Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

bài tập học kỳ cong phap

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (69.18 KB, 8 trang )

MỤC LỤC
MỞ BÀI..........................................................................1
NỘI DUNG.....................................................................1
KẾT BÀI..........................................................................5
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................6

0


MỞ BÀI
Ngày 9/4/2016, tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa XIII đã thông
qua Luật Điều ước quốc tế. Với 10 chương, 84 điều, Luật Điều
ước quốc tế có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm 2016,
thay thế Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế
năm 2005. Luật Điều ước quốc tế năm 2016 có những sửa đổi
căn bản, toàn diện, không những khắc phục những bất cập của
Luật năm 2005 mà còn cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm
2013 về công tác điều ước quốc tế, tạo khung pháp lý vừa chặt
chẽ vừa linh hoạt, đáp ứng nhu cầu ký kết và thực hiện điều ước
quốc tế phù hợp với lợi ích quốc gia, phục vụ tốt cho việc triển
khai thực hiện chủ trương chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.
NỘI DUNG
Thứ nhất, Luật sửa đổi, bổ sung định nghĩa về điều ước
quốc tế.
Điều ước quốc tế là “thỏa thuận bằng văn bản được ký kết nhân
danh Nhà nước hoặc Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam với bên ký kết nước ngoài, làm phát sinh, thay đổi
hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam theo pháp luật quốc tế, không phụ thuộc vào
tên gọi là hiệp ước, công ước, hiệp định, định ước, thỏa thuận,
nghị định thư, bản ghi nhớ, công hàm trao đổi hoặc văn kiện có


tên gọi khác” (khoản 1 Điều 2). Đây là điểm mới rất cơ bản, có
tính bao trùm, tác động đến nhiều nội dung trong Luật, khái
niệm này được chỉnh sửa cho phù hợp với quy định của Công
ước viên về Luật Điều ước năm 1969. Theo đó, những văn kiện
nào đáp ứng đầy đủ tiêu chí của một điều ước quốc tế sẽ phải
tuân theo quy trình đàm phán, ký kết quy định trong Luật. Các
tuyên bố, cam kết chính trị nếu không tạo quyền và nghĩa vụ
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo luật pháp
quốc tế thì không được coi là điều ước quốc tề và việc ký kết
các văn kiện này sẽ được thực hiện theo quy định chung về
thống nhất quản lý hoạt động đối ngoại.
Các thỏa thuận, cam kết về vay nợ nước ngoài nếu được ký
nhân danh Nhà nước, Chính phủ Việt Nam với bên ký kết nước
1


ngoài như Nhà nước, Chính phủ nước ngoài hoặc Ngân hàng
Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) vẫn được coi
là điều ước quốc tế và thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật. Tuy
nhiên, các thỏa thuận vay cụ thể nhân danh Chính phủ với các
ngân hàng của nước ngoài có điều khoản áp dụng luật của nước
cho vay hoặc nước tài trợ sẽ không còn được coi là điều ước
quốc tế và việc ký kết sẽ được thực hiện theo quy trình, thủ tục
ký kết quy định tại Luật Quản lý nợ công. Định nghĩa mới này về
điều ước quốc tế phù hợp với Công ước Viên về Luật điều ước
năm 1969 và thực tiễn ký kết điều ước quốc tế của hầu hết các
nước trên thế giới.
Thứ hai, Luật cụ thể hóa các quy định mới của Hiến pháp
năm 2013
Về thẩm quyền của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ và Thủ

tướng Chính phủ trong việc ký kết, gia nhập điều ước quốc tế.
Theo đó, các nội dung liên quan đến thẩm quyền của Quốc hội,
Chủ tịch nước, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ trong việc ký
kết, gia nhập điều ước quốc tế theo Hiến pháp năm 2013 đã
được cập nhật, bổ sung.
Luật Điều ước quốc tế năm 2016 cũng triển khai, thể chế hóa
các quy định mới của Hiến pháp năm 2013, bổ sung, điều chỉnh
các nội dung về thẩm quyền và trình tự, thủ tục để thực hiện
thẩm quyền hiến định của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ trong lĩnh vực điều ước quốc tế, tôn trọng
và góp phần triển khai thực hiện, bảo vệ các quyền con người,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, nguyên tắc dân chủ,
pháp quyền đã được nêu bật trong Hiến pháp. Một trong những
nội dung quan trọng là việc cụ thể hóa các khái niệm “điều ước
quốc tế về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân”, và “điều ước quốc tế về tư cách thành viên của Việt
Nam tại tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng” nêu tại khoản
14 Điều 70 của Hiến pháp.
Theo quy định tại Luật Điều ước quốc tế năm 2016, quyết định
gia nhập các “điều ước quốc tế làm thay đổi, hạn chế hoặc
chấm dứt quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân theo quy định của luật, nghị quyết của Quốc hội”. Quy định
này nhằm mục đích phân biệt các điều ước quốc tế về quyền
2


con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân với các điều
ước quốc tế về hợp tác chuyên ngành như về tương trợ tư pháp,
dẫn độ, chuyển giao người bị thi hành án phạt tù, nuôi con nuôi,
phòng chống tội phạm và các điều ước quốc tế về hợp tác

chuyên ngành khác. Quốc hội cũng phê chuẩn, quyết định gia
nhập các “điều ước quốc tế về việc thành lập, tham gia tổ chức
quốc tế và khu vực nếu việc tham gia, rút khỏi tổ chức đó ảnh
hưởng đến chính sách cơ bản của quốc gia về đối ngoại, quốc
phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội, tài chính, tiền tệ”.
Đây là các chính sách cơ bản thuộc thẩm quyền quyết định của
Quốc hội theo quy định tại Hiến pháp. Nhằm triển khai, cụ thể
hóa tinh thần của Hiến pháp về tăng cường tính công khai,
minh bạch trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, Luật
Điều ước quốc tế đã bổ sung quy định về việc tham vấn đại
điện đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của điều ước quốc tế
trong quá trình đàm phán điều ước quốc tế. Từ nay, khi đàm
phán các điều ước quốc tế, các cơ quan nhà nước sẽ có trách
nhiệm tham vấn các đối tượng chịu tác động của điều ước quốc
tế thông qua tổ chức đại diện của họ.
Như vậy, Luật Điều ước quốc tế vừa được Quốc hội thông qua
có những điểm mới tiến bộ, thể hiện tính công khai, dân chủ,
minh bạch, nhà nước pháp quyền, phù hợp với tinh thần của
Hiến pháp cũng như bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất với các
văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành. Việc ban hành
Luật Điều ước quốc tế năm 2016 có ý nghĩa quan trọng cả về
đối nội và đối ngoại, phục vụ đắc lực cho yêu cầu chủ động, tích
cực hội nhập quốc tế của Việt Nam, đảm bảo lợi ích của đất
nước.
Thứ ba, quy trình, thủ tục rút gọn được quy định thành
một chương riêng để phục vụ yêu cầu đối ngoại và hội
nhập.
Theo đó, Luật bổ sung chương VII với 6 điều về “trình tự, thủ
tục rút gọn”, áp dụng đối với việc ký kết, sửa đổi một số loại
điều ước quốc tế theo mẫu hoặc khi có yêu cầu gấp về thời

gian. Thủ tục rút gọn không áp dụng đối với các điều ước quốc
tế thuộc thẩm quyền phê chuẩn của Quốc hội, vì những loại
3


điều ước quốc tế quan trọng này phải thực hiện theo quy trình,
thủ tục hết sức chặt chẽ.
Để đáp ứng yêu cầu thực tế cần có thủ tục nhanh gọn cho việc
ký kết một số loại điều ước quốc tế để phục vụ yêu cầu đối
ngoại và hội nhập, Luật Điều ước quốc tế năm 2016 bổ sung
thủ tục rút gọn áp dụng cho việc đàm phán, ký, sửa đổi, bổ
sung, gia hạn một số loại điều ước quốc tế. Trong đó, Luật quy
định hai hình thức rút gọn, bao gồm rút gọn về quy trình (cho
phép đồng thời việc đàm phán và việc ký điều ước quốc tế) và
rút gọn về thời hạn, hồ sơ. Tuy nhiên, quy trình, thủ tục rút gọn
sẽ không được áp dụng đối với các điều ước quốc tế thuộc thẩm
quyền phê chuẩn, quyết định gia nhập của Quốc hội, do đây là
những loại điều ước quốc tế quan trọng đòi hỏi phải thực hiện
theo quy trình, thủ tục hết sức chặt chẽ.
Thứ tư, quy định rõ về trách nhiệm của cơ quan đề xuất
trong việc thực hiện điều ước quốc tế.
Luật đã bổ sung quy định về trách nhiệm của cơ quan đề xuất
ký kết điều ước quốc tế trong việc tham vấn tổ chức đại điện
cộng đồng chịu sự tác động trực tiếp của điều ước quốc tế trong
quá trình đàm phán; đặc biệt là trách nhiệm chủ trì, phối hợp
với Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp và cơ quan, tổ chức có liên quan
kiến nghị Thủ tướng Chính phủ quyết định cách hiểu và áp dụng
quy định của điều ước quốc tế trong trường hợp có sự khác
nhau về cách hiểu và áp dụng quy định đó.
Nhằm thực hiện quy định tại Điều 12 Hiến pháp năm 2013

“Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam... tuân thủ Hiến
chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”, và đảm bảo tính hiệu quả và
khả thi trong việc thực hiện, thi hành Luật, Luật năm 2016 đã
quy định cụ thể việc Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm tổ
chức thực hiện điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là thành viên, phê duyệt kế hoạch thực hiện,
quyết định biện pháp chỉ đạo, điều hành hoặc biện pháp khác
để thực hiện điều ước quốc tế; Sau khi lấy ý kiến của cơ quan,
tổ chức có liên quan, cơ quan đề xuất căn cứ vào tính chất, nội
dung của điều ước quốc tế, nhiệm vụ, quyền hạn của mình xây
dựng kế hoạch thực hiện điều ước quốc tế trình Thủ tướng
4


Chính phủ trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được thông
báo của Bộ Ngoại giao về việc điều ước quốc tế có hiệu lực;
Trong trường hợp cơ quan đề xuất không phải là cơ quan chủ trì
thực hiện điều ước quốc tế, cơ quan đề xuất trình Thủ tướng
Chính phủ quyết định cơ quan chủ trì thực hiện điều ước quốc
tế trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày cơ quan có thẩm quyền
quyết định chấp nhận sự ràng buộc của điều ước quốc tế.
Quy định cụ thể kế hoạch thực hiện điều ước quốc tế bao gồm
những nội dung như: Lộ trình thực hiện điều ước quốc tế; Dự
kiến phân công trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong
việc tổ chức thực hiện điều ước quốc tế; Dự kiến nội dung sửa
đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp
luật để thực hiện điều ước quốc tế; Các biện pháp tổ chức, quản
lý, tài chính và các biện pháp cần thiết khác để thực hiện điều
ước quốc tế; Tuyên truyền, phổ biến điều ước quốc tế (Điều 76).

Luật năm 2016 cũng quy định cụ thể trách nhiệm của Bộ Ngoại
giao, Bộ Tư pháp, cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực
hiện điều ước quốc tế (Điều 77- Điều 80).
Luật Điều ước quốc tế năm 2016 cơ bản đã thể chế hoá được
các quy định tại Hiến pháp năm 2013. Đồng thời phục vụ cho
yêu cầu chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, tuân thủ theo các
quy định của Hiến chương Liên Hợp Quốc và các điều ước quốc
tế mà nước ta đang là thành viên; bổ sung quy định nhằm tăng
cường hiệu quả thực hiện điều ước quốc tế, nhất là những nội
dung quan trọng liên quan đến trách nhiệm của Cơ quan đề
xuất trong việc xây dựng và triển khai kế hoạch thực hiện điều
ước quốc tế.
Thứ năm, nhằm giúp các tổ chức, cá nhân có điều kiện
nghiên cứu, tìm hiểu những chính sách quốc tế mới mà
Việt Nam tham gia.
Luật bổ sung quy định điều ước quốc tế có hiệu lực đối với nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngoài việc phải được đăng
trên Công báo thì phải đăng trên Cổng thông tin điện tử của cơ
quan đề xuất, Bộ Ngoại giao, trừ trường hợp có thỏa thuận khác
giữa bên Việt Nam và bên ký kết nước ngoài hoặc có quyết định
khác của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc công khai toàn
5


văn điều ước quốc tế trên Công báo, Cổng thông tin điện tử của
Bộ, ngành đề xuất ký kết điều ước và Cơ sở dữ liệu điều ước
quốc tế do Bộ Ngoại giao xây dựng và vận hành.
Bên cạnh đó, để đáp ứng nhu cầu tra cứu rộng rãi của tổ chức,
cá nhân theo quy định của pháp luật về tiếp cận thông tin, hoặc
để phục vụ hoạt động tố tụng trong trường hợp cơ quan có

thẩm quyền yêu cầu cung cấp bản sao điều ước quốc tế, Luật
Điều ước quốc tế cũng đã bổ sung các quy định mới về cấp bản
sao điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên được lưu trữ tại
Bộ Ngoại giao.
KẾT BÀI
Bên cạnh những điểm mới hết sức tiến bộ, phù hợp tinh thần
Hiến pháp và thống nhất với các văn bản quy phạm pháp luật
hiện hành, Luật Điều ước quốc tế vừa được kỳ họp 11 Quốc hội
Khóa XIII thông qua còn có ý nghĩa quan trọng cả về đối nội và
đối ngoại… Trên đây là bài làm của em mặc dù có nhiều cố
gắng nhưng không thể tránh được sai sót. Mong thầy cô góp ý
thêm để bài được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn !

6


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Luật ký kết gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế.
2. Luật điều ước quốc tế 2016.
3. Và một số tài liệu tham khảo khác.

7



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×