sau:
Một là, quyền và nghĩa vụ trong thẩm quyền hoạt động của HĐND và
trong cơ cấu tổ chức của HĐND, gồm có:
+ Tham gia đầy đủ các kỳ họp, phiên họp của HĐND.
+ Quyền bầu cử và ứng cử trong các cơ quan của HĐND;
+ Quyền đề nghị vào chơng trình nghị sự của kỳ họp những vấn đề mà
đại biểu HĐND xét thấy cần thiết để HĐND xem xét và quyết định. ý kiến
của đại biểu phải đợc ghi vào biên bản của kỳ họp;
19
+ Quyền chất vấn Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND, các thành viên của
UBND và thủ trởng các cơ quan chuyên môn khác thuộc UBND cùng cấp.
Ngời bị chất vấn phải có nghĩa vụ trả lời những vấn đề mà đại biểu HĐND
chất vấn theo thủ tục pháp luật quy định;
+ Quyền đợc bầu vào các cơ quan, tổ chức của HĐND, nh: Thờng trực
HĐND, các ban của HĐND. Theo đó, đại biểu HĐND phải thực hiện nhiệm

vụ, quyền hạn theo Quy chế Tổ chức và hoạt động do các cơ quan nhà nớc có
thẩm quyền ban hành.
Hai là, quyền và nghĩa vụ của đại biểu HĐND cấp tỉnh trong mối liên
hệ với cử tri ở đơn vị bầu cử:
+ Liên hệ chặt chẽ với cử tri, tiếp xúc cử tri theo lịch, lấy ý kiến của cử
tri về những vấn đề sẽ đa vào nội dung kỳ họp HĐND;
+ Báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của HĐND, đồng thời
chịu sự giám sát của cử tri về các hoạt động đó;
+ Tham gia tổ chức thực hiện pháp luật và các quyết định của HĐND
và cơ quan nhà nớc cấp trên;
+ Tiếp dân theo lịch đợc phân công hoặc theo yêu cầu của nhân dân;
Khi nhận đợc kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân, đại biểu có trách
nhiệm nghiên cứu, đề xuất ý kiến trực tiếp hoặc thông qua tổ chức, hoạt động
của HĐND để giám sát, chất vấn các tổ chức, cơ quan có thẩm quyền xem
xét, giải quyết những khiếu kiện, tố cáo đó.
Ba là, quyền của đại biểu HĐND cấp tỉnh trong quan hệ với các cơ
quan nhà nớc, tổ chức xã hội và các đơn vị đóng trên địa bàn địa phơng.
+ Theo uỷ quyền của HĐND, đại biểu HĐND tỉnh có quyền xem xét
hoạt động của cơ quan nhà nớc, tổ chức kinh tế, văn hoá, xã hộivề những
vấn đề thuộc thẩm quyền của HĐND cấp tỉnh;
+ Quyền yêu cầu đợc cung cấp tài liệu, đợc bảo đảm thông tin cần thiết
cho hoạt động đại biểu. Các cơ quan có thẩm quyền phải đảm bảo các yêu cầu
đó cho đại biểu HĐND;
+ Quyền kiến nghị các cơ quan tổ chức và công dân chấp hành đúng
pháp luật, kiến nghị những biện pháp ngăn chặn vi phạm pháp luật và tiêu cực
trong cơ quan, tổ chức. Kiến nghị truy cứu trách nhiệm đối với những cán bộ,
công chức nhà nớc có hành vi vi phạm pháp luật;
+ Quyền giám sát, theo dõi, đôn đốc hoạt động giải quyết khiếu nại, tố
cáo của công dân trong các cơ quan nhà nớc có thẩm quyền;
20

+ Quyền yêu cầu gặp lãnh đạo các cơ quan, tổ chức. Ngời có thẩm
quyền quản lý cơ quan có trách nhiệm phải tiếp và giải quyết yêu cầu đó;
+ Các cơ quan hành chính nhà nớc và cán bộ nhà nớc trong phạm vi
thẩm quyền có trách nhiệm tạo điều kiện, cung cấp t liệu, thông tin, địa điểm
tiếp xúc cử tri, phơng tiện giao thông cho hoạt động của đại biểu HĐND;
+ Đại biểu HĐND có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với Mặt trận tổ
quốc và các đoàn thể trong hoạt động đại biểu HĐND.
Bốn là, quyền của đại biểu HĐND cấp tỉnh trong tăng cờng pháp chế.
Bảo đảm pháp chế là đòi hỏi đối với mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công
chức và mọi công dân. Vì vậy, đại biểu vừa phải tiến hành mọi hoạt động của
HĐND theo đúng quy định của pháp luật, vừa có nghĩa vụ tham gia phát hiện,
đấu tranh phòng chống mọi hành vi vi phạm pháp luật. Do vậy:
+ Đại biểu HĐND cấp tỉnh có quyền kiến nghị với cơ quan nhà nớc về
việc thi hành chính sách, pháp luật và những vấn đề thuộc lợi ích chung của
cộng đồng dân c địa phơng;
+ Đại biểu HDND có quyền yêu cầu các tổ chức, cơ quan nhà nớc
chấm dứt những việc làm sai trái, vi phạm pháp luật hoặc xâm phạm đến
quyền lợi của nhân dân;
+ Đại biểu HĐND có quyền giám sát, kiến nghị các cơ quan t pháp
trong việc thi hành các quyết định, bản án hình sự, dân sự, kinh tếở địa ph-
ơng theo đúng thủ tục tố tụng t pháp.
Ngoài ra, trong trờng hợp cần thiết đại biểu HĐND có quyền từ chức,
có quyền đề nghị HĐND xem xét yêu cầu thôi hoạt động HĐND của mình
theo quy định của pháp luật. Khi đại biểu HĐND vi phạm quy chế hoạt động
của HĐND hoặc vi phạm pháp luật thì tuỳ theo mức độ vi phạm, đại biểu
HĐND sẽ bị bãi nhiệm, miễn nhiệm và bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Trong thực hiện chức năng quyết định, đại biểu HĐND cấp tỉnh đóng
một vai trò hết sức quan trọng. Hoạt động quyết định của HĐND chính là
hoạt động quyết định của chính các đại biểu. Bởi vì mỗi đại biểu là đại diện
cho một khu vực dân c, tổ chức đoàn thể hay một thành phần dân tộc, tôn giáo

hoặc một tổ chức nghề nghiệp Từng đại biểu đều có quyền và nghĩa vụ
chuyển tải đầy đủ yêu cầu, kiến nghị của chính tổ chức, giới, thành phần do
mình đại diện vào chơng trình hành động của HĐND tỉnh. Trên cơ sở đó
HĐND xem xét, phân tích, đánh giá đa ra những nội dung cần thiết trở thành
nghị quyết của cơ quan quyền lực nhà nớc địa phơng, nghị quyết này sẽ đựơc
21
UBND cùng cấp tổ chức thực hiện. Nh vậy, thông qua ngời đại biểu HĐND,
với vai trò đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phơng tính chất
đại diện đã trở thành tính chất quyền lực
theo nguyên tắc tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nớc của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân. ý kiến biểu quyết của mỗi đại biểu HĐND tỉnh
chính là ý kiến đại cử tri do họ đại diện, những ý kiến ấy sẽ tạo thành sức
mạnh tổng hợp và là nền tảng của sự đoàn kết, gắn bó giữa nhà nớc và nhân
dân.
Nh vậy, đại biểu HĐND cấp tỉnh là một bộ phận cấu thành trong đội
ngũ cán bộ chủ chốt của chính quyền địa phơng, và là yếu tố nền tảng không
thể thiếu trong tổ chức bộ máy nhà nớc ta. Căn cứ vào địa vị pháp lý của đại
biểu HĐND tỉnh theo quy định của pháp luật hiện hành, đại biểu là tế bào cấu
thành cơ quan quyền lực nhà nớc ở địa phơng, tế bào có khoẻ mạnh thì thân
thể mới cờng tráng. Hồ Chủ tịch đã từng dạy: Cán bộ là cái gốc của mọi
công việc và Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay
kém [37, tr.351].
Theo quy định của pháp luật hiện hành, ngời đại biểu HĐND phải đáp
ứng đợc các tiêu chuẩn: trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa;
có trình độ hiểu biết và năng lực thực hiện nhiệm vụ của ngời đại biểu, tham
gia quyết định những vấn đề quan trọng của địa phơng; có phẩm chất và đạo
đức tốt, gơng mẫu chấp hành pháp luật; đợc nhân dân tín nhiệm. Các tiêu
chuẩn này vừa có ý nghĩa hớng dẫn nhân dân lựa chọn chính xác các đại biểu,
vừa tạo tiền đề đảm bảo hiệu quả hoạt động của các đại biểu.
Kể từ khi nhà nớc Việt Nam Dân chủ cộng hoà ra đời cho đến nay,

Đảng ta luôn coi trọng vị trí của HĐND cấp tỉnh là nền tảng cấu trúc chiến lợc
trong xây dựng hệ thống chính trị. Vì vậy, vai trò của đại biểu HĐND tỉnh
luôn đợc đổi mới theo hớng hoàn thiện và nâng cao vị thế thực quyền của cơ
quan quyền lực nhà nớc địa phơng. Trong công cuộc đổi mới và phát triển đất
nớc hiện nay, đại biểu HĐND cấp tỉnh đã và đang phát huy vai trò của mình
trong thực hiện thắng lợi đờng lối, chủ trơng của Đảng, chính sách, pháp luật
của nhà nớc ở từng địa bàn dân c. Điều đó cho thấy đã có sự lớn mạnh và biến
đổi sâu sắc về số lợng và nâng lên về chất lợng, cả về phẩm chất, năng lực,
nhận thức của ngời đại biểu theo yêu cầu nhiệm vụ mới của cách mạng.
Chính vì vậy, sự hiện diện của đại biểu HĐND tỉnh trong bộ máy nhà n-
ớc là một yêu cầu khách quan không thể thiếu. Đó là một bộ phận cấu thành
22
quyền lực nhà nớc, quyền lực nhân dân để đảm bảo thực thi có hiệu lực, hiệu
quả và phù hợp mọi quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Tính
thực quyền thể hiện vai trò của đại biểu HĐND cấp tỉnh.
Có thể thấy, vai trò của đại biểu HĐND cấp tỉnh trong mọi hoạt động
nói chung và trong thực hiện chức năng quyết định nói riêng luôn đợc phát
huy trong mọi thời điểm lịch sử. Trong hoạt động của mình gắn liền với sự
nghiệp cách mạng của Đảng, đại biểu HĐND luôn khẳng định đợc vị trí quan
trọng của mình. Đại biểu HĐND tỉnh luôn có quan hệ gắn bó mật thiết với
nhân dân, có ảnh hởng lớn và trực tiếp đến đời sống nhân dân, đảm bảo mọi
quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Đây chính là nền tảng góp phần xây
dựng và hoàn thiện nhà nớc pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân.
Theo quy định tại Điều 8 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 thì
hiệu quả hoạt động của HĐND cấp tỉnh cũng nh HĐND các cấp phụ thuộc
vào rất nhiều yếu tố, trong đó yếu tố năng lực hoạt động của đại biểu đóng vai
trò quan trọng. Trong điều kiện hiện nay, do đòi hỏi của sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng nh quá trình hội nhập quốc tế của đất nớc, yêu
cầu đặt ra đối với ngời đại biểu HĐND ngày càng cao. Ngời đại biểu HĐND

trong thời đại mới cần phải đáp ứng đợc đầy đủ các tiêu chuẩn nhất định mới
có thể hoàn thành đợc chức năng, nhiệm vụ nhân dân giao phó. Để có thể thực
hiện tốt vai trò ngời đại biểu nhân dân, đại biểu HĐND cần phải có năng lực
thực sự. Đặc biệt trong tham gia thực hiện chức năng quyết định các vấn đề cơ
bản, quan trọng của địa phơng đòi hỏi ngời đại biểu phải có sự hiểu biết sâu
rộng về mọi lĩnh vực của địa phơng. Có nh vậy các nghị quyết của HĐND đa
ra mới thực sự có tính khả thi, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, xã hội
của địa phơng, phù hợp với các chủ trơng, chính sách của Đảng, pháp luật của
nhà nớc và phù hợp với tiến trình phát triển chung của đất nớc. Tuy nhiên theo
báo cáo chính thức của các cơ quan có thẩm quyền, hoạt động của đại biểu
HĐND vẫn còn nhiều yếu kém, hạn chế. Điều này do nhiều nguyên nhân
khác nhau nhng trong đó nguyên nhân cơ bản vẫn là do năng lực của một số
đại biểu còn hạn chế. Bởi vậy, vấn đề đặt ra là làm thế nào để nâng cao chất l-
ợng đại biểu, đảm bảo để họ thực sự có năng lực, đáp ứng đợc yêu cầu nhiệm
vụ trong điều kiện mới.
23
1.2. Khái niệm, các yếu tố cấu thành năng lực của đại biểu
Hội đồng nhân dân trong thực hiện chức năng quyết định
1.2.1. Khái niệm năng lực của đại biểu Hội đồng nhân dân trong
thực hiện chức năng quyết định
Để đa ra đợc khái niệm năng lực của đại biểu HĐND trong thực hiện
chức năng quyết định, truớc hết chúng ta phải làm rõ khái niệm năng lực.
Theo từ điển Tiếng Việt và từ điển triết học, năng lực là khả năng, điều
kiện chủ quan sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó. Theo A.G.Côvaliốp,
nhà tâm lý học ngời Nga thì Năng lực là một tập hợp hoặc tổng hợp những
thuộc tính của cá nhân con ngời, đáp ứng những nhu cầu của hoạt động và bảo
đảm cho hoạt động đó có kết quả cao [4, tr.90].
Nói đến năng lực là nói đến khả năng đạt đợc kết quả trong hoạt động
nào đó. Muốn hoạt động có kết quả thì cá nhân phải có những phẩm chất tâm
lý nhất định phù hợp với yêu cầu của hoạt động đó. Nếu những thuộc tính tâm

lý không phù hợp với yêu cầu của hoạt động thì coi nh không có năng lực.
Năng lực không phải là những thuộc tính cá nhân riêng lẻ mà là một tổ hợp
các thuộc tính cá nhân đáp ứng yêu cầu cao của hoạt động. Tổ hợp không có
nghĩa là các thuộc tính đó tồn tại song song mà chúng có quan hệ và tác động
lẫn nhau, thống nhất với nhau theo yêu cầu nhất định.
Năng lực vừa là cái tự nhiên có sẵn, vừa là kết quả của quá trình học
tập, rèn luyện, hoạt động thực tiễn của con ngời. C.Mác cho rằng: Đến chủ
nghĩa cộng sản con ngời làm theo năng lực hởng theo nhu cầu. Đó chính là
lúc con ngời từ vơng quốc của tất yếu sang vơng quốc tự do. Chủ tịch Hồ Chí
Minh cho rằng: Năng lực con ngời không phải hoàn toàn do tự nhiên mà có, mà
một phần lớn do công tác, do luyện tập mà có [36, tr.40].V.M.Bechtêrep cho
rằng, bất kỳ sự sáng tạo nào cũng cần có mức độ tài năng nhất định, cần có sự
giáo dục thích hợp.
Có thể nói rằng, năng lực không phải là t chất bẩm sinh thuần tuý vốn
có của con ngời, tự động đảm bảo cho con ngời đạt kết quả trong hoạt động
nào đó mà nó là kết quả của sự phối hợp những t chất bẩm sinh vốn có với sự
rèn luyện, tu dỡng, học tập thông qua hoạt động thực tiễn của con ngời.
Ngời cán bộ nói chung và ngời đại biểu HĐND nói riêng cũng phải có
năng lực nhất định mới có thể hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.
Trong đó năng lực t duy lý luận và năng lực tổ chức hoạt động thực tiễn là hai
nhân tố quan trọng nhất tạo nên tài năng của mỗi ngời. Hai yếu tố này có
quan hệ chặt chẽ với nhau, không thể tách rời nhau, cái này hỗ trợ cái kia phát
24
triển. Không có năng lực t duy lý luận thì không thể nào có khả năng khái
quát, sáng tạo và vận dụng đúng đắn, linh hoạt. Trái lại, chỉ có năng lực t duy
lý luận mà không có năng lực tổ chức thực tiễn thì năng lực t duy lý luận dần
dần bị xơ cứng, giáo điều, thoát ly thực tiễn, thoát ly cuộc sống, dễ rơi vào
chủ nghĩa chủ quan, duy ý chí.
Là ngời đại biểu HĐND luôn gần gũi với nhân dân địa phơng đã bầu ra
mình để lắng nghe và truyền tải ý chí, nguyện vọng của cử tri đến cơ quan nhà

nớc có thẩm quyền, biến ý chí của nhân dân địa phơng thành các quyết định
quản lý nhà nớc, đại biểu HĐND tỉnh phải là ngời có năng lực toàn diện trên
tất cả các lĩnh vực mới có thể đáp ứng đợc yêu cầu nhiệm vụ đợc giao. Bởi
vậy, ngoài các yếu tố trên, ngời đại biểu HĐND còn cần phải có tính sáng tạo,
tính quyết đoán, khả năng làm việc độc lập cũng nh khả năng làm việc tập thể
cao.
Từ sự phân tích trên đây chúng ta có thể hiểu, năng lực của đại biểu
HĐND trong thực hiện chức năng quyết định là một tổ hợp các khả năng của
ngời đại biểu giúp cho họ đạt đợc kết quả cao nhất khi tham gia thực hiện
chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của địa phơng trong phạm vi
chức năng, nhiệm vụ ngời đại biểu HĐND.
1.2.2. Các yếu tố cấu thành năng lực của đại biểu Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh trong thực hiện chức năng quyết định
Năng lực của đại biểu HĐND tỉnh trong thực hiện chức năng quyết
định là năng lực toàn diện bao gồm nhiều yếu tố đan xen, gắn kết, xâm nhập
vào nhau, bởi vậy việc phân biệt chúng cũng chỉ mang tính tơng đối. Chúng ta
có thể phân thành các yếu tố cơ bản sau:
- Năng lực t duy lý luận: Là tổng thể các phẩm chất trí tuệ của ngời đại
biểu có thể đáp ứng yêu cầu phát hiện, nhận thức nhanh nhạy, đúng đắn về
những vấn đề thực tiễn ở cấp độ lý luận, giúp cho ngời đại biểu HĐND có
những đề xuất sắc bén, khả năng vận dụng sáng tạo, linh hoạt, góp phần nâng
cao hiệu quả hoạt động của HĐND. Nó đợc biểu hiện cụ thể nh sau:
Một là, khả năng xác lập tri thức. Đó là khả năng tiếp thu lý luận, chủ
trơng của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nớc một cách đúng đắn; khả
năng phát hiện những mâu thuẫn, những vấn đề mới; khả năng tổng kết thực
tiễn; khả năng vận dụng sáng tạo lý luận, đờng lối, chủ trơng, chính sách để
25

×