Tải bản đầy đủ (.doc) (121 trang)

luận văn thạc sĩ thạc sĩ chính trị học Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (549.04 KB, 121 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG CỦA
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Ngành : Chính trị học
Mã số : 60 31 02 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Cần Thơ - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan những nội dung được trình bày trong luận văn là kết
quả nghiên cứu của chính bản thân tôi. Các số liệu và trích dẫn có nguồn gốc
rõ ràng và chính xác. Các kết quả nghiên cứu luận văn không trùng với bất kỳ
công trình nào khác.

Tác giả luận văn


MỤC LỤC



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

HĐND

: Hội đồng nhân dân

HTX

: Hợp tác xã

KH-XH

: Kinh tế- xã hội

MTTQ

: Mặt trận Tổ quốc

TAND

: Toà án nhân dân

TBXH

: Thương binh xã hội

UBND

: Uỷ ban nhân dân


VHTT

: Văn hóa thông tin

VH-XH

: Văn hóa- xã hội

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
"Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức..." [34, tr.13]. Đó là tuyên bố trịnh trọng tại Điều 2,
Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001). Nhà nước pháp
quyền XHCN có vai trò to lớn trong xây dựng, tổ chức xã hội mới. Xây dựng
chế độ mới, nền kinh tế mới và con người mới là những nhiệm vụ hết sức khó
khăn, phức tạp đối với đất nước ta hiện nay. Nhà nước không đổi mới tổ chức
hoạt động, nâng cao hiệu lực quản lý của mình thì không thể hoàn thành

những nhiệm vụ khó khăn phức tạp trên đây. Nâng cao hiệu lực quản lý của
Nhà nước có ý nghĩa quyết định thắng lợi xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN ở nước ta hiện nay.
HĐND cấp tỉnh là một thiết chế Hiến định, là cơ quan quyền lực nhà
nước ở địa phương, cơ quan đại biểu của nhân dân dịa phương, có vai trò
quan trọng trong việc quyết định những vấn đề trọng đại ở địa phương, giám
sát các cơ quan nhà nước ở địa phương và ra những nghị quyết bao gồm
những quy phạm bắt buộc trên lãnh thổ địa phương. Ngay từ những năm đầu
của chính quyền cách mạng, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm xây dựng, củng
cố phát triển HĐND. Vì thế, trong nhiều năm qua, HĐND đã làm được nhiều
việc ích nước, lợi dân, đã thể hiện được vai trò cơ quan đại biểu của nhân dân,
chỗ dựa vững chắc để nhân dân xây dựng, củng cố chính quyền nhà nước.
Hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, HĐND các cấp ngày càng phát
huy được vai trò của mình, góp phần phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động của HĐND thời gian qua chưa thực sự đáp ứng


2

được với sự đòi hỏi của xã hội so với quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức
HĐND và UBND. Có thể nhận thấy tổ chức và hoạt động của HĐND chưa đủ
mạnh, chất lượng hoạt động thấp, chưa thực quyền, còn mang tính hình thức,
thiếu tính hiệu quả. Chính vì vậy mà Đảng ta khẳng định, phải “nâng cao chất
lượng HĐND và UBND, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của
chính quyền địa phương trong phạm vi phân cấp. Phát huy vai trò giám sát của
HĐND. Tổ chức hợp lý chính quyền địa phương, phân định lại thẩm quyền đối
với chính quyền ở nông thôn, đô thị, hải đảo” [34, tr.127].
Tính hình thức, hiệu lực và hiệu quả hoạt động của HĐND nói chung và
HĐND cấp tỉnh nói riêng, nguyên nhân chủ yếu là do chất lượng hoạt động
của HĐND chưa tương xứng với vị trí, vai trò, chức năng của nó theo luật

định. Chất lượng hoạt động của HĐND phụ thuộc vào nhiều yếu tố cả bên
trong và bên ngoài. Các yếu tố bên trong như: chất lượng của đại biểu, hoạt
động của đại biểu; chất lượng các kỳ họp; chất lượng hoạt động của Thường
trực, các ban của HĐND và kết tinh lại chất lượng hoạt động thực hiện chức
năng, vai trò của HĐND, đó là chức năng ban hành nghị quyết, chất lượng
hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh. Các yếu tố bên ngoài gồm:
pháp luật về HĐND; phương thức lãnh đạo của cấp ủy đảng; vai trò giám sát
và phản biện xã hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các thành viên của Mặt trận
và nhân dân; công tác giám sát và kiểm tra của Chính phủ đối với hoạt động
của HĐND dân cấp tỉnh. Đây cũng chính là những vấn đề mà hiện nay chúng
ta vẫn còn lúng túng, bất cập về lý luận và thực tiễn.
Do đó, trước yêu cầu khách quan, cấp bách của sự nghiệp đổi mới hiện
nay, xuất phát từ tình hình hoạt động trong những hoàn cảnh, điều kiện chính
trị, kinh tế, phát triển khoa học kỹ thuật, công nghệ của thế giới khác trước rất
nhiều, đòi hỏi chúng ta phải đổi mới tư duy, tổ chức, nhất là phương thức hoạt
động của nhà nước, trong đó phải đổi mới nâng cao chất lượng hoạt động của


3

HĐND theo hướng xây dựng một nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân,
bảo đảm thực hiện đầy đủ nền dân chủ XHCN; cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt
động của nhà nước phải bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân, bảo đảm quyền làm chủ nhà nước và xã hội của nhân dân, tất cả vì hạnh
phúc của nhân dân; phải nhận thức đúng vai trò, chức năng, quyền hạn của cơ
quan dân cử; cải tiến tổ chức bộ máy và hoạt động của Quốc hội và HĐND để
các cơ quan này thực hiện đúng chức năng mà Hiến pháp và pháp luật đã quy
định. Tiếp tục kiện toàn và củng cố HĐND, UBND các cấp để bảo đảm tốt
nhiệm vụ và thẩm quyền đã được phân cấp... Xây dựng HĐND các cấp có
thực quyền để thực hiện đầy đủ vai trò cơ quan đại diện của nhân dân, cơ

quan quyền lực nhà nước ở địa phương, thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân ở từng cấp, đồng thời phải xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức phẩm
chất và năng lực, gắn bó mật thiết với nhân dân, hoàn thành tốt chức năng,
nhiệm vụ của mình theo quy định của pháp luật. Hoạt động của HĐND trong
thời gian qua đã có nhiều nỗ lực, cố gắng, tích cực đổi mới tổ chức và phương
pháp hoạt động thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, góp phần quan trọng xây
dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh.
Vì vậy, trước yêu cầu đổi mới của đất nước và thực tiễn đang nảy sinh
nhiều vấn đề bức xúc, đòi hỏi phải có các giải pháp kịp thời để nâng cao hơn
nữa chất lượng hoạt động của HĐND cấp tỉnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
ngày càng cao trong thời kỳ hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới.
Là công chức công tác tại tỉnh Bắc Giang, qua thực tiễn công tác kết hợp
với kiến thức nghiên cứu tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền cùng với
mong muốn tìm giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của HĐND
tỉnh xứng đáng với chức năng nhiệm vụ được hiến pháp và pháp luật quy
định, tác giả chọn vấn đề “Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng
nhân dân tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài luận văn tốt
nghiệp Thạc sĩ Chính trị học.


4

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Về đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của HĐND các cấp ở
nước ta đã được đề cập nhiều trên các sách báo, tạp chí, các diễn đàn khoa
học như:
- Bùi Xuân Đức (2003), Bàn về tính chất của Hội đồng nhân dân
trong điều kiện cải cách bộ máy nhà nước hiện nay, Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, số 12. Tác giả cho rằng hiện nay HĐND vừa là cơ quan quyền
lực nhà nước ở địa phương, đồng thời cũng là cơ quan chấp hành của cơ

quan hành chính cấp trên. Để HĐND thực sự là cơ quan quyền lực, cần
thiết HĐND phải đổi mới cả về tổ chức và nội dung hoạt động trong điều
kiện cải cách hành chính hiện nay.
- Phạm Thị Hương (2004), Bầu cử Hội đồng nhân dân, bàn về quan hệ
nhà nước và nhân dân, Tạp chí Lập pháp, số 4. Bài viết nêu khá rõ những tồn
tại của phương thức bầu cử đại biểu HĐND ở nước ta hiện nay, nhất là vấn đề
chưa quan tâm đúng mức đến chất lượng đại biểu, còn nặng về cơ cấu. Theo
tác giả muốn nâng cao chất lượng đại biểu HĐND, nhất thiết phải thực hiện
tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; nhà nước thực sự phải đại diện quyền, lợi ích hợp
pháp của nhân dân.
- Đàm Bích Liên (2006), Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động
của chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật,
số 10. Bài viết đã nêu khá đầy đủ thực trạng chính quyền cấp xã ở nước ta
hiện nay, trong đó đưa ra một số nội dung không còn phù hợp ở chính quyền
cấp xã như: chưa quan tâm công tác cán bộ, hệ thống chính quyền chưa mạnh.
Đặc biệt bài viết đưa ra những quan điểm nhằm nâng cao hiệu lực hoạt động
của chính quyền cấp xã, trong đó chú trọng nâng cao chất lượng hoạt động
của Hội đồng nhân dân cấp xã.
Ngoài ra, còn có một số cuốn sách, bài viết của một số tác giả như:


5

- Lê Minh Thông, Nguyễn Như Phát (2002), Những vấn đề lý luận và
thực tiễn về chính quyền địa phương ở Việt Nam”, Nxb CCTQG, H.,
- Đinh Ngọc Giang (2003), Hoạt động giám sát của HĐND cấp xã, Tạp
chí Nghiên cứu Lập pháp, số 3.
- Thái Vĩnh Thắng (2003), Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính
quyền cấp xã, phường, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 4.
- Nguyễn Đăng Dung (2003), Bàn về cải cách chính quyền nhà nước ở

địa phương", Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 9.
- Vũ Đức Đán (2005) Vấn đề bồi dưỡng nâng cao năng lực hoạt động
của đại biểu HĐND”, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 2.
Tuy các bài viết trên đã đề cập khá đầy đủ các khía cạnh tổ chức, hoạt
động của chính quyền, của HĐND, nhưng chưa có bài viết nào nghiên cứu
toàn diện, đầy đủ, có hệ thống về lý luận, thực tiễn hoạt động của HĐND nhất
là HĐND ở địa phương. Luận văn này tiếp tục kế thừa, tiếp thu có chọn lọc
các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học để hoàn thiện đề tài nhằm
đánh giá khái quát thực tiễn hoạt động của HĐND tỉnh Bắc Giang hiện nay,
từ đó đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của HĐND
trong thời kỳ xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận, phân tích thực trạng chất lượng
hoạt động của HĐND tỉnh Bắc Giang, tác giả luận văn đề xuất phương hướng
và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của HĐND tỉnh, đáp
ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
Để đạt được mục đích trên, tác giả luận văn thực hiện các nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa, làm rõ một số vấn đề lý luận về chất lượng hoạt động
của HĐND cấp tỉnh;


6

- Phân tích các nhân tố tác động đến chất lượng hoạt động HĐND tỉnh
Bắc Giang;
- Phân tích thực trạng chất lượng hoạt động của HĐND tỉnh Bắc Giang
hiện nay và nêu những vấn đề đang đặt ra;
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất
lượng hoạt động của HĐND tỉnh Bắc Giang đáp ứng yêu cầu của Nhà nước
pháp quyền XHCN.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của luận văn là các quan điểm của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, của Đảng ta về nhà nước, về chính quyền địa
phương, về HĐND các cấp.
- Phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử. Các phương phương pháp cụ thể là: logic – lịch sử,
phân tích - tổng hợp, so sánh, thống kê, nghiên cứu tài liệu...
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là “chất lượng hoạt động của HĐND tỉnh”.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu chất lượng hoạt động của
HĐND tỉnh Bắc Giang từ năm 1999 đến 2014, chủ yếu thông qua các kỳ họp,
hoạt động của cơ quan thường trực, các ban của HĐND (không nghiên cứu
hoạt động của các tổ đại biểu HĐND).
6. Đóng góp khoa học của luận văn
Khi nghiên cứu đề tài này, tác giả mong muốn làm rõ thêm một số vấn
đề về lý luận cũng như thực tiễn nhằm khẳng định vai trò quan trọng của
HĐND trong việc phát triển kinh tế-xã hội địa phương.
Đánh giá thực trạng chất lượng hoạt động của HĐND trong thời gian qua
ở tỉnh Bắc Giang; đề xuất những giải pháp có tính đồng bộ, khoa học nhằm
nâng cao chất lượng hoạt động của HĐND tỉnh Bắc Giang trong thời kỳ mới.


7

Luận văn là tài liệu tham khảo đối với công tác nghiên cứu và học tập, là
tài liệu tham khảo bổ ích đối với các cơ quan, cán bộ, công chức khi nghiên
cứu hoạt động của HĐND.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn chia làm 3 chương:



8

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG
CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH
1.1. Vị trí, chức năng của Hội đồng nhân dân tỉnh
trong hệ thống chính trị cấp tỉnh
1.1.1. Vị trí của Hội đồng nhân dân tỉnh
Theo quy định của pháp luật, HĐND nói chung, HĐND cấp tỉnh nói
riêng, là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra,
chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan Nhà nước cấp trên;
có quyền quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương.
Với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho
nhân dân địa phương, HĐND có khả năng đoàn kết tập hợp và thống nhất ý
chí, hành động của nhân dân; là cầu nối giữa chính quyền trung ương với
chính quyền địa phương, vừa đảm bảo sự tập trung thống nhất trong hoạt
động của bộ máy chính quyền trung ương và bộ máy chính quyền địa phương.
Theo các quy định của Hiến pháp năm 1992, Luật Tổ chức HĐND và UBND
năm 2003 HĐND có vị trí, vai trò, tính chất, đặc điểm như sau:
- Một là, HĐND quan hệ chặt chẽ với UBND, cùng với UBND hợp
thành cấu trúc của chính quyền địa phương
Trong hệ thống chính trị có tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam; Nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Mặt trận Tổ quốc và tổ chức thành
viên. Trong hệ thống cơ quan nhà nước có hệ thống cơ quan quyền lực; cơ
quan hành pháp; cơ quan tư pháp. Chính quyền Trung ương gồm các cơ quan
nhà nước trung ương; chính quyền địa phương gồm HĐND và UBND các
cấp. Theo quy định của pháp luật HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa



9

phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương; HĐND
bầu các chức danh của UBND. UBND là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ
quan hành chính nhà nước ở địa phương. Nếu nhìn góc độ khái niệm đơn
thuần như vậy có thể khẳng định HĐND và UBND là hai cơ quan độc lập với
nhau. Tuy nhiên xét về tổng thể HĐND và UBND có mối quan hệ chặt chẽ.
HĐND cùng UBND hợp thành chính quyền ở địa phương, quyết định tất cả
những vấn đề về KT-XH, an ninh quốc phòng trên địa bàn, bao gồm thể chế
hoạt động, bộ máy tổ chức, con người. Nếu như HĐND có chức năng ban
hành nghị quyết quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương, nhưng cơ
quan trình dự thảo nghị quyết là UBND. Như vậy nghị quyết của HĐND có
sát với thực tế địa phương, đảm bảo đúng pháp luật hay không phụ thuộc rất
lớn vào năng lực, sự phối, kết hợp của UBND khi soạn thảo nghị quyết. Pháp
luật cũng quy định chủ tịch UBND cấp trên có quyền đình chỉ nghị quyết của
HĐND cấp dưới trực tiếp; đề nghị HĐND cùng cấp bãi bỏ nghị quyết đó. Do
đó giữa HĐND và UBND có mối quan hệ chặt chẽ, cùng chịu trách nhiệm
trước chính quyền nhà nước cấp trên và nhân dân địa phương về thực hiện
nhiệm vụ phát triển KT-XH ở địa phương.
Theo quy định của pháp luật, HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở
địa phương, được thể hiện ở các mặt sau:
+ HĐND được cấu tạo bởi các đại biểu HĐND địa phương bầu ra, đại
diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân. Bản chất nhà
nước ta là quyền lực tối cao thuộc về nhân dân; ý chí, nguyện vọng của
nhân dân là trên hết. Nhân dân bầu ra cơ quan đại diện của mình là HĐND
để thực thi quyền lực. HĐND bầu thành viên UBND (hợp thành UBND) để
điều hành, quản lý xã hội, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhân
dân, do đó những đại biểu của dân phải biến ý chí của nhân dân thành các
quyết định chính sách- các quyết định đó có hiệu lực cao nhất ở địa
phương- Nghị quyết của HĐND.



10

+ Căn cứ vào pháp luật, bầu, miễn nhiệm, bãi miễn chủ tịch, phó chủ tịch,
uỷ viên thường trực HĐND, thành viên các ban HĐND; bầu, miễn nhiệm các
chức danh của UBND. Các đại biểu HĐND hợp thành cơ quan HĐND thể hiện
quyền lực của nhân dân, để thực hiện quyền lực của mình HĐND tổ chức ra bộ
máy của mình gồm thường trực HĐND và các ban của HĐND. Thường trực
HĐND gồm chủ tịch, phó chủ tịch, uỷ viên thường trực HĐND (đối với cấp
tỉnh); chủ tịch, phó chủ tịch (đối với cấp xã). Các ban của HĐND gồm trưởng,
phó và thành viên ban. Khi đại biểu đủ tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật
thì HĐND tiến hành bầu đại biểu đó vào các chức danh trên. Nếu đại biểu
HĐND vi phạm pháp luật hoặc không đủ tín nhiệm đối với nhân dân, đi ngược
lại lợi ích của nhân dân thì nhân dân thông qua cơ quan đại diện của mình có
quyền miễn nhiệm các chức danh đó, thể hiện quyền lực của nhân dân.
Để giúp HĐND quản lý, điều hành, phát triển KT-XH ở địa phương đảm
bảo quyền lực của nhân dân, HĐND bầu ra cơ quan chấp hành của mình có
nhiệm vụ thực hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân, đó là UBND, UBND
gồm chủ tịch, các phó chủ tịch và các thành viên. UBND có trách nhiệm thực
hiện sự chỉ đạo của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của HĐND cùng
cấp. Theo quy định của pháp luật, chủ tịch UBND nhất thiết phải là đại biểu
HĐND, còn các thành viên khác không nhất thiết phải là đại biểu HĐND.
Nếu các thành viên UBND vi phạm pháp luật hoặc không đáp ứng được yêu
cầu công tác, đi ngược lại lợi ích chính đáng của nhân dân thì HĐND có
quyền bãi miễn các thành viên đó.
Để thực hiện quyền lực của mình, HĐND căn cứ vào Hiến pháp, pháp
luật có quyền ban hành nghị quyết triển khai các mặt công tác ở địa phương.
Nghị quyết của HĐND chính là ý chí quyền lực của nhân dân địa phương, khi
nghị quyết của HĐND được ban hành thì các cơ quan, đơn vị và cá nhân ở địa

phương có trách nhiệm thi hành, không có quyền chống đối. Tuy nhiên nghị


11

quyết của HĐND không được trái Hiến pháp, luật và các văn bản của cơ quan
cấp trên, nếu không nghị quyết đó sẽ bị đình chỉ, bãi bỏ. Hiện nay tính chất
quyền lực này không được thể hiện rõ vì nếu là cơ quan quyền lực phải được
ban hành Hiến pháp, pháp luật, nhưng theo quy định của pháp luật HĐND chỉ
được ban hành nghị quyết đảm bảo việc phát triển kinh tế-xã hội ở địa
phương, chưa thể hiện rõ tính quyền lực của HĐND.
+ Giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật, nghị quyết ở địa
phương, đồng thời chịu sự giám sát, hướng dẫn của Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội và hướng dẫn của Chính phủ. Việc giám sát này ở địa phương duy nhất
được trao cho HĐND. Trước đây ngoài HĐND, Viện Kiểm sát nhân dân cấp
tỉnh, cấp huyện cũng được thực hiện chức năng này, nhưng hiện nay Viện
Kiểm sát không có chức năng kiểm sát chung. Nguyên tắc xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nhà nước quản lý xã hội bằng pháp
luật, mọi người bình đẳng trước pháp luật. Tuy nhiên trong quá trình quản lý,
thực thi nhiệm vụ từng cán bộ, công chức vì lợi ích cá nhân có thể vi phạm lợi
ích cộng đồng, làm ảnh hưởng quyền, lợi ích chung của nhân dân- vi phạm
pháp luật, do đó nhân dân thông qua HĐND giám sát việc tuân theo pháp luật
của những cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước, đảm bảo tính quyền lực
của nhân dân.
- Hai là, HĐND là cơ quan quyền lực nhưng tính chất hoạt động của nó
lại là cơ quan chấp hành
Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 quy định: " HĐND là cơ
quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền làm chủ của nhân dân địa phương... chịu trách nhiệm trước nhân dân
địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên" [35, tr.6]. Như vậy HĐND là cơ

quan chấp hành của cơ quan nhà nước cấp trên trong việc thực hiện Hiến pháp
và pháp luật. Nguyên tắc hoạt động nhà nước ta là nhà nước thống nhất quản


12

lý trên toàn lãnh thổ, chính quyền địa phương cấp dưới phải phục tùng sự
hướng dẫn chỉ đạo của chính quyền nhà nước cấp trên: chính quyền cấp xã
phục tùng, chịu sự chỉ đạo của chính quyền cấp huyện; chính quyền cấp
huyện phục tùng, chịu sự chỉ đạo của chính quyền cấp tỉnh; chính quyền cấp
tỉnh phục tùng, chịu sự chỉ đạo của chính quyền trung ương. Đồng thời
HĐND khi ban hành nghị quyết không được trái Hiến pháp, pháp luật và các
văn bản của cấp trên (tính hợp hiến): Nghị quyết HĐND cấp xã không trái với
Hiến pháp, văn bản của UBND cấp huyện; nghị quyết HĐND cấp huyện
không trái Hiến pháp và văn bản của UBND cấp tỉnh; nghị quyết của HĐND
cấp tỉnh không trái Hiếp pháp và văn bản của các cơ quan Trung ương. Khi
các cơ quan Trung ương ban hành các văn bản mang tính chỉ đạo, quản lý,
điều hành thì HĐND các cấp có trách nhiệm triển khai thực hiện. Trong quá
trình triển khai thực hiện phải phù hợp điều kiện kinh tế-xã hội ở địa phương,
đồng thời không được trái văn bản cấp trên.
Theo Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2003) Thủ tướng có
quyền đình chỉ việc thi hành các nghị quyết trái pháp luật của HĐND tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương và đề nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội huỷ
bỏ nghị quyết đó; chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có
quyền đình chỉ việc thi hành nghị quyết sai trái của HĐND cấp huyện, quận,
thành phố thuộc tỉnh và đề nghị HĐND cùng cấp bãi bỏ. Điều 120 Hiến pháp
năm 1992 còn quy định: Căn cứ vào Hiến pháp, luật và các văn bản của cơ
quan nhà nước cấp trên, HĐND ra nghị quyết về các biện pháp bảo đảm thi
hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa phương. Như vậy HĐND chỉ
được ban hành nghị quyết trên cơ sở quy định của pháp luật và văn bản của

cơ quan nhà nước cấp trên, không đựơc ban hành chính sách trái quy định của
cơ quan cấp trên.
+ HĐND là cơ quan đại diện của nhân dân địa phương, nhưng tính đại
diện của HĐND khác với tính chất đại diện của Quốc hội.


13

Hiến pháp năm 1992 xác định Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của
nhân dân (Điều 83); đại biểu Quốc hội là đại diện cho nhân dân cả nước (Điều
97). HĐND là cơ quan do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước
nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên (Điều 119). Đại biểu
Quốc hội và đại biểu HĐND đều do nhân dân bầu ra, tuy nhiên phạm vi đại
diện của đại biểu Quốc hội khác đại biểu HĐND. Đại biểu Quốc hội đại diện
cho nhân dân cả nước; đại biểu HĐND đại diện cho nhân dân địa phương bầu
ra đại biểu đó. Như vậy, mức độ ảnh hưởng của đại biểu của Quốc hội cũng
khác đại biểu HĐND. Mức độ ảnh hưởng của đại biểu Quốc hội trên phạm vi
cả nước, khi đại biểu tham gia hoạt động của Quốc hội là đại diện cho ý chí,
nguyện vọng chung của nhân dân cả nước; bàn những việc liên quan đến quốc
kế, dân sinh cả nước; phạm vi hoạt động rộng hơn. Mức độ ảnh hưởng của đại
biểu HĐND chỉ trong phạm vi địa phương (xã, phường, thị trấn; huyện, quận,
thành phố thuộc tỉnh; tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương); đại diện cho ý
chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương bầu ra đại biểu. Vì đại diện cho
nhân dân cả nước do đó quy định mỗi địa phương được bầu một số lượng
nhất định đại biểu Quốc hội (đảm bảo đủ cơ cấu: dân tộc, ngành nghề...). Các
đại biểu Quốc hội hợp thành Quốc hội và thực hiện chức năng nhiệm vụ theo
luật định. Khi bầu cử đại biểu HĐND các cấp cũng quy định mỗi địa phương
được bầu số đại biểu theo quy định, nhưng thông thường đại biểu HĐND các
cấp nhiều hơn đại biểu Quốc hội.
+ HĐND là cơ quan có tính độc lập tương đối ở địa phương trong hệ

thống chính quyền nhà nước.
Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 quy định: "HĐND quyết định
những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa
phương, xây dựng và phát triển kinh tế xã hội, củng cố quốc phòng-an ninh,
không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa
phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước" [35, tr.6].


14

Mỗi địa phương có ví trí địa lý, điều kiện tự nhiên, môi trường văn hoá
khác nhau, điều kiện phát triển KT-XH cũng khác nhau. Để phát huy tiềm
năng, lợi thế điều kiện tự nhiên, xã hội của mỗi vùng, miền cả nước, Hiến
pháp, pháp luật có hành lang pháp lý để HĐND mỗi địa phương có điều kiện
cụ thể hoá chính sách của nhà nước căn cứ vào điều kiện của địa phương.
Nhưng việc phát triển đó không thoát ly sự phát triển chung của đất nước,
tránh tình trạng cát cứ, cục bộ địa phương. Như vậy HĐND vừa là khâu trong
hệ thống cơ quan nhà nước, vừa là chủ thể quyền lực, đại diện cho nhân dân
địa phương, đồng thời bảo đảm cho Hiến pháp, pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được tôn trọng.
Với các tính chất như trên, HĐND cấp tỉnh có vị trí và ý nghĩa quan trọng
trong đời sống xã hội ở địa phương. Là cơ quan quyền lực ở địa phương, quyết
định những vấn đề đời sống vật chất, tinh thần, quyền làm chủ của nhân dân
địa phương. Quyền lực của nhân dân có được đảm bảo hay không căn cứ hiệu
quả hoạt động của HĐND. Với hai chức năng quan trọng là quyết định chính
sách ở địa phương và giám sát việc tuân theo pháp luật và nghị quyết của
HĐND. Nếu HĐND thực hiện hiệu quả chức năng của mình thì quyền lực của
nhân dân được đảm bảo, là cơ sở quan trọng cho việc phát triển KT-XH ở địa
phương, nâng cao đời sống nhân dân, giũ vững ổn định chính trị xã hội. Việc
giám sát của HĐND hiệu lực, hiệu quả sẽ đảm bảo tăng cường pháp chế ở địa

phương, xây dựng bộ máy nhà nước ở địa phương trong sạch.
- Ba là, trong mối quan hệ với Quốc hội, HĐND không phải là cơ quan
cấp dưới của Quốc hội.
Trong hệ thống cơ quan nhà nước bao gồm: hệ thống cơ quan quyền lực
(Quốc hội, HĐND các cấp); hệ thống cơ quan hành pháp (Chính phủ, các bộ,
cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các cấp) ; hệ thống cơ
quan tư pháp (Toà án nhân dân Tối cao, toà án nhân dân tỉnh, toà án nhân dân


15

huyện; Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, Viện
Kiểm sát nhân dân huyện. Trong đó hệ thống cơ quan quyền lực gồm: Quốc
hội, HĐND các cấp, tuy nhiên HĐND không phải là cơ quan cấp dưới của
Quốc hội. Như trên đã phân tích và căn cứ theo quy định của Hiến pháp, pháp
luật Quốc hội được cấu tạo bởi các đại biểu Quốc hội (do đại biểu Quốc hội
hợp thành), có chức năng, nhiệm vụ và phạm vi ảnh hưởng trong toàn quốc.
Để thực hiện chức năng nhiệm vụ theo quy định của pháp luật, Quốc hội
thành lập các cơ quan của Quốc hội như Hội đồng Dân tộc; Hội đồng an ninh
quốc phòng; các uỷ ban của Quốc hội để tham mưu cho Quốc hội trong quá
trình thực hiện chức năng lập Hiến, lập pháp và quyết định những vấn đề
quan trọng của đất nước. Khi Quốc hội ban hành Hiến pháp, luật và các văn
bản khác thì các các cơ quan đơn vị, tổ chức, lực lượng vũ trang có trách
nhiệm triển khai thực hiện, trong đó có HĐND các cấp. Khi triển khai các văn
bản của Quốc hội, Chính phủ có trách nhiệm hướng dẫn các bộ, ngành và các
địa phương thực hiện, và HĐND các cấp có trách nhiệm thực hiện văn bản
hướng dẫn của Chính phủ. Như vậy HĐND trực tiếp triển khai thực hiện các
văn bản của Chính phủ; gián tiếp thực hiện quy định của Quốc hội, do vậy
HĐND không phải là cơ quan cấp dưới của Quốc hội.
Trong khi đó HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bầu thành

viên của thường trực HĐND, thành viên UBND tỉnh cấp mình thì Thủ tướng
Chính phủ, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn kết quả bầu cử các chức
danh đó, chứ không phải là Quốc hội, và như vậy HĐND không phải là cơ
quan cấp dưới của Quốc hội. Hiện nay Uỷ ban Thường vụ Quốc hội có chức
năng hướng dẫn hoạt động của HĐND các cấp đảm bảo đúng quy định của
pháp luật thông qua việc ra nghị quyết ban hành Quy chế hoạt động của
HĐND các cấp.
HĐND các cấp do cử tri ở địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước cử
tri và cơ quan nhà nước cấp trên. Căn cứ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn


16

của HĐND thì HĐND không phải là cơ quan cấp dưới của Quốc hội. Tuy
HĐND nằm trong hệ thống cơ quan quyền lực nhưng HĐND không được ban
hành Hiến pháp, luật mà chỉ được ban hành nghị quyết về những vấn đề phát
triển kinh tế-xã hội ở địa phương. HĐND chịu trách nhiệm trước cử tri và nếu
các đại biểu HĐND không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật thì bị
nhân dân địa phương thông qua cơ quan đại diện bãi miễn, bãi nhiệm. Do đó
HĐND không phải là cơ quan cấp dưới của Quốc hội.
Tương tự như vậy, HĐND cấp tỉnh không phải là cơ quan cấp trên của
HĐND cấp huyện, quận, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi là cấp huyện);
HĐND cấp huyện không phải là cơ quan cấp trên của HĐND xã, phường, thị
trấn (sau đây gọi là cấp xã). Theo quy định của pháp luật, đại biểu HĐND cấp
nào do cử tri cấp đó bầu và hợp thành HĐND.
Đối với mối quan hệ giữa HĐND cấp tỉnh với HĐND cấp huyện, mặc dù
HĐND cấp tỉnh và cấp huyện cùng được quyết định những vấn đề quan trọng
ở địa phương nhưng HĐND cấp tỉnh không phải là cấp trên của HĐND cấp
huyện. HĐND cấp tỉnh ban hành nghị quyết để điều chính các quan hệ xã hội
trên địa bàn tỉnh; HĐND cấp huyện ban hành nghị quyết điều chỉnh quan hệ

xã hội trên địa bàn huyện và không trái quy định của HĐND tỉnh và Hiến
pháp, pháp luật. HĐND chịu trách nhiệm trước cử tri huyện và cơ quan nhà
nước tỉnh. Trong công tác, HĐND huyện không phải báo cáo kết quả hoạt
động với HĐND cấp tỉnh. Thường trực HĐND tỉnh phê chuẩn kết quả bầu cử
chức danh do HĐND cấp huyện bầu; HĐND cấp tỉnh không có quyền bầu,
miễn nhiệm, kỷ luật đại biểu HĐND cấp huyện. Do đó HĐND cấp tỉnh không
phải là cơ quan cấp trên của HĐND cấp huyện, không có quyền lãnh đạo, chỉ
đạo hoạt động của HĐND cấp huyện.
Đối với mối quan hệ giữa HĐND cấp huyện với HĐND cấp xã cũng như
vậy. Đại biểu HĐND cấp xã do cử tri xã bầu, HĐND cấp xã chịu trách nhiệm


17

trước cử tri xã và UBND huyện. HĐND cấp xã cũng không có trách nhiệm
báo cáo công tác với HĐND huyện. Như vậy HĐND huyện không phải là cơ
quan cấp trên của HĐND xã, không có quyền lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động của
HĐND cấp xã. Như vậy có thể khẳng định rằng, HĐND các cấp có tính độc
lập tương đối, không phụ thuộc vào HĐND cấp trên.
- Bốn là, xét về chỉnh thể chính quyền địa phương bao gồm HĐND và
UBND thì chính quyền cấp trên là cơ quan cấp trên của chính quyền cấp
dưới, có quyền chỉ đạo, điều hành hoạt động của chính quyền cấp dưới
Chính phủ là cơ quan quản lý hành chính cao nhất của nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, được Hiến pháp, luật quy định những quyền quản lý,
điều hành xã hội trên phạm vi cả nước, do đó những văn bản quản lý nhà
nước do Chính phủ ban hành bắt buộc các cơ quan, tổ chức và cá nhân phải
thực hiện, và đương nhiên có cả HĐND và UBND. HĐND được ban hành
nghị quyết triển khai thực hiện chính sách của Chính phủ; cụ thể hoá chính
sách phù hợp điều kiện kinh tế xã hội ở địa phương nhưng không được trái
với những quy định của Chính phủ, nếu trái quy định thì Thủ tướng Chính

phủ có quyền đình chỉ việc thi hành. Nếu các văn bản của UBND tỉnh trái
pháp luật thì Chính phủ có quyền huỷ bỏ. Mặc dù HĐND tỉnh ban hành quyết
định phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương, nhưng Chính phủ có quyền phê
duyệt quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội cấp tỉnh cho phù hợp với việc phát
triển chung của toàn quốc.
Chủ tịch và các thành viên của UBND tỉnh do HĐND tỉnh bầu, nhưng
Thủ tướng Chính phủ có quyền phê chuẩn kết quả bầu cử đó và khi Thủ
tướng chưa phê chuẩn thì các chức danh bầu chưa được công nhận.
Đối với chính quyền cấp huyện phải có trách nhiệm thực hiện sự chỉ
đạo điều hành của chính quyền cấp tỉnh, đảm bảo phát huy tính sáng tạo, lợi
thế ở mỗi địa bàn huyện nhưng vẫn phải đảm bảo phát triển chung trên địa


18

bàn tỉnh. Tuy HĐND cấp huyện có tính độc lập tương đối với cấp tỉnh
nhưng HĐND và UBND huyện chịu sự quản lý điều hành về phát triển kinh
tế-xã hội, về tổ chức bộ máy, con người, đầu tư xây dựng cơ bản. Chủ tịch
và các thành viên UBND huyện do HĐND huyện bầu nhưng phê chuẩn kết
quả bầu cử lại do Chủ tịch UBND tỉnh thực hiện. Nếu chủ tịch UBND tỉnh
không phê chuẩn thì các chức danh trên chưa được công nhận. Cũng như
vậy các thành viên thường trực HĐND huyện phải do thường trực HĐND
tỉnh phê chuẩn, lúc đó mới có hiệu lực. UBND tỉnh có chức năng phê duyệt
quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của cấp huyện phù hợp với quy hoạch
tổng thể của tỉnh. Trong việc đảm bảo an ninh quốc phòng, cấp huyện có
trách nhiệm thực hiện nghiêm những chỉ tiêu, giải pháp do tỉnh đề ra. Khi
HĐND ban hành nghị quyết và UBND tỉnh ban hành văn bản cụ thể hoá
nghị quyết của HĐND và Hiến pháp, pháp luật thì HĐND, UBND cấp
huyện phải có trách nhiệm thực hiện.
Đối với mối quan hệ giữa chính quyền cấp huyện với cấp xã cũng tương

tự như vậy, chính quyền cấp xã phải chấp hành sự điều hành, chỉ đạo của
chính quyền cấp huyện đảm bảo tính thống nhất trong sự phát triển.
Những quy định trên đây đảm bảo nguyên tắc Nhà nước thống nhất quản
lý hành chính lãnh thổ trên toàn quốc.
1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động của Hội đồng
nhân dân tỉnh
1.1.2.1. Chức năng của Hội đồng nhân dân tỉnh
Chức năng của HĐND cấp tỉnh là những phương diện hoạt động chủ yếu
của HĐND nhằm thực hiện vai trò và nhiệm vụ là cơ quan quyền lực nhà
nước ở tỉnh, quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương; đại diện
cho ý chí nguyện vọng của nhân dân. Luật tổ chức HĐND và UBND năm
2003 đã quy định những chức năng cơ bản của HĐND các cấp (trong đó có
cấp tỉnh) bao gồm:


19

+ Quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương:
Chức năng quyết định những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền của
HĐND được quy định rõ đối với từng cấp, từ mục 1 đến mục 3 trong Chương
II của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003. Trong đó xác định cụ thể
nội dung về chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa
phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã hội, củng cố quốc
phòng, an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vất chất và tinh thần của nhân
dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước.
Xác định cụ thể những nội dung quan trọng thuộc thẩm quyền quyết định
của HĐND về kế hoạch phát triển KT-XH; an ninh quốc phòng, trật tự, an
toàn xã hội; phát triển văn hoá, giáo dục, y tế, thể dục, thể thao, đời sống, xã
hội; phát triển khoa học, công nghệ, tài nguyên, môi trường; về thực hiện
chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo; về việc thi hành pháp luật; về xây

dựng chính quyền địa phương và quản lý địa giới hành chính.
Như vậy nội dung thực hiện chức năng quyết định của HĐND rất rộng,
toàn diện bao gồm mọi mặt của đời sống KT-XH, văn hoá, khoa học, quốc
phòng, an ninh... Điều này một lần nữa xác định rõ hơn vị trí, vai trò và tầm
quan trọng của HĐND cấp tỉnh trong chính quyền địa phương với tư cách là
cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Mặt khác đây cũng là căn cứ pháp
lý tạo ra môi trường thuận lợi để chính quyền địa phương khai thác hết tiềm
năng, nội lực sẵn có ở địa phương, nhằm nâng cao đời sống vật chất tinh thần
của nhân dân địa phương.
Căn cứ quy định của Hiến pháp và pháp luật, HĐND thực hiện chức
năng này trên từng lĩnh vực. HĐND nghe UBND trình bày định hướng phát
triển, biện pháp tổ chức thực hiện, xem chủ trương, chính sách đó có phù hợp
với Hiến pháp, pháp luật, với tình hình KT-XH và có bảo đảm quyền, lợi ích
hợp pháp của nhân dân địa phương hay không, trên cơ sở đó HĐND quyết


20

định ban hành hay không ban hành. Để đảm bảo các quyết định của HĐND
hợp hiến, hợp pháp, mỗi đại biểu HĐND và HĐND cần nắm bắt, am hiểu tình
hình KT-XH và chính sách pháp luật của nhà nước, tránh tình trạng hiện nay
quyết định của HĐND là bản sao của của UBND.
+ Giám sát:
HĐND thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường trực
HĐND, UBND, Toà án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát
việc thực hiện các Nghị quyết của HĐND ; giám sát việc tuân theo Pháp luật
của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị lực lượng vũ
trang nhân dân và của công dân ở địa phương. (được quy định tại Điều 12, 13,
14, 15, 16, 17 và 18 của Luật Tổ chức HĐND và UBND)
Chức năng giám sát của HĐND luôn gắn liền chức năng quyết định

những vấn đề cơ bản về KT-XH và vai trò của HĐND ở địa phương. Thực
hiện tốt chức năng giám sát không những cho phép HĐND kiểm tra đánh giá
hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân ở địa phương trong
việc tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, nghị quyết của HĐND mà còn giúp
HĐND phát hiện và sửa đổi, bổ sung những nội dung không phù hợp của nghị
quyết HĐND. Kết quả giám sát là căn cứ để HĐND thực hiện quyền bãi
miễn, bãi nhiệm các chức danh theo quy định của pháp luật (chủ tịch, phó chủ
tịch và uỷ viên thường trực HĐND; chủ tịch, các phó chủ tịch và các thành
viên UBND; trưởng ban và các thành viên của các ban HĐND); là căn cứ để
HĐND bãi bỏ những quyết định trái pháp luật của UBND cùng cấp; những
nghị quyết trái pháp luật của HĐND cấp dưới trực tiếp.
Để thực hiện các chức năng quan trọng, HĐND tập trung vào các hướng:
Quyết định dưới hình thức Nghị quyết về các vấn đề quan trọng của địa
phương và các biện pháp tổ chức thực hiện Nghị quyết đó; Giám sát việc thực
hiện các Nghị quyết.


21

Những hướng hoạt động trên đây thường được gọi là những chức năng
cơ bản của HĐND. Trong các chức năng trên, chức năng quyết định làm nổi
bật vị trí HĐND là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương. Vì vậy, chức
năng cơ bản của HĐND là thay mặt nhân dân địa phương quyết định những
vấn đề có liên quan đến đời sống của nhân dân địa phương.
Chức năng của HĐND từng cấp thể hiện qua nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm
quyền của HĐND được quy định tại Luật tổ chức HĐND và UBND (năm
2003) và Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của HĐND và UBND.
Để quản lý xã hội và phát triển kinh tế xã hội ở địa phương, nhà nước
thành lập bộ máy quản lý nhà nước để thực thi pháp luật và điều chỉnh các
quan hệ xã hội. Khi HĐND quyết định những biện pháp đảm bảo phát triển

kinh tế-xã hội ở địa phương, nhưng để đảm bảo cho biện pháp đó được thực
hiện nghiêm thì HĐND được giao nhiệm vụ giám sát các cơ quan nhà nước,
cán bộ, công chức nhà nước trong việc thực hiện quy định của pháp luật và
nghị quyết của HĐND. Quyền hạn, trách nhiệm giám sát của HĐND được
pháp luật quy định cụ thể, trong đó có giám sát thường xuyên và giám sát theo
chương trình.
1.1.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân tỉnh
Là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, HĐND tỉnh có quyền quyết
định những vấn đề liên quan đến quản lý Nhà nước ở tỉnh mà các vấn đề đó
không thuộc thẩm quyền quyết định của các cơ quan Trung ương hoặc của địa
phương khác.
Luật tổ chức HĐND và UBND (2003) đã quy định cụ thể nhiệm vụ,
quyền hạn của HĐND trên từng lĩnh vực hoạt động của địa phương:
- Trong lĩnh vực kinh tế: Quyết định các chủ trương, biện pháp phát triển
kinh tế - xã hội; phân bổ lao động và dân cư; quản lý, sử dụng đất đai, phân
bổ thu- chi ngân sách, chính sách tiết kiệm trong hoạt động quản lý sản xuất kinh doanh và tiêu dùng, chống tham nhũng, chống buôn lậu... (Điều 11).


×