UBND TỈNH CÀ MAU CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
SỞ GIÁO DỤC& ĐÀO TẠO Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Số: 1767/HD- SGD&ĐT Cà Mau, ngày 29 tháng 12 năm 2006
HƯỚNG DẪN CÁCH VIẾT VÀ ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM CỦA CÁN BỘ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
VÀ NHÀ GIÁO TRONG TỈNH
Để giúp cho các cấp quản lý giáo dục, đơn vị, trường học, các cán bộ quản lý,
các nhà giáo trong tỉnh thuận lợi trong việc đánh giá, xếp loại và viết sáng kiến kinh
nghiệm (CT, SKKN); trong khi chờ hướng dẫn của Bộ Giáo dục & Đào tạo, nay
Giám đốc Sở- Chủ tịch Hội đồng khoa học ngành Giáo dục & Đào tạo tỉnh Cà Mau
hướng dẫn cách viết và đánh giá xếp loại CT, SKKN của cán bộ quản lý giáo dục và
nhà giáo trong tỉnh như sau:
I- CẢI TIẾN, SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
Thực tiễn trong công tác chỉ đạo, quản lý giáo dục và giảng dạy, mỗi cán bộ
quản lý giáo dục và nhà giáo đều có những suy nghĩ và việc làm mới sáng tạo nảy
sinh. Những suy nghĩ và việc làm sáng tạo đó được áp dụng nhiều lần trong thực tế
có kết quả tốt; có tác động tích cực làm nâng cao và chuyển biến đến chất lượng, hiệu
quả của công tác chỉ đạo, quản lý, giáo dục và giảng dạy, hoặc trong quá trình thực
hiện chủ trương, nhiệm vụ của cấp trên giao đã có nhiều biện pháp cải tiến sáng tạo
mang lại thành công và nhiều hiệu quả tốt, thì đó được xem là CT, SKKN.
II- CÁCH BỒI DƯỠNG VÀ PHÁT HIỆN CẢI TIẾN, SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM:
Trong điều kiện trình độ cán bộ quản lý giáo dục và nhà giáo tỉnh nhà còn có
những hạn chế nhất định thì việc đúc rút và phổ biến CT, SKKN tốt ở các cấp quản lý
giáo dục từ Sở đến Phòng Giáo dục, đơn vị, trường học là rất cần thiết. Do đó, cần
phát động liên tục phong trào "viết sáng kiến kinh nghiệm" trong toàn đơn vị, gây
thành phong trào thi đua sôi nổi rộng rãi và thường xuyên. Trên cơ sở ấy, phát hiện
những CT, SKKN có giá trị để phổ biến và nhân rộng. Điều chủ yếu là cần gây ý thức
thường xuyên đúc rút kinh nghiệm trong mỗi cán bộ quản lý giáo dục và nhà giáo và
lấy trường học làm đơn vị chính để tổ chức các buổi trao đổi, đánh giá và phổ biến
CT, SKKN.
Có mấy cách chủ yếu để phát hiện và bồi dưỡng CT, SKKN.
1. Thông qua quá trình kiểm tra, thăm lớp, dự giờ của các cấp quản lý giáo dục,
của lãnh đạo đơn vị, trường học đối với thuộc cấp; của các nhà giáo với nhau. Đây là
hình thức tốt nhất giúp cho việc phát hiện kịp thời những CT, SKKN.
2. Qua kết quả chỉ đạo, điều hành, quản lý, giáo dục và giảng dạy thực tế của
các cán bộ quản lý giáo dục và nhà giáo. Bằng cách này, đòi hỏi các cấp quản lý giáo
dục, lãnh đạo đơn vị, trường học và nhà giáo phải dày công nghiên cứu, xem xét để
tìm ra sáng kiến nào đã dẫn đến kết quả tốt.
3. Thông qua các phong trào thi đua, các hoạt động sinh hoạt chuyên môn, các
buổi tọa đàm, hội thảo của cán bộ quản lý và nhà giáo trong đơn vị.
III- MỘT SỐ VẤN ĐỀ GỢI Ý VỀ VIỆC VIẾT CT, SKKN:
1. Hình thức viết CT, SKKN:
Căn cứ vào đặc điểm của từng cấp học; căn cứ vào thực tế chỉ đạo việc xét
chọn, đánh giá, công nhận CT, SKKN của những năm qua, Sở gợi ý một số cách viết
chủ yếu như sau:
1.1. Viết dưới hình thức tổng kết kinh nghiệm:
Lối viết này mang tính tổng hợp, khái quát, đòi hỏi người viết phải dùng lý
luận về giáo dục học, tâm lý học để phân tích, đánh giá thực tế giáo dục. Cách viết
này thường áp dụng trong việc tổng kết đánh giá kinh nghiệm một cách toàn diện đối
với một đơn vị hoặc một vấn đề lớn.
1.2. Viết theo lối báo cáo thực tế:
Cách viết này kinh nghiệm rút ra từ những thực tế việc làm cụ thể. Ở phần cuối
của báo cáo có nêu ra khái quát những bài học kinh nghiệm; hình thức này áp dụng
trong trường hợp báo cáo, trình bày ở hội nghị sơ, tổng kết hoặc chuyên đề.
1.3. Viết theo lối tường thuật:
Theo cách này, người viết nêu lên những CT, SKKN trong chỉ đạo, quản lý,
giáo dục và giảng dạy hoặc nhiệm vụ công tác khác của mình, thông qua những hoạt
động cụ thể. Những hoạt động được chọn phải thật điển hình, tiêu biểu, phục vụ cho
nội dung đề tài đã được xác định. Điều chủ yếu là thông qua những hoạt động này,
người viết phải nêu lên được cụ thể, hợp lý cách làm mới, có tính sáng tạo, sáng kiến
cải tiến, để giải quyết một thực tế về chỉ đạo, quản lý, giáo dục và giảng dạy hoặc
nhiệm vụ công tác của mình có kết quả tốt; cần nêu quá trình các hoạt động này theo
diễn biến thời gian của giai đoạn trước và sau khi tác động các biện pháp chỉ đạo,
quản lý, giáo dục, giảng dạy. Đây là cách viết phổ biến đối với cá nhân.
2. Xác định đề tài:
Đề tài giúp người viết xác định rõ phạm vi, hướng và tập trung mọi suy nghĩ
của mình vào một vấn đề.
Đề tài có thể đề cập đến tất cả các vấn đề trong những nội dung hoạt động của
đơn vị về quản lý, chỉ đạo, về giảng dạy, giáo dục, về các hoạt động khác… Nhưng
cần chọn một vấn đề, một khía cạnh sâu sắc nhất để viết, không nên viết cả một vấn
đề lớn và quá rộng.
Càng thu hẹp phạm vi bài viết bao nhiêu thì vấn đề viết sẽ càng sâu sắc bấy
nhiêu.
3. Bố cục, nội dung của một bản CT, SKKN:
Sau khi đã xác định được đề tài cần phải xét chọn, sắp xếp các chi tiết phục vụ
cho vấn đề đã nêu ra ở đề tài. Mỗi CT, SKKN được trình bày cần có đủ 3 yếu tố cơ
bản:
- Đặt vấn đề (khó khăn, trở ngại, hiệu quả, hạn chế,…)
- Những biện pháp giải quyết vấn đề (khó khăn, trở ngại,…)
- Kết quả đạt được và việc phổ biến ứng dụng.
Ba yếu tố trên cũng là ba thành phần cấu tạo nội dung bản CT, SKKN.
a) Phần thứ nhất: Đặt vấn đề (khó khăn, trở ngại, hiệu quả thấp, hạn chế).
2
GD-13
Đây là loại yếu tố trước tiên phải được nêu ra từ thực tiễn hoạt động công tác,
các khó khăn, trở ngại là cơ sở làm nảy sinh những CT, SKKN. Không nêu những
khó khăn, trở ngại, hiệu quả, hạn chế thì người đọc không hiểu tại sao lại có những
CT, SKKN, biện pháp nêu ở phần sau.
Khó khăn, trở ngại, hiệu quả còn thấp có nhiều loại nhưng có thể chia thành 2
loại chính:
+ Do yếu tố chủ quan: thuộc về nhận thức, trình độ, năng lực, quan niệm… của
cán bộ quản lý và nhà giáo.
+ Do yếu tố khách quan: loại này có thể có nhiều nhưng chỉ kể đến những yếu
tố có liên quan trực tiếp đến hoạt động giáo dục, giảng dạy và chỉ đạo, quản lý của
mình (môi trường giáo dục, quan niệm xã hội, cơ sở vật chất, phương tiện giáo dục).
Tóm lại, ở phần này cần nêu ngắn gọn, cần chọn lọc những khó khăn, trở ngại,
những phát sinh từ thực tiễn một cách điển hình. Đây cũng chính là lý do chọn đề tài.
b) Phần thứ hai: Những biện pháp giải quyết vấn đề
Đây là yếu tố cơ bản, là nội dung chủ yếu có tính chất quyết định giá trị toàn bộ
bản CT, SKKN. Cần nêu tất cả những biện pháp đã áp dụng trong quá trình tiến hành
các hoạt động chỉ đạo, quản lý, giáo dục và giảng dạy, phối hợp với nhiệm vụ công
tác của người viết CT, SKKN, có thể nêu những biện pháp đã áp dụng mà không
thành công để tránh. Trong phần này phải nêu thật cụ thể quá trình và cách giải quyết
từng khó khăn, trở ngại, mỗi biện pháp cần nêu rõ:
+ Cơ sở xuất phát để đề ra những biện pháp ấy.
+ Nêu diễn biến của quá trình tác động các biện pháp.
+ Tác động của biện pháp (thành công hay thất bại, kết quả đến mức nào).
Có nhiều trường hợp chỉ có một khó khăn, trở ngại nhưng phải áp dụng rất
nhiều biện pháp cùng một lúc mới khắc phục được.
Yêu cầu của phần này là làm sao cho người đọc hình dung được cách làm theo
một trình tự nhất định, hợp lý. Tính thuyết phục của bản CT, SKKN chủ yếu do nội
dung phần này quyết định.
Do đó, trong toàn bộ bản CT, SKKN thì phần biện pháp là trọng tâm.
c) Phần thứ ba: Kết quả và việc phổ biến ứng dụng nội dung vào thực tiễn.
Phần này cần nêu thật ngắn gọn, nhưng phải cụ thể, rõ ràng. Tuy không phải là
phần trọng tâm của bản CT, SKKN nhưng lại là nội dung cần thiết không thể thiếu
được. Đó là căn cứ để chứng minh những biện pháp đã áp dụng trên là đúng, là yếu tố
cuối cùng xác nhận giá trị của CT, SKKN.
Kết quả có thể nêu ở nhiều dạng khác nhau:
+ Số liệu cụ thể (nên thống kê hoặc số liệu so sánh trước và sau khi áp dụng
biện pháp)
+ Những biểu hịên cụ thể.
+ Tác dụng đối với thực tế và giá trị về các mặt (giáo dục, chính trị, kinh tế, xã
hội,…)
4. Những điều kiện cần thiết để tiến hành viết CT, SKKN:
Việc ghi chép, tập hợp tư liệu; đây là việc làm quan trọng và cần thiết. Công
tác quản lý, giáo dục, giảng dạy đối với mỗi cán bộ quản lý và nhà giáo là quá trình
lâu dài và phải tiến hành thường xuyên. Suốt thời gian ấy sẽ có biết bao diễn biến, có
việc kết quả ít, thấp, không đạt yêu cầu; có việc kết quả tốt, hiệu quả cao; mỗi việc có
3
GD-13
một biểu hiện cụ thể, nếu không ghi chép thì không thể nhớ một cách có hệ thống
những việc đã làm theo một quá trình của nó.
+ Cách ghi chép tư liệu: có 2 cách chủ yếu
- Ghi có chọn lọc: cách ghi này áp dụng đối với những trường hợp đề tài kinh
nghiệm đã được xác định từ trước. Khi cần phân tích, chọn lọc, chúng ta chỉ cần ghi
lại những tư liệu có liên quan trực tiếp đến nội dung đã viết.
- Ghi theo kiểu nhật ký: cách ghi này dễ hơn, phổ biến hơn. Người viết sẽ ghi
lại tất cả những hiện tượng trong quá tình tiến hành các hoạt động của mình theo trình
tự thời gian. Sau khi đã ghi chép đầy đủ, ta có thể phân tích, chọn lọc, sắp xếp những
tư liệu phục vụ cho một vấn đề sâu sắc nhất, có kết quả nhất.
Nội dung tư liệu: bất cứ ghi bằng cách nào thì nội dung tư liệu cũng cần bảo
đảm mấy điểm sau đây:
+ Thực trạng tình hình trước khi tiến hành các biện pháp mới, cần ghi rõ:
. Những biện pháp cụ thể.
. Ghi chép những số liệu hoặc thống kê cụ thể.
+ Diễn biến thực trạng tình hình trong quá trình áp dụng những biện pháp. Mỗi
biện pháp cần nêu cụ thể: thời gian, quá trình, diễn biến.
. Nội dung từng biện pháp.
. Quá trình diễn biến, tình hình khi áp dụng biện pháp mới (khó khăn, thuận lợi,
cách giải quyết).
. Kết quả:
Những biểu hiện.
Số liệu chứng minh.
Tác dụng.
IV- CÁCH ĐÁNH GIÁ VÀ XÉT CHỌN CT, SKKN:
Mỗi cấp quản lý giáo dục, đơn vị, trường học đều phải thành lập Hội đồng khoa
học của cấp mình do thủ trưởng đơn vị quyết định (tham khảo quyết định thành lập
Hội đồng khoa học ngành Giáo dục & Đào tạo của Giám đốc Sở). Tất cả các CT,
SKKN đều phải được Hội đồng khoa học đánh giá, xếp loại.
Khi đánh giá, xét chọn và xếp loại một bản CT, SKKN cần căn cứ vào tiêu
chuẩn xếp loại, đối chiếu với yêu cầu, nội dung của một bản CT, SKKN đã được quy
định nêu trên. Căn cứ vào tác dụng của CT, SKKN đối với thực tế công tác chỉ đạo,
quản lý, giáo dục và giảng dạy.
Từ cách đặt vấn đề trên, việc xét chọn, xếp loại CT, SKKN cần được đánh giá
trên các mặt sau:
1. Về nội dung:
a) Một bản CT, SKKN cần đảm bảo có đủ 3 yếu tố cơ bản (3 phần) đã nêu trên,
trong đó đánh giá cao yếu tố thứ hai (yếu tố biện pháp).
b) Nội dung của bản CT, SKKN phải đảm bảo 2 tính chất chủ yếu là: tính khoa
học và tính sáng tạo.
+ Tính khoa học: đây là yêu cầu cơ bản của một bản CT, SKKN. Tính khoa
học của mỗi CT, SKKN thể hiện ở các biện pháp giải quyết, các biện pháp đó phải:
4
GD-13
. Phù hợp với đường lối, chủ trương giáo dục & đào tạo của Đảng và Nhà nước.
. Phù hợp với yêu cầu, nội dung giáo dục theo từng cấp học; từng cơ quan, đơn vị.
. Phù hợp với nguyên tắc và phương châm giáo dục.
. Phù hợp với đặc điểm tâm lý, sinh lý của học sinh, sinh viên.
+ Tính sáng tạo: đây cũng là yếu tố cơ bản của một bản CT, SKKN. Do đó, khi
đánh giá cần hết sức trân trọng những biện pháp sáng tạo dù là nhỏ, vì qua đó người
viết CT, SKKN đã biết vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo, sáng kiến của mình
vào nhiệm vụ hoạt động của mình phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh giáo dục ở địa
phương mà vẫn đảm bảo được yêu cầu khoa học của quá trình thực hiện nhiệm vụ.
2. Về hình thức: bài viết phải sáng sủa, câu văn rõ ràng, mạch lạc.
3. Về xếp loại:
- Một bản CT, SKKN sẽ được Hội đồng khoa học đánh giá chung và xếp hạng
theo 4 loại: xuất sắc, khá, trung bình, không đạt yêu cầu (trường hợp không đạt yêu
cầu có thể đề nghị viết lại theo ý kiến góp ý của Hội đồng).
- Đánh giá xếp loại chung của Hội đồng sẽ căn cứ vào đánh giá của từng thành
viên Hội đồng và quyết định xếp loại theo số phiếu xếp loại chung chiếm đa số (có
mẫu phiếu đánh giá của thành viên Hội đồng kèm theo). Trường hợp có các loại có số
phiếu cao nhất bằng nhau thì xếp loại nào do Chủ tịch Hội đồng quyết định.
+ Đối với việc đánh giá xếp loại CT, SKKN của thành viên Hội đồng được vận
dụng tiêu chuẩn sau:
3.1. Loại xuất sắc: phải đảm bảo các yêu cầu sau:
3.1.1 Đảm bảo đủ 3 yếu tố cơ bản của bản CT, SKKN, trong đó yếu tố thứ hai
(yếu tố biện pháp) phải được đánh giá xuất sắc, hai yếu tố còn lại từ khá trở lên (tiêu
chuẩn đánh giá từng yếu tố, hội đồng căn cứ vào bản hướng dẫn này và thực tế của
địa phương, đơn vị để có quy định cụ thể thêm theo từng loại đề tài sao cho phù hợp
với từng ngành học, cấp học, với từng địa phương, đơn vị…)
3.1.2 Đảm bảo tính khoa học và sáng tạo.
3.2. Loại khá: phải đảm bảo các yêu cầu sau:
3.2.1 Đảm bảo đủ 3 yếu tố cơ bản của bản CT, SKKN, trong đó yếu tố thứ hai
phải được đánh giá từ khá trở lên; hai yếu tố còn lại từ trung bình trở lên.
3.2.2 Đảm bảo tính khoa học và sáng tạo.
3.3. Loại trung bình: Đảm bảo như loại khá, riêng yếu tố thứ hai được đánh giá
loại trung bình.
3.4. Loại không đạt yêu cầu:
Có ít nhất một yếu tố cơ bản không đạt yêu cầu hoặc bản sáng kiến kinh
nghiệm không đảm bảo tính khoa học hoặc sáng tạo.
4. Trình tự xét và cấp giấy công nhận:
4.1. Đối với Hội đồng cấp cơ sở (đơn vị, trường học):
- Cá nhân viết CT, SKKN nộp cho Hội đồng khoa học tại đơn vị để đề nghị xét
công nhận.
5
GD-13