Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

quan điểm lí luận gắn với thực tiễn trong tư tưởng hồ chí minh về giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.96 KB, 17 trang )

GVHD: BÙI PHƯỚC Ý
ĐỀ TÀI: QUAN ĐIỂM LÍ LUẬN GẮN VỚI THỰC TIỄN
TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC
A.PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Có rất nhiều đề tài về tư tưởng Hồ Chí minh đang quan tâm và được nhắc đến trong
rất nhiều các tài liệu. Song một vấn đề không được nhắc đến nhiều nhưng rất đáng
quan tâm đó là giáo dục. Đảng và nhà nước ta đã khẳng định “ Giáo dục là quốc
sách ”. Là một giáo viên tương lai và cũng là một nhà giáo dục sau này, không chỉ
vậy mà đây còn là mộ vấn đề rất cấp thiết và đáng thảo luận. Vì vậy tôi chọn đề
tài “ Quan điểm lí luận gắn với thực tiễn trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo
dục ”, làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục đích và yêu cầu
Nhằm làm rõ tư tưởng của Hồ Chí Minh về giáo dục, áp dụng lí luận để đi đôi với
thực tiễn chọn phương pháp phù hợp với giáo dục hiện nay và sắp tới.
Cần xác định và làm rõ nội dung đề tài, chọn phương pháp phù hợp với đề tài cũng
như nên xuyên suốt trong nội dung của đề tài.
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Bao gồm học sinh, sinh viên, cán bộ, công nhân viên chức, Nhân dân và mầm
mống trẻ sau này.
Trong dòng chảy của thời đại mới mà cốt lõi là tư tưởng về nền giáo dục hiện nay
và sau này. trên nhiều lĩnh vực khác nhau: khoa học – xã hội –sách báo.
4. Những đóng góp chính của đề tài
Qua nghiên cứu đề tài. Tôi làm rõ được quan điểm lí luận của Hồ Chí Minh, những
chính sách đường lối thông tư nghị quyết của đảng về giáo dục, thực trạng của nền
giáo dục và một số giải pháp nhằm phát triển nền giáo dục.
Qua đó cũng giúp tôi hiểu hơn và sâu hơn về sự cấp thiết, vai trò, vị trí và tầm quan
trọng của nền giáo dục đối với đất nước.
5. Phương pháp nghiên cứu
Vận dụng phương pháp lí luận chung, tổng hợp, phân tích, cơ sở lý thuyết.
Phương pháp liên nghành bao gồm: trên sách báo, cả trong sách vở….



SVTH: MẠC THỊ THU YẾN

1


GVHD: BÙI PHƯỚC Ý
B.NỘI DUNG
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.Cơ sở lý luận
1.1.Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
Hồ Chí Minh đã và đang soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành độc
lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người xứng đáng
được tổ chức UNESCO phong tặng danh hiệu : Anh hùng giải phóng dân tộc, danh
nhân văn hóa và khuyến nghị các nước thành viên tổ chức kỉ niệm 100 năm ngày
sinh của Người “ do những đóng góp quan trọng về nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí
Minh trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và nghệ thuật ” và Người “ đã dành cả
cuộc đời cho sự giải phóng nhân dân Việt Nam, đóng góp cho cuộc đấu tranh chung
vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của các dân tộc trên thế giới
”. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá
thế giới, đồng thời cũng là nhà giáo. Suốt đời Bác nêu tấm gương sáng ngời về
người thầy được toàn dân tộc và cả loài người tiến bộ noi theo.
1.1.1.Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng
Theo Người : “ Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng ”. Ngay sau Cách mạng
tháng Tám, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt vấn đề chống nạn dốt là vấn đề cấp bách số hai sau
vấn đề chống nạn đói của Nhà nước lúc bấy giờ. Bởi vì “ nạn dốt là một trong
những phương pháp độc ác mà bọn thực dân dùng để cai trị chúng ta và một dân
tộc dốt là một dân tộc yếu ”. Trong kháng chiến chống Pháp, vì bận đánh giặc và
sản xuất, nhiều người chưa chú ý đúng mức đến văn hóa và giáo dục, Bác đã sửa

khẩu hiệu thi đua thanh toán “ nạn mù chữ ” thành “thi đua diệt giặc dốt”. Bác kêu
gọi mọi người thi đua học tập để đưa dân tộc ta trở thành một dân tộc “Thông thái”.
Khi đã giành được chính quyền trong cả nước, Người quan tâm nhiều đến công tác
giáo dục đào tạo cán bộ, đào tạo nhân tài cho đất nước. Trong bài viết: “ Nhân tài
và kiến quốc ” (tháng 11/1945), Bác nhận định rằng, bây giờ đất nước đang “ kiến
thiết ngoại giao, kiến thiết kinh tế, kiến thiết quân sự, kiến thiết giáo dục ”, những “
kiến thiết ” ấy đòi hỏi phải có nguồn nhân lực dồi dào và có những nhân tài. Muốn

SVTH: MẠC THỊ THU YẾN

2


GVHD: BÙI PHƯỚC Ý
vậy, phải nhận thức đúng tầm quan trọng của giáo dục, coi giáo dục là sự nghiệp
của quần chúng, là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân tộc.
1.1.2.Học với hành phải kết hợp với nhau
Học với hành phải kết hợp với nhau. Về phương pháp đào tạo nên những người tài
- đức, Chủ tịch Hồ Chí minh chỉ rõ: “ học đi đôi vời hành, giáo dục kết hợp với lao
động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội”. Chúng ta có thể tìm thấy hàng loạt
lời chỉ dẫn của Người về vấn đề này trong các bài nói, bài viết, các bức thư của
Người về giáo dục. Muốn trở nên người thực sự có tài năng và có ích cho xã hội,
Bác nhắc nhở: Các cháu học sinh không nên học gạo, không nên học vẹt... Học
phải suy nghĩ, học phải liên hệ với thực tế, phải có thí nghiệm và thực hành. Học
với hành phải kết hợp với nhau. Bác dạy: phải coi “ giáo dục thiếu nhi là một khoa
học”. Mặc dù bận trăm công nghìn việc, Người vẫn giành thì giờ để chỉ đạo cụ thể,
sát sao các phong trào thi đua, như phong trào
“ dạy tốt, học tốt ”, đề xuất công
tác Trần Quốc Toản, phong trào “ kế hoạch nhỏ ” cho các cháu thiếu niên, nhi đồng
nhằm tạo nên môi trường xã hội rộng lớn và thuận lợi cho phát triển giáo dục.

1.1.3.Những người làm công tác quản lý phải kết hợp với giáo dục
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: các cấp uỷ chỉnh quyền, các ngành các giới, các
đoàn thể quần chúng và toàn xã hội phải thật sự quan tâm đến công tác giáo dục,
giúp đỡ nhà trường về mọi mặt, phát huy cao độ dân chủ trong nhà trường để tạo
nên sự đoàn kết nhất trí giữa thầy với thầy, thầy với trò, trò với trò, tạo ra mối quan
hệ mật thiết giữa nhà trường - gia đình - xã hội cùng cộng đồng trách nhiệm đề phát
triển giáo dục. Trong công tác quản lý giáo dục. Người khuyên: phải đi sâu vào
việc điều tra nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm. Chủ trương phải cụ thể, thiết thực,
đúng đắn, kết hợp chặt chẽ chủ trương chính sách của trung ương với tình hình thực
tế kinh nghiệm quý báu và phong phú của quần chúng, của cán bộ và của địa
phương. Theo Hồ Chủ tịch, vấn đề then chốt quyết định chất lượng giáo dục là xây
dựng đội ngũ những người thầy giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Bởi vì “ Nếu
không có thầy giáo thì không có giáo dục, phải xây dựng đội ngũ những người thầy
giáo tốt - thầy giáo xứng đáng là thầy giáo ”. Đó là những người yêu nghề, yêu
trường, hết lòng thương yêu, chăm sóc, giáo dục học sinh, không ngừng trau dồi
đạo đức cách mạng . Phải thường xuyên tự bồi dưỡng, nâng cao tay nghề, trình độ
chuyên môn, phương pháp sư phạm để thực sự là tấm gương sáng cho học sinh noi
SVTH: MẠC THỊ THU YẾN

3


GVHD: BÙI PHƯỚC Ý
theo. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy “ người huấn luyện phải học thêm, học mãi thì
mới làm được công việc huấn luyến của mình”. Người dẫn lại câu của Khổng Tử: “
Học không biết chán, dạy không biết mỏi ” và lời dạy của V.I Lê Nin: “ Học, học
nữa, học mãi ” để nhấn mạnh rằng người huấn luyện nào tự cho mình là đã biết đủ
rồi thì người đó dốt nhất. Giáo dục trực tiếp nâng cao trình độ học vấn, trình độ
khoa học, cả khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, kỹ thuật, chuyên môn
nghiệp vụ, trình độ tổ chức quản lý... Giáo dục sẽ giúp cho con người có một vốn

liếng về lịch sử, văn hóa của dân tộc Việt Nam và thế giới, nếu không có nó thì sẽ
không giữ vững được nền độc lập dân tộc, không thể tham gia một cách tích cực và
có hiệu quả vào công việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Giáo dục sẽ giúp cho mỗi
người dân có kiến thức mới để “ biến một nước dốt nát, khổ cực thành một nước
văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc ”. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
còn thể hiện trong ham muốn tột bậc của Người là: “ làm sao cho nước ta được
hoàn toàn độc lập, dân tộc ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành ”.
1.2.Đường lối đổi mới quan điểm của đảng về giáo dục
Giáo dục và đào tạo là một vấn đề hết sức quan trọng trong đời sống chính trị của mỗi nước,
là biểu hiện trình độ phát triển của mỗi nước. Vì vậy, ngay từ khi giành được chính
quyền, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Do đó xác
định Giáo dục và đào tạo là một nhiệm vụ quan trọng của cách mạng Việt Nam.
Bắt đầu từ Nghị quyết của Đại hội lần thứ IV của Đảng (1979) đã ra quyết định số
14-NQTƯ về cải cách giáo dục với tư tưởng: Xem giáo dục là bộ phận quan trong
của cuộc cách mạng tư tưởng; thực thi nhiệm vụ chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ từ
nhỏ đến lúc trưởng thành; thực hiện tốt nguyên lý giáo dục học đi đôi với hành,
giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội.
Tư tưởng chỉ đạo trên được phát triển bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với yêu cầu
thực tế qua các kỳ Đại hội VII, VIII, IX, X của Đảng cộng sản Việt Nam.
+ Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo đã được Đại hội VII xem
là quốc sách hàng đầu. Đó là một động lực thúc đẩy và là một điều kiện cơ bản bảo
đảm việc thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ đất nước.
Phải coi đầu tư cho giáo dục là một trong những hướng chính của đầu tư phát triển,
tạo điều kiện cho giáo dục đi trước và phục vụ đắc lực sự phát triển kinh tế - xã hội.
SVTH: MẠC THỊ THU YẾN

4



GVHD: BÙI PHƯỚC Ý
Huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân giúp sức xây
dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lý của Nhà nước. Phát triển giáo dục
nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo những con
người có kiến thức văn hoá, khoa học, có kỹ năng nghề nghiệp, lao động tự chủ,
sáng tạo và có kỷ luật, giàu lòng nhân ái, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, sống lành
mạnh, đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước những năm 90 và chuẩn bị cho tương
lai. Phải mở rộng quy mô, đồng thời chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo
dục, gắn học với hành, tài với đức. Giáo dục phải vừa gắn chặt với yêu cầu phát
triển đất nước, vừa phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại. Thực hiện một nền giáo
dục thường xuyên cho mọi người, xác định học tập suốt đời là quyền lợi và trách
nhiệm của mỗi công dân. Đa dạng hóa các hình thức đào tạo. Thực hiện công bằng
xã hội trong giáo dục: Người đi học phải đóng học phí, người sử dụng lao động qua
đào tạo phải đóng góp chi phí đào tạo. Nhà nước có chính sách bảo đảm cho người
nghèo và các đối tượng chính sách đều được đi học.
+ Đại hội Đảng lần thứ VIII khẳng định một lần nữa vai trò quan trọng của khoa
học công nghệ và giáo dục đào tạo “Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và
đào tạo là quốc sách hàng đầu” . Coi trọng cả 3 mặt của giáo dục: mở rộng qui mô,
nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả để phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đổi mới hệ thống giáo dục chuyên nghiệp và
đại học, kết hợp đào tạo với nghiên cứu, tạo nguồn nhân lực đủ khả năng tiếp cận
với công nghệ tiên tiến.Sau khi Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu
sụp đổ, Đảng ta đã có những chuyển hướng về hợp tác quốc tế trong đào tạo cán
bộ. Nghị quyết 02-NQ/HNTW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đó
nhấn mạnh quan điểm hợp tác đào tạo với các nước như sau:
- Dành ngân sách nhà nước thỏa đáng để cử những người giỏi và có phẩm chất tốt
đi đào tạo và bồi dưỡng về những ngành nghề và lĩnh vực then chốt ở những nước
có nền khoa học, công nghệ phát triển.
- Khuyến khích đi học nước ngoài bằng con đường tự túc, hướng vào những ngành
mà đất nước đang cần, theo quy định của Nhà nước.

Thực hiện Nghị quyết này, Chính phủ đã dành 100 tỉ đồng đầu tư cho việc đào tạo
ở nước ngoài vào năm 2000 (tương đương với 7,12 triệu USD tại thời điểm đó).

SVTH: MẠC THỊ THU YẾN

5


GVHD: BÙI PHƯỚC Ý
+ Vấn đề nhân tài ngày càng trở nên bức thiết, đến Đại hội IX, Trung ương Đảng
một lần nữa nhấn mạnh rằng: “Có chính sách hỗ trợ đặc biệt những học sinh có
năng khiếu, hoàn cảnh sống khó khăn được theo học ở các bậc học cao. Có quy
hoạch và chính sách tuyển chọn người giỏi, đặc biệt chú ý đến con em công nhân
và nông dân để đào tạo ở các bậc đại học và sau đại học. Tăng ngân sách nhà nước
cho việc cử người đi học ở các nước có nền khoa học và công nghệ tiên tiến.
Khuyến khích việc du học tự túc”.
Đại hội Đảng lần thứ IX nêu rõ: “Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện,
đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản
lý giáo dục; thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá” . Nâng cao chất lượng,
hiệu quả giáo dục.Tạo chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục, trước hết nâng
cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, thực hiện giáo dục toàn diện, đặc biệt chú trọng
giáo dục tư tưởng - chính trị, nhân cách, đạo đức, lối sống cho người học.
Tăng cường phối hợp nhà trường và gia đình, phát huy vai trò giáo dục gia đình.
Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện
đại hóa, tăng cường giáo dục tư duy sáng tạo, năng lực tự học, tự tu dưỡng, tự tạo
việc làm. Tăng cường giáo dục hướng nghiệp, đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực của
đất nước và các địa phương, vùng, miền. Nâng cao chất lượng giảng dạy các môn
khoa học xã hội, nhân văn, nhất là các môn học Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Một số trường đại học phải sớm đạt chất lượng ở trình độ quốc tế.Hoàn thiện
hệ thống cơ chế, chính sách, phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài, đáp

ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sớm xây dựng chính sách sử dụng và
tôn vinh các nhà giáo, cán bộ quản lý giỏi, có công lao lớn trong sự nghiệp giáo dục
đào tạo. Nâng cao chất lượng đào tạo sau đại học, chấn chỉnh việc phong chức
danh, học vị, cấp văn bằng. Phát triển quy mô giáo dục cả đại trà và mũi nhọn, trên
cơ sở bảo đảm chất lượng và điều chỉnh cơ cấu đào tạo, gắn đào tạo với yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội, đào tạo với sử dụng.
Mở rộng hệ thống trường lớp giáo dục mầm non trên mọi địa bàn dân cư, đặc biệt ở
miền núi, vùng dân tộc thiểu số, nông thôn.
Hoàn thành cơ bản phổ cập trung học cơ sở vào năm 2010, củng cố kết quả phổ cập
tiểu học, đặc biệt ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Tiếp tục xóa mù chữ, ngăn ngừa

SVTH: MẠC THỊ THU YẾN

6


GVHD: BÙI PHƯỚC Ý
tái mù chữ, giáo dục cho người lớn. Thực hiện phổ cập trung học ở những nơi đó
phổ cập xong trung học cơ sở.
Điều chỉnh cơ cấu đào tạo, tăng nhanh dạy nghề và trung học chuyên nghiệp. Hiện
đại hóa một số trường dạy nghề nhằm chuẩn bị đội ngũ công nhân bậc cao có trình
độ tiếp thu và sử dụng công nghệ mới và công nghệ cao.
Phát triển giáo dục không chính quy, các hình thức học tập cộng đồng ở các xã,
phường gắn với nhu cầu thực tế của đời sống kinh tế - xã hội, tạo điều kiện thuận
lợi cho mọi người có thể học tập suốt đời, hướng tới xã hội học tập.
- Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục. Có chính sách hỗ trợ học sinh, sinh
viên thuộc các gia đình nghèo và các đối tượng chính sách xã hội. Ưu tiên phát
triển giáo dục ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Chú trọng đào tạo cán bộ
vùng dân tộc (cán bộ đảng, chính quyền, đoàn thể từ bản, ấp trở lờn và cán bộ khoa
học kỹ thuật). Củng cố và tăng cường hệ thống trường nội trú, bán trú cho học sinh

dân tộc thiểu số ; từng bước mở rộng quy mô tuyển sinh, đáp ứng yêu cầu đào tạo
toàn diện đi đôi với cải tiến chính sách học bổng cho học sinh các trường này. Thực
hiện chế độ miễn phí học tập, cung cấp sách giáo khoa cho học sinh vùng cao, vùng
sâu, vùng xa, học sinh người dân tộc thiểu số. Thực hiện tốt chính sách cử tuyển,
đào tạo theo địa chỉ đối với vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa có nhiều khó
khăn. Có chách bổ trợ kiến thức cần thiết cho số học sinh dân tộc thiểu số đó tốt
nghiệp trung học phổ thông hoặc trung học cơ sở mà không có điều kiện học tiếp
để các em trở về địa phương tham gia công tác ở cơ sở.
+ Đại hội X đã xác định mục tiêu giáo dục là nhằm bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần
yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, lý tưởng chủ nghĩa xã hội, lòng nhân ái, ý thức tôn
trọng pháp luật, tinh thần hiếu học, ý chí tiến thủ lập nghiệp, không cam chịu nghèo
nàn, đào tạo lớp người lao động có kiến thức cơ bản, làm chủ năng lực nghề
nghiệp, quan tâm hiệu quả thiết thực, nhảy cảm với chính trị, có ý chí vươn lên về
khoa học - công nghệ.
Để cụ thể chủ trương đó, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương phát triển giáo dục
một cách tổng thể và toàn diện, bắt đầu từ chủ trương phát triển giáo dục mầm non,
thực hiện xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở trên phạm vi
cả nước, tạo môi trường thuận lơị để cho mọi người học tập suốt đời. Điều hành
hợp lý cơ cấu bậc học, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng trong hệ thống Giáo dục và
SVTH: MẠC THỊ THU YẾN

7


GVHD: BÙI PHƯỚC Ý
đào tạo, quan tâm đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề, hướng vào mục
tiêu phát triển kinh tế, thực hiện tốt chính sách giáo dục gắn với phát triển kinh tế
xã hội.
2.Cở sở thực tiễn
2.1.Hồ Chí Minh cuộc sống và hoạt động của người

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
luôn quan tâm đến việc giáo dục thanh thiếu niên, nhi đồng. Vì Bác coi đó là một
bộ phận quan trọng của dân tộc - những người chủ tương lai của nước nhà. Trước
khi đi xa, Người còn căn dặn lại toàn Đảng, toàn dân hãy “chăm lo giáo dục, đào
tạo thế hệ trẻ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng”,
vừa “chuyên”.
Trước hết, Bác rất coi trọng yếu tố tự vận động của thanh thiếu niên nhi đồng trong
quá trình học tập, rèn luyện và tu dưỡng. Bác nói: “Thanh niên bây giờ là một thế
hệ vẻ vang, vì vậy cho nên phải tự giác, tự nguyện và tự động cải tạo tư tưởng của
mình để xứng đáng với nhiệm vụ của mình”. Bác yêu cầu thanh niên không thể
ngồi đó chờ đợi những quyền lợi vật chất và tinh thần của xã hội đem đến, trái lại
thanh niên phải tự giác vận động để tiến lên cống hiến cho xã hội ngày càng được
nhiều hơn. Bác luôn luôn chú ý tới sự thống nhất giữa nội dung và phương thức
giáo dục, giữa nhận thức và hành động, giữa lý luận và thực tiễn. Đó là sự biểu hiện
quan hệ biện chứng giữa hai hình thái hoạt động trong khoa học giáo dục hiện đại
(cái bên trong là do cái bên ngoài chuyển vào). Bác thường nhắc nhở mọi người:
“Giáo dục thanh niên không thể tách rời mà phải liên hệ chặt chẽ với cuộc đấu
tranh của xã hội”. “Suốt đời phải gắn liền học tập với lao động sản xuất”. Bác coi
hành động cách mạng là khâu then chốt nhất trong công tác giáo dục thanh niên,
cho nên, Bác khuyên thanh niên “nên nói ít, làm nhiều”, “ham làm những việc ích
quốc lợi dân”.
Ghi sâu những lời dạy ân cần của Bác, thế hệ thanh niên chúng ta ngày nay cần nêu
cao ý chí quyết tâm phấn đấu để sớm trở thành lực lượng nòng cốt đáng tin cậy của
Đảng, hoàn thành xuất sắc những nhiệm vụ được giao phó.
Trong tập sách "Hồ Chí Minh bàn về công tác giáo dục" do Nhà xuất bản Sự thật
Hà Nội ấn hành năm 1972 đã tập hợp nhiều bài viết của Người bàn về công tác giáo
dục. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt tập sách này là tư tưởng của Hồ Chí Minh đối với mục
SVTH: MẠC THỊ THU YẾN

8



GVHD: BÙI PHƯỚC Ý
tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục. Đây chính là cẩm nang, là cơ sở khoa học để
Đảng ta vận dụng, lãnh đạo sự nghiệp giáo dục nước ta trong suốt một phần ba thế
kỷ qua.
+ Về mục tiêu giáo dục, Người căn dặn: Trách nhiệm của người thầy “không phải
là gõ đầu trẻ để kiếm cơm” mà phải chăm lo, dạy dỗ, đào tạo các em thành người
công dân tốt, người lao động tốt, người cán bộ tốt, người chiến sĩ tốt, trung với
nước, hiếu với dân, có lòng yêu nước nồng nàn, có đạo đức trong sáng, cần-kiệmliêm-chính-chí-công-vô-tư, có tri thức và sức khỏe để phục vụ Tổ quốc, phục vụ
nhân dân, làm cho dân giàu, nước mạnh.
+ Về nội dung giáo dục, Người chỉ rõ: phải chú trọng giáo dục đạo đức cách mạng,
giác ngộ xã hội chủ nghĩa, kỹ thuật, lao động sản xuất. Người nhấn mạnh: “Tăng
cường hơn nữa việc giáo dục lao động trong nhà trường là một khâu chủ yếu trong
toàn bộ sự nghiệp giáo dục xã hội chủ nghĩa, nhằm trang bị cho thế hệ trẻ có những
kiến thức khoa học, lại có những kiến thức cơ bản về sản xuất công nghiệp-nông
nghiệp, những thói quen lao động, sẵn sàng bước vào xây dựng xã hội chủ nghĩa”.
Theo Người, nội dung giáo dục phải chứa đựng tính dân tộc, tính khoa họcvà tính
nhân dân; phải làm cho người học hiểu được những truyền thống quý báu của dân
tộc như tinh thần yêu nước nồng nàn, đoàn kết, tương thân tương ái, anh hùng trong
chống giặc ngoại xâm, cần cù trong lao động sản xuất.
+ Về phương pháp giáo dục, Người chỉ giáo: cách học phải nhẹ nhàng; không gò
ép học sinh vào khuôn khổ người lớn, phải đặc biệt chú trọng đến sức khỏe của các
cháu, chú trọng bồi dưỡng phương pháp tự phát huy nội lực, tư duy biện chứng
Mác - Lê nin, óc tư duy lý luận, tư duy kỹ thuật, tư duy kinh tế, óc phê phán và
sáng tạo cho người học.
Ngày nay Bác Hồ đã đi xa, nhưng những lời di huấn thiêng liêng của Bác trong
việc giáo dục thanh niên vẫn còn sáng ngời mãi cả về giá trị tinh thần và thực tiễn,
cả về ý nghĩa khoa học và tính cách mạng
2.2.thực tiễn cách mạng việt nam

Hiện nay, trong giai đoạn cách mạng mới, thế giới đã có nhiề thay đổi và diễn biến
phức tạp, khó lường, hòa bình, hợp tác, phát triển và hội nhập vẫn là xu thế lớn,
nhưng xung đột xác tộc tôn giáo, chiến tranh cục bộ can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn
diễn ra gây gắt; các yếu tố đe dọa an ninh,các nước lớn dùng mọi thủ đoạn tinh vi,
SVTH: MẠC THỊ THU YẾN

9


GVHD: BÙI PHƯỚC Ý
thậm chí cả hành động quân sự dưới mọi chiêu bài để can thiệp, lấn lướt các quốc
gia nhỏ, yếu thế và tội phạm công nghệ cao tiếp tục gia tăng. Những vấn đề toàn
cầu như biến đổi khí hậu an ninh lương thực, thiên tai, dịch bệnh…sẽ tiếp tục diễn
biến phức tạp. Không chỉ còn là mỗi vấn đề của quốc gia mà muốn giải quyết được
phải có sự chung tay, góp sức của tất cả các nước trên thế giới. Xong, chế độ chính
trị, lợi ích của mỗi nước lại khác nhau, trong khi sự chia sẽ trong tinh thần đoàn
kết, hi sinh giúp đỡ của các nước có chế độ do đảng cộng sản cầm quyền, lãnh đạo;
đối với nước ta cũng đã thay đổi nhiều. Tuy xu hướng hòa bình hữu nghị vẫn là
chính những việc tính toán để bảo vệ quyền lợi của mỗi quốc gia cũng thay đổi.
Quốc gia nào cũng có toan tính riêng trong bối cảnh phức tạp hơn. Toàn cầu hóa,
hội nhập và cách mạng khoa học công nghệ. Nhất là công nghệ thông tin phát triển
mạnh mẽ, làm cho thời gian như ngắn lại, không gian như nhỏ đi thúc đẩy hình
thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức. Quá trình cấu trúc lại nền kinh tế thế giới
và nền kinh tế của mỗi quốc gia còn diễn ra mạnh mẽ theo chiều hướng sâu lấy chất
lượng tăng trưởng làm mục tiêu trong khi đó. Cạnh tranh trên tất cả các lĩnh vực, cả
ở thị trường tại mỗi quốc gia và thị trường thế giới, giữa các nước ngày càng gay
gắt. Đấu tranh giai cấp và dân tộc vẫn diễn biến phức tạp. Khu vực thái bình dương,
trong đó có đông nam á là khu vực phát triển năng động nhưg vẫn tồn tại nhiều
nhân tố gay mất ổn định : tranh chấp lãnh thổ , biển đảo càng nóng bỏng trong nước
, tuy đã có thành tựu và kinh nghiệm của hơn 25 năm đổi mới, tạo ra thế và lực mới

cho đất nước, “nước ta vẫn đứng nhiều thách thức lớn, đan xen nhau”, tác động
tổng hợp và diễn biến phức tạp. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều
nước trong khu vực và thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thoái về chính trị và tư
tưởng đạo đức , lối sống của một bộ phận không nhỏ, cán bộ, tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng. Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa
xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển đổi” có diễn biến phức tạp, các thế lực thù địch
tiếp tục thực hiện “diễn biến hòa bình” gay bạo loạn lật đổ, “nhân quyền” . và
muốn khắc phục những vấn đề trên đất nước ta phải coi trọng vấn đề giáo dục và
phát triển các vấn đề như: kinh tế,quân sự, y tế, chính trị,… trong đó nền giáo dục
là quan trọng nhất.Thấu suốt tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, từ bây giờ đến sau
này, toàn Đảng, toàn dân mà nòng cốt là đội ngũ giáo viên và cán bộ giáo dục tiếp
tục đổi mới mạnh mẽ và nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
SVTH: MẠC THỊ THU YẾN

10


GVHD: BÙI PHƯỚC Ý
Thực hiện giáo dục toàn diện, đặc biệt chú trọng giáo dục tư tưởng - chính trị, nhân
cách, đạo đức, lối sống cho người học. Tăng cường phối hợp giữa nhà trường và
gia đình, phát huy vai trò giáo dục gia đình.
Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục theo hướng chuẩn hóa,
hiện đại hóa, tăng cường giáo dục tư duy sáng tạo, tăng năng lực tự học, tự tu
dưỡng, tự tạo việc làm. Đẩy mạnh giáo dục hướng nghiệp, đáp ứng nhu cầu nguồn
nhân lực của đất nước và các địa phương, vùng miền.
Nâng cao chất lượng giảng dạy các môn khoa học xã hội, nhân văn, nhất là các
môn học Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Vì vậy, tất cả các quốc gia, từ những nước đang phát triển đến những nước phát
triển đều nhận thức được vai trò và vị trí hàng đầu của giáo dục. Trong khi hoạch
định phát triển kinh tế, nhiều nước đặt giáo dục vào vị trí trung tâm, coi giáo dục là

điều kiện phát triển kinh tế. Chính vì thế, các nước này đã có những bước nhảy vọt
trong phát triển kinh tế - xã hội. Đảng ta cũng đã sớm nhận thức được tầm quan
trọng của sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn một cách sâu
sắc, trong đường lối quan điểm của Đảng ta về giáo dục - đào tạo đã có những bước
tiến mới. Đồng thời giữ vững truyền thống văn hoá dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hoá nhân loại, làm chủ khoa học tiên tiến.

SVTH: MẠC THỊ THU YẾN

11


GVHD: BÙI PHƯỚC Ý
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
1.Thực trạng của nền giáo dục lý luận gắn thực tiễn
Trong những thập kỷ qua, nền giáo dục Việt Nam có những bước phát triển, có
những thành tựu đáng ghi nhận, góp phần quan trọng vào nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực cho công cuộc xây dựng, bảo vệ và đổi mới đất nước. Nhưng đồng thời
nền giáo dục đang ẩn chứa rất nhiều yếu kém, bất cập, mà Đại hội IX, X đến Đại
hội XI của Đảng vẫn nêu rất đậm nét, đó là:
Giáo dục - đào tạo còn nhiều hạn chế, yếu kém, bất cập chậm được khắc phục; chất
lượng giáo dục còn thấp, quan tâm đến phát triển số lượng nhiều hơn chất lượng; so
với yêu cầu phát triển của đất nước còn nhiều nội dung chưa đạt; chưa thực sự là
quốc sách hàng đầu.
- Nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục còn lạc hậu, chậm đổi mới, chậm
hiện đại hóa, chưa gắn chặt với đời sống xã hội và lao động nghề nghiệp; chưa phát
huy tính sáng tạo, năng lực thực hành của học sinh, sinh viên.
- Chất lượng giáo dục có mặt bị buông lỏng, giảm sút, nhất là giáo dục đạo đức, lối
sống; giáo dục mới quan tâm nhiều đến dạy “chữ”, còn dạy “người” và dạy “nghề”
vẫn yếu kém; yếu về giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống, lịch sử dân tộc, tư duy

sáng tạo, kỹ năng thực hành,……
- Quản lý nhà nước trong giáo dục còn nhiều yếu kém, bất cập, chậm đổi mới, là
nguyên nhân chủ yếu của nhiều nguyên nhân khác; cơ chế quản lý giáo dục chậm
đổi mới, còn nhiều lúng túng, nhận thức rất khác nhau, nhất là trong điều kiện kinh
tế thị trường và hội nhập quốc tế; chưa theo kịp sự đổi mới trên các lĩnh vực khác
của đất nước.
- Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên còn nhiều bất cập, đạo đức và năng
lực của một bộ phận còn thấp.
- Chưa nhận thức đầy đủ, đúng đắn về công tác xã hội hóa giáo dục; định hướng
liên kết với nước ngoài trong phát triển giáo dục còn nhiều lúng túng, chưa xác
định rõ phương châm.
- Tư duy giáo dục chậm đổi mới, chưa theo kịp yêu cầu đổi mới-phát triển đất nước
trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; khoa học giáo dục

SVTH: MẠC THỊ THU YẾN

12


GVHD: BÙI PHƯỚC Ý
chưa được quan tâm đúng mức, chất lượng nghiên cứu khoa học giáo dục còn nhiều
bất cập.
- Các cơ quan chức năng chậm cụ thể hóa những quan điểm của Đảng thành cơ chế,
chính sách của Nhà nước; thiếu nhạy bén trong công tác tham mưu, thiếu những
quyết sách đồng bộ và hợp lý ở tầm vĩ mô (có khi chính sách được ban hành rồi
nhưng chỉ đạo tổ chức thực hiện không đến nơi đến chốn, kém hiệu quả); một số
chính sách về giáo dục còn chủ quan, duy ý chí, xa thực tế, thiếu sự đồng thuận của
xã hộị.
2.Một số giải pháp để phát triển nền giáo dục
Quán triệt tư tưởng của Người, Đảng ta phải hết sức quan tâm đến giáo dục, coi

giáo dục là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Hoàn thiện thêm hệ thống giáo dục quốc dân, mở rộng
mạng lưới trường học đến hầu hết các thôn bản, Quy mô và cơ sở vật chất giáo dục
phải tăng cường phát triển. Hệ thống các trường học dân tộc nội trú tỉnh, huyện
phải củng cố và mở rộng. Mạng lưới các trường đại học, cao đẳng, các trường
chuyên nghiệp cần mở rộng.
Thấu suốt tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, từ bây giờ đến sau này, toàn Đảng,
toàn dân mà nòng cốt là đội ngũ giáo viên và cán bộ giáo dục tiếp tục đổi mới
mạnh mẽ và nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Tạo chuyển biến cơ bản về
chất lượng giáo dục, trước hết nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo. Thực hiện
giáo dục toàn diện, đặc biệt chú trọng giáo dục tư tưởng - chính trị, nhân cách, đạo
đức, lối sống cho người học. Tăng cường phối hợp giữa nhà trường và gia đình,
phát huy vai trò giáo dục gia đình. Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp
giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, tăng cường giáo dục tư duy sáng tạo,
tăng năng lực tự học, tự tu dưỡng, tự tạo việc làm. Đẩy mạnh giáo dục hướng
nghiệp, đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực của đất nước và các địa phương, vùng
miền. Một số trường đại học phải sớm đạt chất lượng ở trình độ quốc tế. Hoàn thiện
hệ thống cơ chế, chính sách, phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài, đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sớm xây dựng chính sách sử dụng và
tôn vinh các nhà giáo, cán bộ quản lý giỏi, có công lớn trong sự nghiệp giáo dục,
đào tạo. Nâng cao chất lượng đào tạo sau đại học, chấn chỉnh việc phong chức
danh, học vị, cấp văn bằng.
SVTH: MẠC THỊ THU YẾN

13


GVHD: BÙI PHƯỚC Ý
Phát triển quy mô giáo dục cả đại trà và mũi nhọn, trên cơ sở đảm bảo chất lượng
và điều chỉnh cơ cấu đào tạo, gắn đào tạo với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội,

đào tạo với sử dụng. Mở rộng hệ thống trường lớp giáo dục mầm non trên mọi địa
bàn dân cư, đặc biệt ở miền núi, vùng dân tộc ít người, nông thôn. Hoàn thành cơ
bản phổ cập trung học cơ sở , củng cố kết quả phổ cập tiểu học, đặc biệt ở vùng
núi, vùng sâu, vùng xa. Tiếp tục xóa mù chữ, ngăn ngừa tái mù chữ, giáo dục cho
người lớn. Điều chỉnh cơ cấu đào tạo, tăng nhanh dạy nghề và trung học chuyên
nghiệp. Hiện đại hóa một số trường dạy nghề nhằm chuẩn bị đội ngũ công nhân bậc
cao có trình độ tiếp thu và sử dụng công nghệ mới và công nghệ cao. Phát triển
giáo dục không chính quy, các hình thức học tập công đồng ở các xã, phường gắn
với nhu cầu thực tế của đời sống kinh tế – xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi
người có thể học tập suốt đời, hướng tới xã hội học tập.
Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục. Có chính sách hỗ trợ học sinh, sinh
viên thuộc các gia đình nghèo và các đối tượng chính sách xã hội. Ưu tiên phát
triển giáo dục ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Củng cố và tăng cường
hệ thống nội trú, bán trú cho học sinh dân tộc thiêu số ; từng bước mở rộng quy mô
tuyển sinh, đáp ứng yêu cầu đào tạo toàn diện đi đôi với cải tiến chính sách học
bổng cho học sinh các trường này. Thực hiện chế độ miễn phí học tập, cung cấp
sách giáo khoa cho học sinh vùng cao, vùng sâu, vùng xa, học sinh dân tộc thiểu số.
Thực hiện tốt chính sách cử tuyển, đào tạo theo địa chỉ với vùng dân tộc thiểu số,
vùng sâu, vùng xa có nhiều khó khăn.
Cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ có một ham muốn,
ham muốn đến tột bậc. Đó là "làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta
được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học
hành". Tư tưởng đó của Người đến nay vẫn còn nguyên giá trị, vẫn tỏa sáng tính
cách mạng, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Đẩy mạnh và phát triển toàn diện
sự nghiệp giáo dục trong công cuộc đổi mới hôm nay là thực hiện ham muốn tột
bậc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhanh chóng đưa nước ta "sánh vai với các cường
quốc năm châu".

SVTH: MẠC THỊ THU YẾN


14


GVHD: BÙI PHƯỚC Ý

C.KẾT LUẬN
Để hoàn thành đề tài trên, Tôi cũng đã cố gắng nghiên cứu và tìm tòi để hoàn thành
đề tài của mình, trong quá trình nghiên cứu tôi cũng gặp được nhiều thuận lợi và
cũng không ít khó khăn. Mặt thuận lợi được sự giúp đở của giáo viên chuyên môn,
chỉ dẫn cách trình bày, đưa ra các tài liệu để tham khảo và tham khảo qua bạn bè.
Mặt khó khăn việc kết hợp luận điểm một cách phù hợp và tìm hiểu thêm những
văn kiện, nghị quyết mới, thực trạng của nền giáo dục qua thực tế, sách báo cũng
gặp không ít khó khăn mặc dù vậy tôi cũng cố gắng tìm hiểu và hoàn thành bài tiểu
luận của mình.
Qua đề tài nghiên cứu trên tôi thấy rõ được tầm quan trọng của nền giáo dục và sự
quan trọng cấp thiết của nó đối với đất nước cũng như với chính bản thân mình, là
sinh viên và cũng là một công dân của đất nước tôi sẽ cố gắng học tập tốt và phát
huy những mặt tích cực và cố gắng khắc phục những khó khăn tiêu cực. Qua đó
đảng và nhà nước ta phải coi giáo dục là một trong những hướng chính của đầu tư
phát triển, tạo điều kiện cho giáo dục đi trước và phục vụ đắc lực sự phát triển kinh
tế - xã hội. Huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân
giúp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lý của Nhà nước. Phát triển
giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo
những con người có kiến thức văn hoá, khoa học, có kỹ năng nghề nghiệp, lao động
tự chủ, sáng tạo và có kỷ luật, giàu lòng nhân ái, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội,
sống lành mạnh, đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước và chuẩn bị cho tương lai.
Phải mở rộng quy mô, đồng thời chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục,
gắn học với hành, tài với đức. Giáo dục phải vừa gắn chặt với yêu cầu phát triển đất
nước, vừa phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại.


SVTH: MẠC THỊ THU YẾN

15


GVHD: BÙI PHƯỚC Ý

D.TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ Giáo và Đào Tạo: Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia
- Hà Nội - 2012
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.
Chính trị quốc gia - Hà Nội - 2011.
[3] Trí tuệ và bản lĩnh Hồ Chí Minh, thạc sĩ Bùi Đình Phong, Nxb, Chính trị
quốc gia - Hà Nội - 2005.
[4] Bài giảng giáo dục học 1. Biên soạn Nguyễn Thị Kim Liên , 2013.

SVTH: MẠC THỊ THU YẾN

16


GVHD: BÙI PHƯỚC Ý

MỤC LỤC
A.PHẦN MỞ ĐẦU..........................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài..........................................................................................................................1
2. Mục đích và yêu cầu.....................................................................................................................1
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.................................................................................................1
4. Những đóng góp chính của đề tài.................................................................................................1
5. Phương pháp nghiên cứu..............................................................................................................1

B.NỘI DUNG...................................................................................................................................2
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN..........................................................................2
1.Cơ sở lý luận..................................................................................................................................2
1.1.Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục...........................................................................................2
1.1.1.Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng....................................................................................2
1.1.2.Học với hành phải kết hợp với nhau........................................................................................3
1.1.3.Những người làm công tác quản lý phải kết hợp với giáo dục................................................3
1.2.Đường lối đổi mới quan điểm của đảng về giáo dục..................................................................4
2.Cở sở thực tiễn...............................................................................................................................8
2.1.Hồ Chí Minh cuộc sống và hoạt động của người.......................................................................8
2.2.thực tiễn cách mạng việt nam
..................................................9
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP............................................................................12
1.Thực trạng của nền giáo dục lý luận gắn thực tiễn......................................................................12
2.Một số giải pháp để phát triển nền giáo dục................................................................................13
C.KẾT LUẬN.................................................................................................................................15
D.TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................................16

SVTH: MẠC THỊ THU YẾN

17



×