Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

tieu luan triet hoc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.3 KB, 14 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
NỘI DUNG...........................................................................................................1
I. PHẠM TRÙ THỰC TIỄN VÀ PHẠM TRÙ LÝ LUẬN.............................1
1. Phạm trù thực tiễn...........................................................................................1
2. Phạm trù lý luận..............................................................................................2
II. NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.......4
1. Thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích và tiêu chuẩn của lý luận; lý
luận hình thành, phát triển phải xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu thực
tiễn......................................................................................................................4
2. Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận; ngược lại, lý luận phải được vận
dụng vào thực tiễn, tiếp tục bổ sung và phát triển trong thực tiễn......................6
III. THỰC TIỄN ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ
LUẬN VÀ THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY........................................7
1. Lĩnh vực chính trị............................................................................................8
2. Lĩnh vực kinh tế..............................................................................................9
3. Lĩnh vực văn hóa..........................................................................................10
4. Lĩnh vực xã hội.............................................................................................11
KẾT LUẬN........................................................................................................12

0


MỞ ĐẦU
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nguyên tắc cơ
bản, là linh hồn của triết học Mác – lênin. Lần đầu tiên trong lịch sử triết học,
C.Mác đã phát hiện ra sức mạnh của lý luận chính là mối liên hệ của nó với thực
tiễn, cũng như sức mạnh của thực tiễn là ở mối quan hệ của nó với lý luận. Sự
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là sự thống nhất biện chứng và cơ sở của sự
tác động qua lại ấy chính là thực tiễn. Thực tiễn luôn vận động, biến đổi, do đó
lý luận cũng không ngừng đổi mới, phát triển; sự thống nhất biện chứng giữa


chúng vì thế cũng có những nội dung cụ thể và những biểu hiện khác nhau trong
mỗi giai đoạn lịch sử. Đất nước Việt Nam bước vào thế kỷ XXI với những thành
tựu to lớn đạt được trong hơn 20 năm đổi mới. Có được những kết quả đó là do
Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng đúng đắn, sáng tạo lý luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn nước ta. Để tìm hiểu sâu hơn
vấn đề trên, tôi tập trung làm rõ đề tài: “Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn và sự vận dụng nguyên tắc này ở Việt Nam hiện nay”.
NỘI DUNG
I. PHẠM TRÙ THỰC TIỄN VÀ PHẠM TRÙ LÝ LUẬN
1. Phạm trù thực tiễn
a. Các quan điểm về thực tiễn
Một trong những khuyết điểm chủ yếu của lý luận nhận thức duy vật trước
Mác là chưa thấy hết vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Một số nhà triết
học như Ph. Bêcơn, Đ. Diđơrô …đề cao vai trò của thực nghiệm khoa học, chưa
đề cập đến vai trò của các hình thức khác của thực tiễn đối với nhận thức.
b. Thực tiễn là gì
Theo triết học Mác – lênin, thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất
có tính xã hội - lịch sử của con người nhằm biến đổi tự nhiên, xã hội và bản thân
con người.
1


Hoạt động của con người bao gồm hoạt động vật chất và hoạt động tinh
thần. Thực tiễn là hoạt động vật chất. Hoạt động thực tiễn là hoạt động mà con
người sử dụng những công cụ vật chất tác động vào những đối tượng vật chất
làm biến đổi chúng theo những mục đích của mình. Đây chính là những hoạt
động đặc trưng và bản chất của con người, được thực hiện một cách tất yếu
khách quan và không ngừng được phát triển qua các thời kỳ lịch sử. Chính vì
vậy mà thực tiễn bao giờ cũng là hoạt động vật chất có mục đích và mang tính
lịch sử – xã hội. Tính chất lịch sử của hoạt động thực tiễn gắn liền với quá trình

hình thành, tồn tại, vận động và phát triển của con người và xã hội. Hoạt động
thực tiễn được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau và giữa các hình thức đó
đều có sự liên hệ tác động qua lại lẫn nhau, nhưng luôn được xác định bởi những
điều kiện lịch sử cụ thể.
c. Các hình thức cơ bản của thực tiễn
Thực tiễn biểu hiện rất đa dạng với nhiều hình thức ngày càng phong phú,
song có ba hình thức cơ bản như sau:
- Lao động sản xuất vật chất là hình thức thực tiễn cơ bản nhất, là hoạt
động trực tiếp tác động vào tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất cho sự tồn tại
và phát triển của xã hội.
- Hoạt động biến đổi xã hội là hình thức thực tiễn cao nhất, là hoạt dộng
của con người trong các lĩnh vực chính trị xã hội nhằm phát triển và hoàn thiện
các thiết chế xã hội, các quan hệ xã hội làm địa bàn rộng rãi cho hoạt động sản
xuất và tạo ra những môi trường xã hội xứng đáng với bản chất con người bằng
cách đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội.
- Thực nghiệm khoa học là hình thức thực tiễn đặc biệt, nhằm mục đích
phục vụ nghiên cứu khoa học và kiểm tra lý thuyết khoa học.
2. Phạm trù lý luận
a. Lý luận là gì

2


Lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn, phản ánh
những mối liên hệ bản chất, những quy luật của sự vật, hiện tượng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “ Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm
của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong
quá trình lịch sử”.
Để hình thành lí luận, con người phải thông qua quá trình nhận thức kinh
nghiệm. Nhận thức kinh nghiệm là quá trình quan sát sự lặp đi lặp lại diễn biến

của các sự vật hiện tượng. Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là tri thức kinh
nghiệm. Tri thức kinh nghiệm bao gồm tri thức kinh nghiệm thông thường và tri
thức kinh nghiệm khoa học. Tri thức kinh nghiệm tuy là thành tố của tri thức ở
trình độ thấp nhưng nó là cơ sở để hình thành lý luận.
b. Các hình thái của lý luận
Lý luận có nghững cấp độ khác nhau tùy phạm vi phản ánh và vai trò của
nó, có thể phân chia lý luận thành lý luận ngành và lý luận triết học.
Lý luận ngành là lý luận khái quát những quy luật hình thành và phát triển
của một ngành. Nó là cơ sở để sáng tạo tri thức cũng như phương pháp luận hoạt
động của ngành đó, như lý luận văn học, lý luận nghệ thuật…
Lý luận triết học là hệ thống những quan niệm chung nhất về thế giới và
con người, là thế giới quan và phương pháp luận nhận thức và hoạt động của con
người.
Vai trò của lý luận thể hiện qua hai chức năng cơ bản, đó là chức năng phản
ánh và chức năng phương pháp luận cho hoạt động thực tiễn. Lý luận phản ánh
hiện thực, là phản ánh bản chất và qui luật của hiện thực dưới các hình thức
khác nhau để hình thành phương pháp luận nhận thức và biến biến đội hiện thực
bằng hoạt động thực tiễn.

3


II. NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích và tiêu chuẩn của lý
luận; lý luận hình thành, phát triển phải xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng
yêu cầu thực tiễn
1.1. Thực tiễn là cơ sở của lý luận
Xét một cách trực tiếp những tri thức được khái quát thành lý luận là kết
quả của quá trình hoạt động thực tiễn cuả con người. Thông qua kết quả của hoạt
động thực tiễn, kể cả thành công cũng như thất bại, con người phân tích cấu trúc,

tính chất và các mối quan hệ của các yếu tố, các điều kiện trong các hình thức
thực tiễn để hình thành lý luận. Quá trình hoạt động thực tiễn là cơ sở để bổ
sung và điều chỉnh các lý luận đã được khái quát. Mặt khác, hoạt động thực tiễn
của con người làm nảy sinh những vấn đề mới đòi hỏi quá trình nhận thức phải
tiếp tục giải quyết. Thông qua đó, lý luận được bổ sung mở rộng. Chính vì vậy,
V.I.Lênin nói: “Nhận thức lý luận phải trình bày khách thể trong tính tất yếu của
nó, trong những quan hệ toàn diện của nó, trong sự vận động mâu thuẫn của nó
tự nó và vì nó.”.
1.2.Thực tiễn là động lực của lý luận
Hoạt động của con người không chỉ là nguồn gốc để hoàn thiện các cá nhân
mà còn góp phần hoàn thiện các mối quan hệ của con người với tự nhiên, với xã
hội. Lý luận được vận dụng làm phương pháp cho hoạt động thực tiễn,mang lại
lợi ích cho con người càng kích thích cho con người bám sát thực tiễn khái quát
lý luận. Quá trình đó diễn ra không ngừng trong sự tồn tại của con người, làm
cho lý luận ngày càng đầy đủ, phong phú và sâu sắc hơn. Nhờ vậy hoạt động của
con người không bị hạn chế trong không gian và thời gian. Thông qua đó, thực
tiễn đã thúc đẩy một ngành khoa học mới ra đời – khoa học lý luận.
1.3. Thực tiễn là mục đích của lý luận
Mặc dù lý luận cung cấp những tri thức khái quát về thế giới để làm thỏa
mãn những nhu cầu hiểu biết của con người nhưng mục đích chủ yếu của lý luận
4


là nâng cao những hoạt động của con người trước hiện thực khách quan để đưa
lại lợi ích cao hơn, thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của cá nhân và xã hội. Tự
thân lý luận không thể tạo nên những sản phẩm đáp ứng nhu cầu của con người.
Nhu cầu đó chỉ được thực hiện trong hoạt động thực tiễn. Hoạt động thực tiễn se
biến đổi tự nhiên và xã hội theo mục đích của con người. Đó thực chất là mục
đích của lý luận. Tức lý luận phải đáp ứng nhu cầu hoạt động thực tiễn của con
người

1.4. Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận
Tính chân lý của lý luận chính là sự phù hợp của lý luận với thực tiễn
khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm, là giá trị phương pháp của lý luận
với hoạt động thực tiễn của con người. Do đó mọi lý luận phải thông qua thực
tiễn để kiểm nghiệm. Chính vì thế mà C. Mác nói : “Vấn đề để tìm hiểu xem tư
duy của con người có thể đạt đến chân lý của khách quan không, hoàn toàn
không phải vấn đề lý luận mà là vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con
người phải chứng minh chân lý”. Thông qua lý luận những lý luận đạt đến chân
lý se được bổ sung vào kho tàng tri thức nhân loại, những kết luận chưa phù hợp
thực tiễn thì tiếp tục điều chỉnh, bổ sung hoặc nhận thức lại. Giá trị của lý luận
nhất thiết phải được chứng minh trong hoạt động thực tiễn.
Tuy thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận, nhưng không phải mọi thực
tiễn đều là tiêu chuẩn của chân lý. Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận khi
thực tiễn đạt đến mức toàn vẹn của nó. Tính toàn vẹn của thực tiễn là thực tiễn
đã trải qua quá trình tồn tại, hoạt động, phát triển và chuyển hóa. Đó là chu kỳ
tất yếu của thực tiễn. Thực tiễn có nhiều giai cấp phát triển khác nhau. Nếu lý
luận chỉ khái quát một giai đoạn nào đó của thực tiễn thì lý luận có thể xa rời
thực tiễn. Do đó chỉ những lý luận nào phản ánh được tính toàn vẹn của thực
tiễn thì mới đạt đến chân lý. Chính vì vậy mà V.I.Lênin cho rằng :“ Thực tiễn
của con người lặp đi lặp lại hàng nghìn triệu lần được in vào ý thức của con
người bằng những hình tượng logic. Những hình tượng này có tính vững chắc

5


của một thiên khiến, có một tính chất công lý, chính vì sự lặp đi lặp lại hàng
nghìn triệu lần ấy”
2. Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận; ngược lại, lý luận phải được
vận dụng vào thực tiễn, tiếp tục bổ sung và phát triển trong thực tiễn
Lý luận đóng vai trò soi đường cho thực tiễn vì lý luận có khả năng định

hướng mục tiêu, xác định lực lượng, phương pháp, biện pháp thực hiện. Lý luận
còn dự báo được khả năng phát triển cũng như các mối quan hệ của thực tiễn, dự
báo được những rủi ro xảy ra, những hạn chế, những thất bại có thể có trong quá
trình hoạt động. Như vậy lý luận không chỉ giúp con người hoạt động hiện quả
mà còn là cơ sở để khắc phục những hạn chế và tăng năng lực hoạt động của con
người. Mặt khác, lý luận còn có vai trò giác ngộ mục tiêu, lý tưởng liên kết các
cá nhân thành cộng đồng tạo thành sức mạnh vô cùng to lớn của quần chúng
trong cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội. Chính vì vậy, C. Mác đã cho rằng: “ Vũ
khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí,
lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất, một khi nó
thâm nhập vào quần chúng”.
Mặc dù lý luận mang tính khái quát cao, song nó còn mang tính lịch sử, cụ
thể. Do đó, khi vận dụng lý luận chúng ta còn phân tích cụ thể mỗi tình hình cụ
thể. Nếu vận dụng lý luận máy móc, giáo điều, kinh viện thì chẳng những hiểu
sai giá trị của lý luận mà còn làm phương hại đến thực tiễn, làm sai lệch sự
thống nhất tất yếu giữa lý luận và thực tiễn.
Lý luận hình thành là kết quả của quá trình nhận thức lâu dài và khó khăn
của con người trên cơ sở hoạt động thực tiễn. Hoạt động thực tiễn tuy phong
phú, đa dạng nhưng không phải không có tính quy luật. Tính quy luật của thực
tiễn được khái quát dưới hình thức lý luận. Mục đích của lý luận không chỉ là
phương pháp mà còn định hướng cho hoạt động thực tiễn. Đó là định hướng
mục tiêu, biện pháp sử dụng lực lượng, định hướng giải quyết các mối quan hệ
trong hoạt động thực tiễn. Không những thế lý luận còn định hướng mô hình
của hoạt động thực tiễn. Vận dụng lý luận vào hoạt động thực tiễn, trước hết từ
6


lý luận để xây dựng mô hình thực tiễn theo những mục đích khác nhau của quá
trình hoạt động, dự báo các diễn biến các mối quan hệ, lực lượng tiến hành và
những phát sinh của nó trong quá trình phát triển để phát huy các nhân tố tích

cực, hạn chế những yếu tố tiêu cực nhằm đạt kết quả cao.
Lý luận tuy là logic của thực tiễn, song lý luận có thể lạc hậu với thực tiễn.
Vận dụng lý luận vào thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải bám sát diễn biến của thực
tiễn để kịp thời điều chỉnh, bổ sung những khiếm khuyết của lý luận, hoặc có thể
thay đổi lý luận cho phù hợp với thực tiễn. Khi vận dụng lý luận vào thực tiễn,
chúng có thể mang lại hiệu quả có thể không, hoặc kết quả chưa rõ ràng. Trong
trường hợp đó, giá trị của lý luận phải do thực tiễn quy định. Tính năng động
của lý luận chính là điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn. Lênin nhận xét rằng:
“Thực tiễn cao hơn lý luận, vì nó có ưu điểm không những của tính phổ biến, mà
cả của tính hiện thực trực tiếp”.
III. THỰC TIỄN ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngày nay, công cuộc đổi mới xã hội với ở Việt Nam đang đặt ra nhiều vấn đề
mới và phức tạp trong việc chủ trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế, vận
động theo cơ chế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi lý luận phải
đi sâu nghiên cứu những vấn đề đó. Theo đó, vấn đề xã hội hoá giáo dục, y tế,
văn hoá và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay ở việt
Nam cũng đòi hỏi lý luận phải đi sâu nghiên cứu, để khẳng định tính tất yếu của
quá trình đó trên cơ sở phát triển kinh tế xã hội hiện nay ở Việt Nam.
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta với tính chất mới mẻ và khó khăn của nó đòi
hỏi phải có lý luận khoa học soi sáng. Sự khám phá về lý luận phải trở thành tiền
đề vào điều kiện cơ bản làm cơ sở cho sự đổi mới trong hoạt động thực tiễn. Tuy
nhiên, lý luận không bỗng nhiên mà có và cũng không thể chờ chuẩn bị xong
xuôi về lý luận rồi mới tiến hành đổi mới. Hơn nữa, thực tiễn lại là cơ sở để
nhận thức của lý luận. Phải trải qua thực tiễn rồi mới có kinh nghiệm, mới có cơ
sở để khái quát thành lý luận.
7


Trong khi đề cao vai trò của thực tiễn, Đảng ta không hề hạ thấp, không hề

coi nhẹ lý luận. Quá trình đổi mới là quá trình Đảng ta không ngừng nâng cao
trình độ lý luận của mình, cố gắng phát triển lý luận, đổi mới tư duy lý luận về
chủ nghĩa xã hội và áp dụng vào thực tiễn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta về những nội dung sau:
1. Lĩnh vực chính trị
Đảng lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện và trực tiếp nhưng Đảng không làm
thay Nhà nước, không được sử dụng quyền lực Nhà nước; Đảng lãnh đạo Nhà
nước ban hành luật pháp nhưng Đảng phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật; Đảng giữ vai trò lãnh đạo chính trị không có nghĩa là chỉ đạo
chung chung, chỉ dừng ở việc đề ra cương lĩnh, đường lối chung, không thể
không quyết định những chủ trương, chính sách lớn liên quan đến sự phát triển
kinh tế - xã hội và ổn định chính trị đến quốc phòng, an ninh và quan hệ đối
ngoại của quốc gia, đến công tác cán bộ của cả hệ thống chính trị, đến đời sống
chung của các tầng lớp nhân dân. Có thể thấy, lý luận của Đảng đã được vận
dụng vào thực tiễn và không ngừng được bổ sung và phát triển trong thực tiễn.
Tiến hành đổi mới hệ thống chính trị, từ chế độ tập trung quan liêu với
phương thức quản lý hành chính mệnh lệnh sang dân chủ hoá các lĩnh vực của
đời sống xã hội, thực hiện dân chủ toàn diện. Trong hệ thống chính trị - xã hội
ngày nay, điểm mới đáng chú ý so với cấu trúc của hệ thống chính trị như trước
đây là sự hiện diện của các tổ chức xã hội rộng lớn của nhân dân, đặc biệt là các
hội đoàn trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, các tổ chức hiệp hội nghề nghiệp, kinh
doanh, dịch vụ xã hội… Đảng không quản lý trực tiếp các tổ chức này nhưng có
liên hệ mật thiết với các tổ chức đó. Đường lối, chính sách của Đảng có được
xây dựng và thực thi tốt hay không, nhất là các vấn đề có liên quan trực tiếp đến
quyền và lợi ích của các thành viên tổ chức hiệp hội, không thể không tính đến
vai trò và sự tác động của các tổ chức xã hội.
Tất cả các tổ chức Đảng, đoàn thể ở cơ sở phải thật sự gần dân, tin dân,
trọng dân, nghe dân; các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở phối hợp hoạt
động chặt che, đồng bộ, phát động được các phong trào cách mạng tích cực đổi
mới, như vậy thì se khơi dậy mạnh me tiềm năng con người, đất đai, ngành

nghề, ý chí chính trị và truyền thống văn hóa và hiện đại hóa đất nước. Việc tiếp
xúc mật thiết với dân cho thấy Đảng ta coi trọng thực tiễn đời sống của nhân
dân, lấy đó làm cơ sở, là mục đích, chân lý cho những chủ trương, quyết sách.
8


Thực hiện đổi mới hệ thống chính trị là thiết thực thực hiện nguyên lý của
chủ nghĩa Mác – Lê nin, đó là cách mạng là sự nghiệp của quần chúng là đem
lời dạy của Hồ Chí Minh: đem chính trị vào giữa dân, cơ sở là nơi Đảng và
chính quyền sống trong lòng dân, là cầu nối giữa Đảng, chính phủ với dân.
2. Lĩnh vực kinh tế
Từ đại hội VI, Đảng ta đã tập trung xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, dứt khoát từ bỏ mô hình kinh tế phi hàng hóa, phi thị
trường, mô hình kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp. Kinh tế thị trường là một
kiểu tổ chức kinh tế - xã hội, trong đó quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và
tiêu dùng đều được thực hiện thông qua thị trường. Vì vậy, kinh tế thị trường
không chỉ là “công nghệ”, là “phương tiện” để phát triển kinh tế - xã hội, mà còn
là những quan hệ kinh tế - xã hội, nó không chỉ gồm lực lượng sản xuất mà còn cả
một hệ thống sản xuất. Đây chính là bước chuyển căn bản mà có ý nghĩa sâu xa
vì đã tôn trọng quy luật khách quan về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực
lượng sản xuất; tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mà từng
bước thiết lập quan hệ sản xuất cho phù hợp. Như vậy, rõ ràng là không thể có
một nền kinh tế thị trường chung chung, trừu tượng tách rời khỏi hình thái kinh tế
- xã hội, tách rời khỏi chế độ chính trị - xã hội của một nước.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vừa tuân theo
quy luật của kinh tế thị trường, vừa chịu sự chi phối của các nhân tố định hướng
xã hội chủ nghĩa. Theo tinh thần của các đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam từ lần
thứ VI đến lần thứ XII định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường thể
hiện ở các nội dung: Thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh, giải phóng mạnh me và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng

cao đời sống nhân dân, đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo phát triển kinh tế nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng
chính sách phát triển, tăng trưởng kinh tế gắn liền với phát triển văn hóa, y tế,
giáo dục…. giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người,
thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, phát
huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền
kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo sáng suốt
của Đảng cộng sản Việt Nam. Từ tư duy quản lý dựa trên mô hình một nền kinh
tế chỉ huy tập trung, kế hoạch hoá tuyệt đối với cơ chế bao cấp và bình quân
sang tư duy quản lý mới thích ứng với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,
9


vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
Xã Hội Chủ Nghĩa.
Một số thành thành tựu đổi mới trong nước với thực hiện chính sách mở
cửa, tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đã mở ra không gian phát
triển mới cho nền kinh tế Việt Nam và mang lại cho Việt Nam một vị thế quốc tế
mới, từ một quốc gia bị phong tỏa, cấm vận; từ một nền kinh tế kém phát triển
và “đóng cửa”, sau 20 năm đổi mới, Việt Nam đã vươn mạnh ra thế giới. Đến
nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với gần 170 nước và vùng lãnh thổ; mở
rộng quan hệ kinh tế thương mại với 221 quốc gia và vùng lãnh thổ. Ngoài ra,
Việt Nam còn là thành viên chính thức của nhiều tổ chức kinh tế quốc tế và khu
vực, điều đáng nói nhất là năm 2007, Việt Nam đã trở thành thành viên chính
thức thứ 10 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
3. Lĩnh vực văn hóa
Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa
làm cho thế giới quan Mác – Lê nin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí
chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội.

Đảng ta khẳng định nền văn hóa nước ta là nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc và từng bước làm rõ các nội hàm của các khái niệm “tiên
tiến”, “đậm đà bản sắc dân tộc”. “Tiên tiến” là yêu nước tiến bộ, mà nội dung
cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác – Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và
sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài
hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên.
Nền văn hóa Việt Nam đang xây dựng là một nền văn hóa thống nhất mà đa
dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Những giá trị và đặc sắc văn hóa của
54 dân tộc anh em được kế thừa và phát triển góp phần làm phong phú thêm nền
văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng. Giao lưu, hợp tác văn hóa với nước
ngoài được mở rộng. Một số nét mới trong chuẩn mực văn hóa của con người
Việt Nam từng bước được hình thành. Các tài năng văn hóa – nghệ thuật được
khuyến khích. Nhiều di sản văn hóa được giữ gìn, tôn tạo. Hệ thống sản phẩm
văn hóa góp phần trực tiếp vào sự phát triển, tăng trưởng của ngành du lịch, của
nền kinh tế quốc dân. Hoạt động giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa thực sự
khởi sắc, góp phần làm cho vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng
cao, văn hóa được bạn bè thế giới hiểu biết hơn.
10


Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân
tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội
dân chủ, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ trí
thức, đạo đức, thế lực và thẩm mỹ ngày càng cao, chống tư tưởng, văn hóa trái
với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý của loài
người, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.
4. Lĩnh vực xã hội
Trong quá trình tiến hành sự nghiệp đổi mới, bên cạnh việc tập trung vào
xây dựng nền văn hóa mới, Đảng ta rất coi trọng việc phát triển một xã hội công

bằng, dân chủ, văn minh. Đảng ta xác định rõ các nhiệm vụ và giải pháp có tính
chất toàn diện và tổng thể chiến lược phát triển xã hội, từ công tác kế hoạch hóa
dân số, giải quyết việc làm cho người lao động, thực hiện công bằng xã hội…
đến thực hiện đúng chính sách giai cấp và chính sách dân tộc.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được đảm bảo đầy đủ. Hiện nay, hơn 20
triệu tín đồ thuộc các tôn giáo được tự do thực hiện các hoạt động tôn giáo.
Quyền của đồng bào các dân tộc thiểu số không những được pháp luật bảo vệ
mà còn được Nhà nước chăm sóc, giúp đỡ thông qua các chương trình phát triển
kinh tế - xã hội cho các vùng khó khăn, thông qua các chính sách xã hội, văn
hóa như hệ thống trường dân tộc nội trú…
Thực tiễn đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn: Đất nước ta
đã ra hỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội, có sự thay đổi toàn diện và cơ bản, đời
sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn
dân tộc được củng cố và tăng cường, giữ vững an ninh, đường lối đổi mới của
Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Có thể nói rằng mỗi Đại hội Đảng là một dịp để Đảng và Nhà nước ta tổng
kết thực tiễn, nâng tầm lý luận, làm căn cứ cho việc hoạch định đường lối, chính
sách phù hợp cho từng giai đoạn. Những thành tựu tổng kết thực tiễn, nghiên
cứu lý luận đã cung cấp nhiều luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối,
chính sách của Đảng; góp phần vào những thành công rất to lớn của Đảng và
nhân dân ta trong công cuộc đổi mới, tạo thế và lực mới cho đất nước.
Lý luận đổi mới ở nước ta ngày càng có vai trò quan trọng trong việc tác
động trở lại thực tiễn. Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh trở thành cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối chính sách của
Đảng, cho việc quản lý của Nhà nước. Tuy nhiên, thực tế công tác lý luận ở
11


nước ta hiện nay còn nhiều bất cập. Lý luận vẫn còn tình trạng tách rời thực tiễn,
chưa sâu sắc và nhạy cảm để phát triền những mâu thuẫn và tình huống có vấn

đề trong quá trình đổi mới. Chính vì vậy, chưa bao giờ lý luận lại cần thiết và có
tầm quan trọng như hiện nay.
Đảng ta cũng đưa ra những phương hướng, giải pháp để phát triển lý luận,
đó là: phát hiện, ủng hộ và nhân rộng những nhân tố mới, qua thực tiễn làm sáng
tỏ những vấn đề mới, bổ sung, hoàn thiện và phát triển đường lối”, “chú trọng
nâng cao tính khoa học, tính thực tiễn và sức mạnh dạn khám phá, sáng tạo
trong công tác nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lý luận. Sớm xây dựng và ban
hành quy chế dân chủ trong nghiên cứu lý luận”.
Tóm lại, từ những phân tích trên cho thấy rõ phải coi trọng lý luận nhưng
không được cường điệu vai trò của lý luận coi thường thực tiễn trong nhận thức
khoa học và hoạt động cách mạng. Cội nguồn của những đột phá tạo ra những
bước tiến vượt bậc của xã hội loài người có sự đóng góp của lý luận đích thực.
Tuy nhiên, lý luận phải gắn với thực tiễn, phải được kiểm tra, đúc kết, khái quát
từ thực tiễn thông qua việc tổng kết thực tiễn. Trong công cuộc xây dựng XHCN
ở nước ta khi đất nước nảy sinh những vấn đề cần được giải đáp về mặt lý luận.
Đảng ta đã đứng trên quan điểm, phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lê nin
và tư tưởng Hồ Chí Minh để xem xét. Hàng loạt các vấn đề từ kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội… không thể giải quyết bằng lý luận mà đòi hỏi Đảng ta phải
thực hiện thông qua thực tiễn, tổng kết thực tiễn, chỉ có như vậy công cuộc xây
dựng Chủ nghĩa xã hội của ta mới giảm bớt chông gai, gập ghềnh.
KẾT LUẬN
Trải qua nhiều thay đổi về đường lối quản lý, hiện nay nước ta đã tìm được
hướng đi đúng mặc dù vẫn còn không ít sai lầm cần sửa đổi. Đạt được những
thành tựu như vậy là do Đảng và Nhà nước ta đã đi từ thực tiễn hoàn cảnh đất
nước để đưa ra được những lý luận đúng đắn làm cơ sở cho việc ban hành các
chính sách kinh tế - xã hội phù hợp. Qua đây ta có thể nhìn nhận được rõ hơn vai
trò quan trọng của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, và từ đó có
thể vận dụng, liên hệ nguyên tắc này để góp phần phát triển kinh tế, xã hội nước
ta hiện thời và trong tương lai.


12


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học (dùng trong đào tạo trình độ thạc sĩ, tiến sĩ các ngành
khoa học xã hội và nhân văn không chuyên ngành Triết học), Bộ Giáo dục và
Đào tạo, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, năm 2016.
2. V.I.Lênin toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm 2005.
3. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Bộ Giáo dục và Đào tạo, nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, năm 2016.

13



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×